Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

TIẾP CẬN NỀN GIÁO DỤC KHOA CỬ THỜI LÊ SƠ_2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.24 KB, 9 trang )

TIẾP CẬN NỀN GIÁO DỤC
KHOA CỬ THỜI LÊ SƠ

Các quan lại già yếu, kém cỏi sẽ bị thải về quê. Nếu ai cố tình chạy
chức, chạy quyền sẽ bị trị tội nặng. Nhà vua đề ra chức nhất phẩm tân
quan (chức quan danh dự) để truy tặng cho các vị công thần khai quốc
có mặt trong hội thề Lũng Nhai bị hy sinh mà chưa được nhận chức
tước, bổng lộc gì của triều đình. Từ 1492, vua tăng cường các quan
trong Hàn lâm viện (mỗi ty 4 người) làm khảo quan tại các ty thừa
tuyên: Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc trong các kỳ thi
hương để tránh những sự thông đồng, tiêu cực của các quan địa phương.
Lê Thánh Tông là một minh quân, ông luôn đề cao trí thức, trọng đãi
người tài đức, khoa bảng. Năm 1496, sau quy định cấp chức của quan
lại, các cấp phải căn cứ vào bằng cấp, đạo đức và thử thách qua quá trình
làm việc. Nhất thiết phải đỗ đạt mới được bổ làm quan.

Năm 1497, vua Lê Thánh Tông băng hà, vua Lê Hiến Tông được nối
ngôi. Ngay khi nhận chức, ông đã chú ý cải cách giáo dục, xuống chiếu
cầu hiền và có sắc chỉ phải chọn tiến sĩ xuất thân liêm khiết, siêng năng,
cương trực, làm việc giỏi để bổ nhiệm vào cấp sự trong 6 khoa. Những
chức vụ quan trọng như giám sát ngự sử hoặc tổng binh không được trao
cho người yếu kém, dù xuất thân quý tộc. Từ đây, thể lệ trường thi được
quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trường thi thời này được chia ra 4 khu
rộng, có rào bao quanh xen kẽ những tháp có lính canh suốt ngày, nếu có
họ hàng dự thi thì quan chấm trường không được làm khảo quan. Bài thi
của thí sinh được khảo quan chép lại sau đó các quan chấm thi chấm
theo bài chép lại đó để đề phòng việc các thí sinh đánh dấu bài thi. Thí
sinh nào vi phạm quy định trường thi phải xung vào quân bản phủ 3 năm
và suốt đời không được dự thi.

Dưới thời các vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, nền giáo dục khoa


cử đạt đến đỉnh cao, tạo ra một tầng lớp trí thức nho học rất giỏi kinh sử.
Ngoài các khoa thi lớn mang tầm quốc gia để tuyển chọn cử nhân, tiến
sĩ, nhà Lê còn có nhiều khoa thi đột xuất để tìm kiếm nhân tài: Khoa
hoành từ là khoa thi trên cấp thi hương, dưới cấp thi hội, khoa sĩ vọng
(tuyển cử) chọn người để bổ tri huyện như người đỗ hương cống. Đặc
biệt, nhà Lê còn mở khoa đông các để tuyển chọn những tiến sĩ giỏi nhất
bổ vào các sảnh, viện, cục trong triều đình.

Từ năm 1502, Lê Hiến Tông quy định bảng vàng được treo ở nhà Thái
học Quốc Tử Giám chứ không treo ở cửa Đông Hoa nữa. Từ đây, bảng
vàng bia đá được gắn với nhau ngay trong khuôn viên Quốc Tử Giám,
có tác dụng thôi thúc, nhắc nhở tầng lớp trí thức phải rèn luyện không
ngừng về tài và đức để không làm hổ thẹn cái danh kẻ sĩ và không phụ
lại sự trọng đãi của nhà vua.

Từ khi Lê Uy Mục và Lê Tương Dực lên ngôi, phong tục suy đồi, kỷ
cương rối loạn vì vua bạo ngược, gian dâm, giết người tôn thất, chuyên
quyền độc đoán, chèn ép các sĩ phu, bọn gian nịnh được tin dùng, triều
Lê dần sa sút. Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi nhà Lê. Thời
Lê sơ trải 100 năm, qua 10 đời vua, kết thúc.

Mặc dù vậy, thời Lê sơ được xem là một thời thịnh trị của chế độ phong
kiến Việt Nam, được đánh dấu bởi những chiến công cực kỳ hiển hách
của quân dân Đại Việt đánh tan giặc Minh xâm lược, xây dựng nên một
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, đạt nhiều đỉnh
cao sánh ngang với các vương triều phương Bắc trên các mặt chính trị,
kinh tế, xã hội, trong đó chế độ học tập, khoa cử và trọng dụng hiền tài
được đặc biệt chú trọng và trở thành mẫu mực cho thời sau.

