15
nhập quốc dân và tổng sản phẩm sản xuất ra của kinh tế ngoài quốc doanh ngày
càng tăng.
Năm 1994, đất nước bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hoá -hiện đại
hoá với chiến lược phát triển các thành phần kinh tế hướng ra xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế phải phát triển thế mạnh tổng hợp
của các thành phần kinh tế, điều quan trọng là phải tạo ra môi trường tự do để
tất cả các thành phần kinh tế có thể xuất khẩu.
Để tạo nguồn tích luỹ trong nước và để phù hợp với trình độ khoa học -
công nghệ trong nước, nhiệm vụ đầu tiên chúng ta thực hiện đó xuất khẩu sản
xuất thô hay chúng ta “bóc” tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu. Hiện nay một
số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: dầu lửa, than đá, gạo.
Việt Nam còn phải nhập khẩu hầu hết những linh kiện điện tử và đồ điện
dân dụng từ nước ngoài. Vì vậy nhiệm vụ thứ hai đặt ra là sản xuất thay thế
hàng nhập khẩu.
Đất nước đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới trang bị kỹ
thuật - công nghệ phát triển sản xuất trong nền kinh tế quốc dân với khả năng
tiền vốn eo hẹp của ngân sách và sức ép của lực lượng lao động dôi dư cần được
giải quyết việc làm. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá này làm thế
nào chúng ta khuyến khích phát triển toàn diện các thành phần kinh tế hướng ra
xuất khẩu, nhất là ở vùng nông thôn có những làng nghề truyền thống mà lâu
nay bị mai một, cầu phục hồi phát triển để tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu thu
ngoại tệ, góp phần tích luỹ vốn nhằm đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công
nghệ theo hướng hiện đại?
II.Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế hiện nay.
Các thành phần kinh tế Việt Nam dựa trên ba hình thức sở hữu: Nhà nước,
tư nhân, hỗn hợp.
1/ Thành phần kinh tế Nhà nước:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
16
Thành phần này dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về những tư liệu sản
xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước
hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Theo số liệu thống kê, đến năm 1989 cả nước có 12.084 doanh nghiệp Nhà
nước, với số vốn khoảng 10USD, trong đó các doanh nghiệp Nhà nước trong
ngành công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn xây dựng 9%, nông nghiệp 8,1%.
Lâm nghiệp 1,2%. Giao thông vận tải 14,8%; thương nghiệp 11,57%, các ngành
khác 5,9%.
Hàng năm, thành phần kinh tế Nhà nước đa tạo ra khoảng 35 - 40% GDP
và 22 - 30% GDP, đóng góp từ 60 - 80% tổng số thu ngân sách.
Nhìn tổng quát, toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước chưa tự đảm bảo tái sản
xuất giản đơn. Sự tăng trưởng hàng năm của khu vực kinh tế Nhà nước chủ yếu
do việc gia tăng lượng vốn và lao động. Số đóng góp của khu vực kinh tế Nhà
nước so với số chi của ngân sách Nhà nước cho khu vực này từ năm 1990 trở về
trước là 1:3.
Sau ba năm cấu trúc lại và chuyển đổi cơ chế nhìn chung năm 1991 khu
vực kinh tế Nhà nước có một số chuyển biến bước đầu. Các doanh nghiệp Nhà
nước, đặc biệt là các doanh nghiệp do Trung ương quản lý trong ngành công
nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện viễn thông đa từng bước
thích nghi với cơ chế thị trường nên đa đi dần vào thế ổn định.
Nhưng những điểm sáng này chưa nhiều. Sự khởi sắc của chúng vẫn chưa
có cơ sở chắc chắn và lâu bền. Số doanh nghiệp Nhà nước đang trong tình trạng
phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, đình đốn vẫn chiếm quá nửa số doanh nghiệp
Nhà nước hiện có.
