Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thử sắp xếp truyện cổ Phật giáo Việt Nam theo bảng tra cứu các type truyện dân gian của A. AARNE và S. THOMPSON (A-T) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.87 KB, 5 trang )

Thử sắp xếp truyện cổ Phật giáo
Việt Nam theo bảng tra cứu các
type truyện dân gian của A.
AARNE và S. THOMPSON (A-T)




6. Nhà sư đi tìm lại bộ lòng đã vứt (biến thành chim bìm bịp) (10 bản truyện): Một
nhà sư giáo hóa cho kẻ giết người, được nhờ mang hộ quả tim (bộ lòng) dâng Phật
nhưng vứt chúng vào bụi. Đức Phật hóa ra cụ già hỏi về vật được gửi. Nhà sư quay lại
tìm những thứ đã vứt, hóa thành chim bìm bịp (hoặc cá he).
7. Nhà sư và chiếc rìu bị bỏ quên (2 bản truyện): Các nhà sư trông thấy một cái
rìu bỏ quên. Họ bộc lộ lòng tham qua những câu tụng niệm không có trong kinh Phật.
Chủ nhân chiếc rìu xuất hiện, đòi lại vật dụng của mình cũng theo lối tụng kinh của các
vị sư tham lam đó. Đây là một type truyện thuộc loại truyện cười tôn giáo.
8. Nhà sư và cô gái đẹp (7 bản truyện): Một cô gái đẹp tới quyến rũ vị cao tăng.
Nhà sư không vượt qua được thử thách và bị trừng phạt (bị biến thành con ếch). Type
truyện này còn được gắn với tên tuổi của nhà sư Huyền Quang, một vị cao tăng của đạo
Phật và cung nữ Điểm Bích, nhưng thường cho rằng nhà sư bị oan.
9. Những phép màu của nhà sư (4 bản truyện): Nhà sư đắc đạo có những phép
thuật kì lạ, trả được thù cha. Do nhân quả báo ứng, nhà vua (là kiếp sau của nhà sư)
hóa hổ, được những nhà sư đắc đạo khác giải thoát. Type truyện này thường được gắn
với tên tuổi của các vị cao tăng như Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
10. Sự hy sinh của cá Ông Nam (2 bản truyện): Sự xả thân cứu nạn cho mọi
người của con cá voi (hay một vị hoàng tử) được nhân dân lập miếu thờ (hoặc được lên
niết bàn thành Phật).
11. Sự nhẫn nhịn của nhà tu hành (3 bản truyện): Một nhà sư (là nữ cải trang
hoặc là một người ái nam ái nữ) chịu oan khuất (mang tiếng phá giới luật, chịu phạt và
nhận nuôi đứa trẻ không phải là con của mình), được giải oan và trở thành Phật Bà
Quan Âm; ngược lại, nhà sư không làm tròn lời phát nguyện nhẫn nhịn bị trừng phạt


(biến thành chim tu hú).
12. Sự tích chuông, trống và mõ (3 bản truyện): Một người cứu mãng xà và bị nó
đòi ăn thịt. Trâu và cá chẽm đồng tình với hành động của mãng xà. Đức Phật biến mãng
xà thành cái giá treo chuông, phạt trâu phải lột da để bịt trống, cá chẽm phải trở thành
cái mõ.
13. Sự tích con muỗi (2 bản truyện): Theo lời Phật, người đàn ông yêu vợ cứu
sống vợ mình bằng ba giọt máu. Người vợ thay lòng đổi dạ, anh ta đòi lại ba giọt máu.
Người vợ chết và bị Phật biến thành con muỗi.
14. Sự tích Phật Mẫu Man Nương (2 bản truyện): Người con gái vô danh có mang
một cách kì lạ khi nhà sư (gốc Ấn Độ sang truyền đạo) bước qua, sau này được tôn
thành Phật Mẫu Man Nương. Type truyện này giải thích nguồn gốc hội Tắm Phật.
15. Thủy ngân trong cái cân biến thành cục máu (5 bản truyện): Hối hận, vợ
chồng người thương gia giàu có làm lễ sám hối và đem cái cân rỗng ra chẻ. Thủy ngân
trong cái cân đã biến thành cục máu. Hai đứa con trai (do lũ quỷ đầu thai) lăn ra chết,
hai đứa con trai khác hiền lành, giỏi giang được sinh ra.
3. Một số nhận xét rút ra
3.1. Ngoài type 1730 nằm trong mục truyện cười tôn giáo, 7 trong số 8 type
truyện cổ Phật giáo còn lại thuộc hiện tượng trùng khung nằm trọn vẹn trong chủ
đề Thần thánh thưởng và phạt theo khung số truyện tôn giáo của bảng tra cứu A-T. Có
lẽ là do trong tâm thức của người Việt Nam, Phật (hay Bụt) cũng chỉ giống như là một
vị thần luôn có mặt ở mọi nơi, sẵn sàng cứu giúp những người tốt và trừng phạt kẻ xấu.
Sự ban thưởng hay trừng phạt này là kết quả của mối quan hệ nhân quả báo ứng trong
đạo Phật, đồng thời cũng thể hiện quan niệm “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” phổ biến
trong dân gian.
3.2. Trong số 30 type truyện cổ Phật giáo được khảo sát, có 7 type (23,3%) thuộc
loại truyện cười tôn giáo. 6/7 type truyện loại này nằm lệch khung hoặc ngoài khung số
truyện tôn giáo trong bảng tra cứu A-T. Truyện cười dân gian liên quan tới tôn giáo
thường khai thác những mặt trái của tôn giáo nào đó. Những mặt trái, mặt cần phê phán
này thường bộc lộ vào giai đoạn thoái trào trong sự phát triển của chính tôn giáo ấy. Với
truyện cười Phật giáo, nội dung các type truyện chủ yếu xoay quanh sự vi phạm những