Trước đây, khi nói đến nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ, có người nghi

ngờ tính chất độc lập, sáng tạo của nó và cho rằng nền giáo dục đó nhiều
lắm cũng chỉ là sự sao chép, mô phỏng của nền giáo dục Trung Hoa.
Việc đồng nhất hai nền giáo dục như trên là thiếu cơ sở khoa học và
thiếu tính thuyết phục. Bản thân nền giáo dục nước ta dựa trên những
quy luật phát triển riêng của nó mà thời đại Lý-Trần được xem là thời kỳ
dựa trên tư tưởng của tam giáo đồng nguyên. Thời Lê sơ đánh dấu sự kết
thúc của quá trình tiếp thu, thâu hóa các khuynh hướng giáo dục từ bên
ngoài sau khi đã vượt ra khỏi cái bóng của nho, phật, lão để dựng nên
một cột mốc mới trong lĩnh vực tri thức hết sức phức tạp và thường
xuyên biến động để nền giáo dục, khoa cử Đại Việt có một nội dung
riêng, một vị trí độc lập ngang bằng với các quốc gia.

Dẫu rằng vua tôi nhà Lê sùng nho, trọng đạo, nhưng thời Lê sơ được
xem là giai đoạn mà nền giáo dục khoa cử đã chín muồi về nội dung và
hình thức. Cũng như sự nghiệp giáo dục của bất kỳ quốc gia nào thời đó,
giáo dục, thi cử nước ta tập trung thực hiện mục tiêu dạy làm người và
truyền bá đạo làm người mà cái đạo đó nhất định phải hướng tới xây
dựng những chuẩn mực đạo đức vừa mang tính chất riêng của con người
gia đình, vừa mang tính chất con người xã hội phù hợp với những giá trị
văn hóa truyền thống Việt Nam và phù hợp với những giá trị văn hóa
thời đại. Chính vì lẽ đó mà một số nội dung tích cực của đạo nho đã
được các ông vua thời Lê tiếp thu triệt để nhưng theo một nhân sinh
quan và một hệ quy chiếu hoàn toàn khác, đó là: Lấy con người Việt
Nam và tổ quốc Việt Nam là trung tâm, lấy dân tộc Việt Nam làm gốc.

Thông qua việc dạy con người học trong sách vở, học qua sự trao truyền
giữa các thế hệ, học ở đời kết hợp với việc học qua thầy, qua bạn mà nền
giáo dục khoa cử thời Lê sơ đã hướng con người đến chữ nhân, đưa con
người về chữ hiếu, dẫn con người đến chữ trung, khuyên con người về
chữ nghĩa, đó là những giá trị hằng xuyên và bất biến của bất kỳ xã hội

nào.

Chẳng những thế, nền giáo dục đó đã dạy và rèn luyện con người sống
một cách hướng thiện, chính trực, thẳng thắn, công minh, thanh cao,
trong sạch dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Vượt qua chiều rộng của không
gian, chiều sâu của thời gian, tinh thần nhân văn và nhân đạo trong nền
giáo dục đã trở thành sức mạnh vô song để củng cố lòng tin, điều chỉnh
hành vi của con người, cung cấp cho họ những chuẩn mực để rèn luyện
ý chí, nghị lực hình thành thái độ trước cuộc đời, thể hiện sự yêu - ghét
và khí phách, cốt cách của những con người có tri thức, có khả năng
nhận thức được chân lý.

Ở một quốc gia quân chủ chuyên chế phương Đông, các vua nhà Lê là
người đứng đầu và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục, khoa cử. Triều
đình coi việc giáo dục, mở khoa thi kén kẻ sĩ là việc làm đầu tiên trong
phép trị nước, là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt
động của nhà nước phong kiến, gắn với sự hưng vong của triều đại, đồng
thời là lĩnh vực trọng yếu để giữ vững cơ đồ, mở mang giáo hóa, sắp xếp
chính sự, gìn giữ kỷ cương, xây dựng, củng cố nền tảng chính trị của chế
độ, do đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh, công khai, nghiêm ngặt,
thường xuyên, nhằm lựa chọn được những người tài đức xứng đáng.

Mục tiêu cuối cùng của nền giáo dục, khoa cử đó là khẳng định, bảo vệ
củng cố, ca ngợi và duy trì chủ nghĩa tôn quân phong kiến, chứng minh
cho sự trường tồn của chế độ phong kiến là hợp quy luật, làm cho hệ tư
tưởng phong kiến và những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa
dân tộc cùng những tinh hoa của văn hóa nhân loại chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần; củng cố, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng,
tạo ra sự đoàn kết toàn dân, giữ vững và mở rộng sự ảnh hưởng của chế
độ phong kiến Việt Nam, đào tạo được một tầng lớp quan lại từ trung

ương đến địa phương có đủ năng lực, đạo đức, bản lĩnh để trị quốc. Giáo
dục thời Lê luôn luôn gắn liền với việc thi cử để chọn lựa nhân tài và mở
nền nhân văn, khai hóa thiên hạ. Triều đình hết lòng chuộng kẻ sĩ và tin
dùng kẻ sĩ, giao cho họ nhiều trọng trách lớn lao để họ thỏa chí trung
thành cống hiến cho đất nước. Những bài giảng, đề thi trong các cuộc thi
đình thường gắn với những nội dung bàn về việc trị quốc, bình thiên hạ.