Kết quả điều tra gần đây cho thấy, trong quá trình vận hành cơ chế quản lý
mới, kinh tế Nhà nước cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém và hạn chế.
Một là, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn như
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
17
thiếu vốn, thiếu thị trường, bị thua lỗ triền miên, phải “ăn dần” vào vốn. Hiện
nay, trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước, chỉ khoảng 20 - 25% (chủ yếu là
doanh nghiệp Nhà nước trung ương) có lai, 30 - 35% hoà vốn, còn lại khoảng
40% (chủ yếu là doanh nghiệp địa phương) bị lỗ vốn. Số doanh nghiệp thua lỗ
chiếm tới 38% số tài sản cố định và 33% số lao động. Tình hình phổ biến là
thiếu việc làm, thừa nhân lực, đặc biệt trong thương nghiệp, xây dựng, thừa
khoảng 40 - 50% số lao động hiện có. Hiện nay có khoảng 80 - 90% số doanh
nghiệp Nhà nước quận, huyện, 50 - 60% số doanh nghiệp Nhà nước cấp tỉnh
thuộc tất cả các ngành kinh tế đang trong tình trạng đình đốn, không có khả năng
hoạt động. Số doanh nghiệp này hầu hết là quy mô bé, kỹ thuật và công nghệ lạc
hậu, không đồng bộ, sản phẩm làm ra kém chất lượng.
Hai là, nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả thấp, mới huy
động khoảng 40 - 50% năng lực sản xuất. Hệ số sinh lời của vốn cố định trong
kinh tế Nhà nước bình quân chỉ đạt 7% năm, trong đó, ngành công nghiệp 3%,
giao thông vận tải 2%, thương nghiệp 2%. Hệ số sinh lời vốn lưu động cũng chỉ
đạt 11%/ năm, trong đó các ngành tương ứng đạt 10,6%, 9,4%, 9,5%. Mức tiêu
hao vật chất cho một đơn vị giá trị tổng sản phẩm xa hội cao hơn so với kinh tế
ngoài quốc doanh và gấp 1,3 - 2,2 lần mức trung bình trên thế giới.
Mặt hàng làm ra đơn điệu, chậm cải tiến mẫu ma, chất lượng thấp và không
ổn định, chỉ khoảng 15% số loại sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 65% đạt
tiêu chuẩn trung bình, 20% đạt chất lượng kém và quá kém.
Ba là, tài sản, vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phổ biến là không
được bảo tồn và phát triển, năng lực sản xuất không được mở rộng và tái tạo,
ngược lại bị thất thoát, hư hỏng, lang phí nhiều nhưng không biết quy trách
nhiệm về ai.
Trong những năm gần đây, không ít doanh nghiệp đa lợi dụng những kẽ hở
của cơ chế quản lý mới chưa được hoàn chỉnh và đồng bộ để mua đi bán lại tài
sản, vật tư, khai báo sai doanh thu, định ra những chế độ chi tiêu, phân phối rất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
18
tuỳ tiện trong đơn vị khác để chia chác, làm giàu cho cá nhân, vi phạm lợi ích
Nhà nước.
Tình hình nêu trên đa làm cho vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước bị lu
mờ, nhất là trong điều kiện Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khác
phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
Vì vậy việc đánh giá kinh tế Nhà nước ở nước ta cần phải đứng trên quan
điểm lịch sử mà phán xét một cách khách quan, toàn diện. Không nên chỉ đơn
thuần dựa vào những yêu cầu của một nền kinh tế hàng hoá mà phê phán có tính
một chiều, phủ nhận mọi sự đóng góp quan trọng của kinh tế Nhà nước, thậm
chí đi đến chỗ cực đoan muốn xoá bỏ nó. Phải nghiêm túc vạch ra những yếu
kém của nó để khắc phục, làm cho kinh tế Nhà nước chẳng những hoạt động có
hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn làm tròn được trách nhiệm về mặt xa hội.