điều cấm kỵ đối với đạo Phật như kiêng sắc giới (type 1678), kiêng sát sinh, kiêng ăn thịt
chó (type 1565**), không được tham lam (type truyện Nhà sư và chiếc rìu bị bỏ quên),…
Như vậy, nội dung chính của các type truyện cổ Phật giáo Việt Nam cũng xoay quanh các
yếu tố cơ bản của một tôn giáo như nhân vật tôn giáo (các vị Phật, các nhà sư và Phật tử)
và các giáo lý của Phật giáo theo quan điểm chính thống (như trong các type truyện truyền
thuyết Phật giáo, ngụ ngôn Phật giáo…) hay quan điểm phi chính thống (như trong các
type truyện cười Phật giáo).
3.3. Ba mươi type truyện cổ Phật giáo Việt Nam có lẽ chưa phải là con số cuối
cùng song có thể nói là khá phong phú, xấp xỉ 8% (7,85%) số lượng type truyện tôn
giáo trong bảng tra cứu A-T.
Một nửa (tức 50%) số type truyện cổ Phật giáo đó có thể đánh số theo bảng tra
cứu A-T, có ý nghĩa khẳng định hiệu quả ứng dụng không thể phủ nhận của bảng tra
cứu này trong việc sắp xếp các kho tư liệu truyện dân gian của các quốc gia khác nhau
theo lý thuyết type và motif. Đối tượng truyện tôn giáo trong bảng tra cứu A-T chủ yếu
là truyện cổ Thiên Chúa giáo, trong khi đối tượng truyện tôn giáo mà chúng tôi tiến
hành khảo sát là truyện cổ Phật giáo, vì vậy sự lệch chuẩn của 23% số type truyện so
với khung số truyện tôn giáo trong bảng tra cứu A-T là điều có thể lý giải được.
Số 50% còn lại của các type truyện cổ Phật giáo nằm ngoài khung so với bảng
tra cứu A-T, cho thấy độ chênh lệch khá lớn của thực tế nguồn tư liệu truyện kể dân
gian Việt Nam. Kết quả tương tự cũng được các nhà nghiên cứu folklore châu Á như
Đinh Nãi Thông (Trung Quốc), Hiroko Ikeda (Nhật Bản) thu nhận khi tiến hành lập
bảng tra cứu type truyện dân gian Trung Quốc và Nhật Bản theo bảng tra cứu A-T.
Kết quả trên còn cho thấy, bảng tra cứu A-T qua thời gian đã trở thành một hệ
thống chỉ dẫn tích cực cho việc phân loại các type truyện kể dân gian của nhiều quốc
gia khác nhau, song thực tế không thể áp dụng một cách máy móc, dập khuôn. Bởi có
thể có các type truyện nằm ngoài khung số tra cứu của bảng tra cứu A-T, khẳng định
sự phong phú cũng như tính địa phương rõ nét của truyện kể dân gian các nước, đồng
thời cũng phản ánh tính chưa bao quát triệt để của bảng tra cứu.
Tóm lại, trong quá trình nghiên cứu về truyện cổ Phật giáo và những vấn đề liên
quan tới các type truyện loại này, thông qua khảo sát đối chứng, chúng tôi nhận thấy độ

chênh lệch như đã nêu ở trên chủ yếu là do vấn đề bao quát tư liệu (chúng tôi nhấn
mạnh). Do vậy, nhằm bổ sung và làm tăng hiệu quả ứng dụng của bảng tra cứu A-T,
việc tiếp tục mở rộng phạm vi tư liệu về các type truyện dân gian ở các nước trên thế
giới, cũng như việc tiến hành lập một bảng tra cứu các type truyện dân gian ở Việt Nam
nói riêng, vẫn luôn là một yêu cầu cần thiết và có tính thời sự đối với khoa nghiên cứu
folklore hiện nay

×