Kết cấu giai cấp trong xã hội thời Lê sơ đã có sự thay đổi rõ nét, vì với
một nền giáo dục, khoa cử phát triển mạnh mẽ, sau hàng trăm năm đã
tạo ra một tầng lớp trí thức nho sĩ đông đảo được trang bị một nền học
thuật mới, phần lớn trong số họ đã được bổ sung vào bộ máy nhà nước
và trở thành một lực lượng quan trọng góp phần giải quyết những vấn đề
mà thời đại đặt ra.

Đặc biệt, từ năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng bia tiến sĩ ở nhà
Thái học, đó là một việc làm chưa từng có và có ý nghĩa nhân văn hết
sức to lớn. Xuất phát từ việc coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
quyết định vận mệnh thịnh suy của đất nước cho nên các bậc đế vương
triều Lê đều chú trọng đến việc gây dựng hiền tài, kén chọn kẻ sĩ, coi bồi
dưỡng nguyên khí là việc đầu tiên của sự nghiệp trị quốc. Sau mỗi kỳ thi
tiến sĩ, thì dựng bia ghi danh tiến sĩ là một sự kiện quan trọng của triều
đình vì nó không chỉ nhằm khuyến khích nhân tài, đề cao học vấn, lưu
truyền thiên thu cho hậu thế, tạo truyền thống khoa bảng ham học cho
muôn đời con cháu mà còn củng cố huyết mạch cho đất nước, chỉ đường
dẫn lối cho các sĩ phu, răn đe những thói xấu, ca ngợi những điều hay,
khuyên con người rèn luyện tâm tính, tu nhân, tích đức, không làm điều
gì hổ thẹn đến danh tiết của người quân tử-kẻ sĩ.

Với một nền kinh tế nông nghiệp, tiểu nông lạc hậu tự cấp tự túc là chủ
yếu, trong đó kinh tế thương mại và thủ công nghiệp rất kém phát triển,

ở thời Lê sơ (TK XV), con đường duy nhất và cũng là danh giá nhất cho
người nông dân có thể thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn là học tập và thi
cử. Nếu may mắn đỗ đạt thì được trọng dụng, được bổ nhiệm làm quan,
được “xuất thân” khỏi lũy tre làng hòa nhập vào xã hội rộng lớn hơn.
Một ước mơ rất chính đáng và tốt đẹp nhưng rất nhiều người không thực
hiện được.

Có thể nói rằng, nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ đã được định hình và
phát triển rực rỡ từ năm 1442 đến năm 1526. Trong thời gian đó, tổ chức
được 26 kỳ thi, tuyển được 998 tiến sĩ (4), đó là những người tài giỏi và
một số trong những tiến sĩ này là những nhân tài kiệt xuất (Nguyễn
Trực, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận), góp phần làm
rạng rỡ lịch sử và văn hóa Việt Nam. Chính họ là những người trao
truyền, giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa tinh thần của cha ông
để lại và biến chúng trở thành bất tử. Những tiến sĩ ấy là sản phẩm của
một thời thịnh trị và phát triển đến đỉnh cao của nền văn hóa, giáo dục
dân tộc.

Tuy nhiên, do hạn chế tất yếu của thời đại phong kiến mà nền giáo dục,
khoa bảng của triều Lê sơ cũng chỉ phát huy được trong một chừng mực
nhất định, bởi vì nó chỉ được phát triển tập trung ở đô thị, hướng vào đào
tạo con quan, nhà giàu là chủ yếu. Trong nền giáo dục phong kiến đó,
luôn luôn có sự phân biệt đẳng cấp, cấm phụ nữ và con cháu những
người làm nghề cầm ca được tham gia; nội dung đào tạo chủ yếu nhằm
vào thi, thư, Bắc sử, chú trọng nhiều đến dạy đạo lý mà chưa quan tâm
đúng mức đến truyền đạt kiến thức khoa học. Cách truyền đạt cổ điển,
thiếu tính sáng tạo, chủ yếu dùng cách đối thoại, lục vấn, hoài nghi,
trọng từ chương, học thuộc lòng, khuôn sáo, ưa hư văn. Có những giai
đoạn bị lũng đoạn, tiêu cực trong giáo dục thi cử. Số tiến sĩ đỗ đạt thấp
(khoảng 1%), số còn lại không được trọng dụng, chủ yếu làm nghề dạy

học ở các hương thôn, làng xã và nhiều nhà nho nghèo mang trong lòng
tâm trạng bất mãn với triều đình. Chính những nhà nho nghèo đó sẽ là
một lực lượng đáng kể trong các cuộc đấu tranh với triều đình phong
kiến sau này.

Sau thời Lê sơ, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ suy thoái,
các thế lực phong kiến (Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn) tranh giành nhau
quyền bính, đưa đất nước vào cảnh nội chiến tương tàn, nền giáo dục
khoa cử thời hậu Lê diễn tiến theo một chiều hướng đa dạng và phức tạp
hơn.

×