2/ Thành phần kinh tế tập thể:
Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu hỗn hợp gồm các đơn vị kinh tế
do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng cùng có lợi.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, các loại hình hợp
tác này được Nhà nước bảo trợ áp dụng nhiều chính sách ưu tiên cung cấp tư
liệu sản xuất, nguyên vật liệu, giá cả, bảo tiêu. Đồng thời nó phải thực hiện các
nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh theo các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao.
Thành phần kinh tế tập thể được xem là trợ thủ đắc lực, là bạn đồng hành của
các doanh nghiệp Nhà nước.
a)Kinh tế tập thể trong nông nghiệp:
Trước yêu cầu khách quan về việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông
nghiệp, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị đa đề ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp nhằm giải quyết tốt hơn lợi ích của người lao động.
Với chính sách “khoán 10”: giao ruộng, giao đất cho người nông dân, làm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
19
bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, quá trình sản xuất nói chung được khép kín trong
từng hộ. Theo kết quả điều tra năm 1990việc phân chia lợi ích trong hợp tác xa
hợp lý hơn lợi ích xa viên tăng lên (Nhà nước 12,8%, tập thể 16,54%, xa viên
được nhận 70,59%, sau khi trừ chi phí còn được hưởng 44,65%). Đây là một
trong những yếu tố cơ bản đưa đến chỗ sản lượng lương thực bình quân thời kỳ
1989 - 1992 đạt 22,2 triệu tấm/năm, riêng năm 1992 đa đạt 24 triệu tấn, biến
nước ta từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến đủ và có thừa.
ở một số nơi đa xuất hiện một số loại hình hợp tác xa kiểu mới và có số
người nông dân tự nguyện tham gia và góp cổ phần, lời ăn, lỗ chịu. Những loại
hình này đang phát huy tác dụng và làm ăn có hiệu quả.
Tuy nhiên khi hoàn cảnh và điều kiện thay đổi mô hình này đa bộc lộ
những thiếu sót, yếu kém sau:
Thứ nhất: chúng ta tiến hành cải tạo nông nghiệp chủ ý nhiều đến thay đổi
chế độ sở hữu với tư liệu sản xuất, mà hầu như thiếu sự quan tâm đến việc tổ
chức lại sản xuất theo phương thức của nền sản xuất tiến bộ, và không coi trọng
đúng mức lợi ích cá nhân của người lao động, do đó người nông dân không gắn
với ruộng đất, bởi vì phần thu nhập không những quá ít ỏi mà còn mang tính
bình quân giữa những người đóng góp công sức nhiều với người đóng góp ít.
Thứ hai: Bộ máy quản lý hợp tác xa cồng kềnh, quan liêu, cán bộ nói
chung thiếu năng lực tổ chức, quản lý do ít được đào tạo và chất lượng đào tạo
kém.
Vì vậy để có thể phát triển thành phần kinh tế tập thể có hiệu quả chúng ta
phải coi trọng kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích: xa hội, tập thể, cá nhân, vì đó là
cơ sở để phát huy các động lực cá nhân, tập thể, xa hội. Mỗi lợi ích có phạm vi
nhất định, song sự thống nhất giữa ba lợi ích sẽ phát huy ảnh hưởng tích cực đến
kết quả sản xuất.
Với sự nghiệp đổi mới một cách căn bản và toàn diện, thành phần kinh tế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
20
tập thể trong nông nghiệp sẽ tạo ra sức sản xuất mới, đưa nông nghiệp và nông
thôn phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
b)Trong công nghiệp:
So hợp tác xa thương nghiệp từ 32.034 năm 1988 giảm còn 21.901 năm
1989; 13.086 năm 1990 và 9.660 năm 1991. Mức sản xuất cua những hợp tác xa
này năm 1989 giảm 36,1% và năm 1991 giảm 47% so với năm trước. Vì lẽ đó,
mức đóng góp của chúng trong giá trị tổng sản lượng của toàn ngành công
nghiệp tính theo giá cố định năm 1982 giảm dần, năm 1988 giảm 23,9%, năm
1989 giảm 15,8%, năm 1990 giảm 13,7% và năm 1991 giảm 6,8%.
c)Trong thương nghiệp:
So với năm 1986, đến năm 1991 chỉ còn khoảng 25% số hợp tác xamua bán
còn hoạt động, còn gắn 3.300 hợp tác xa đa giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động.
Tương ứng với tình hình này, vai trò của hợp tác xa mua bán trong thị trường xa
hội cũng giảm sút nghiêm trọng: tổng mức bản lề hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng
xa hội từ 25 - 30% những năm 1980 - 1985, xuống còn 14,6% năm 1986: 12,6%;
năm 1987: 9,2% năm 1988 6,1% năm 1989: 2,7% năm 1990 va chỉ còn 1,8%
năm 1991.
Sở dĩ các hợp tác xa mua bán lâm vào tình trạng hiện nay là do:
• Trong quá trình thành lập và phát triển ca s hợp tác xa đa không nhất
quán những nguyên tắc cơ bản của tổ chức kinh tế tập thể là tự nguyên, cùng có
lợi, quản lý dân chủ. Vừa qua, nhiều tổ chức hợp tác xa đa hoạt động cũng như
mô hình thương nghiệp quốc doanh.
• Phương thức hoạt động không bám sát mục tiêu và nhiệm vụ khí sáng lập,
nhiều tổ chức hợp tác xa dần dần trở thành tổ chức đi buôn kiếm lời cho mỗi
nhóm người.
• Vốn ít, không am hiểu thị trường nên hoạt động bị thua lỗ, mất vốn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
21
• Nhận thức của các cấp quản lý, nhất là chính quyền huyện, tỉnh, không rõ
đối với loại hình kinh tế này, hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt động của nó, hoặc
sát nhập, giải thể một cách tuỳ tiện.
• Phát triển tổ chức tràn lan. ở những nơi hợp tác xa được xây dựng xuất
phát từ phong trào, chứ không vì nhu cầu người tiêu dùng: do vậy nhiều hợp tác
xa ở thành phố cho tư thương đội lốt kinh doan nhằm trốn thuế.
Tuy các hợp tác xa mua bán đa phân ra hàng loạt, song không thể vì vậy
mà phủ nhận hoàn toàn vai trò của loại hình này. Trước hết cần khẳng định,
trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xây dựng như
nước ta, thì hợp tác xa là hình thức tổ chức kinh tế hợp lý nhất. Nó dễ tập hợp
các hộ nông dân lại để sản xuất, kinh doanh trên nguyên tắc bình đẳng tự
nguyện, cùng có lợi. Trong thời gian tới, cần từng bước củng cố loại hình hợp
tác xa mua bán ở nước ta, nhất là ở nông thôn.
Quan điểm đổi mới với hợp tác xa là:
• Trả lại cho hợp tác xa cái bản chất của mình - là tổ chức kinh tế tự
nguyên của nhân dân lao động, thực hiện chức năng mối dây liên kết những
người sản xuất nhỏ với thị trường.
• Hợp tác xa hoạt động tự do, bình đẳng với các thành phần khác trên thị
trường. Nhưng do điều kiện và vị trí của mình, hợp tác xa cần chú trọng thành
lập mối liên hệ kinh tế với thương nghiệp quốc doanh.
• Quán triệt nguyên tắc quản lý của kinh tế tập thể.
3/ Kinh tế tư nhân:
Dựa trên hình thức sở hữu tư nhân. Theo cách hiểu truyền thống trước đây
thì kinh tế tư nhân (bao gồm thành phần tư bản tư nhân và kinh tế tư nhân của
những người sản xuất nhỏ) là thành phần kinh tế không tiến bộ, phải nhanh
chóng xoá bỏ hoặc cải tạo bằng mọi giá.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -