Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thơ lãng mạn Trung Hoa - Từ Khuất Nguyên đến Lý Bạch và Lý Hạ _3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.47 KB, 5 trang )

Thơ lãng mạn Trung
Hoa - Từ Khuất Nguyên
đến Lý Bạch và Lý Hạ




Ngọn gió xuân – thu đều mang ý nghĩa thời gian với tính chất chảy trôi vô thường.
Cũng là ngọn gió của cung đàn lãng mạn, nhưng mĩ cảm ở Lý Bạch rạo rực xuân tình thổi
dậy mùi hương Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương (Kim Lăng tửu tứ li biệt), thổi bay tà áo
giai nhân Phong phiêu hương duệ không trung cử (Thái liên khúc), bến ngộ giữa gót chân
tuấn mã và nụ cười người đẹp (Mạch thượng tặng mĩ nhân)… Còn ở Lý Hạ cũng có hoa
nhưng ngập tràn cảnh gió tàn hoa rụng, gió như mái tóc được chải lược bằng lá cây Quế diệp
loát phong quế trụy tử (Thần huyền khúc), cũng có gió xuân bay mái tóc giai nhân mà đẹp
say ảo giác Liêu trai Xuân phong xuy mấn ảnh (Vịnh hoài), nhuốm màu sắc bi thương gió
mãi thổi đêm thâu ngày dài trên mộ người con gái xấu số Phong vi thường, thủy vi bội (Tô
Tiểu Tiểu mộ). Ngọn gió thu thổi suốt ngàn năm trên mặt biển còn đọng giọt lệ bao trắc
ẩn Văn chương hà xứ khốc thu phong. Đó cũng là hai mặt tương phản bổ sung ở Tiên và
Quỷ: cái đẹp – bóng hình cái đẹp; sự sống, hạnh phúc – tàn phai, biệt ly.


2.4. Khi thơ ca mang dạng thức dòng sông
Khi hồn thơ là những dòng sông ào ạt trào tuôn, thì thơ cũng mượn dạng thức của
những dòng sông mà chở mọi nguồn cảm xúc. Nhà thơ ít bằng lòng đóng khung trong dạng
thức thơ ngắn hoặc thơ luật, mà để hồn tha hồ dào dạt với những thể thơ dài. Khuất Nguyên
với Sở từ, Lý Bạch - Lý Hạ với cổ phong và Nhạc phủ.

Ly tao được khẳng nhận là bài thơ dài nhất trong lịch sử thơ ca Trung Hoa. Với 373
câu dồi dào âm điệu, Ly tao đã chuyển tải được những cung bậc tình cảm mạnh mẽ của
Khuất Nguyên. Trong một dạng thức dài không hạn định, số chữ nhiều,Sở từ rõ ràng có ưu
thế hơn kiểu thơ 4 chữ của Kinh Thi. Cũng như vậy, Lý Bạch và Lý Hạ ít làm thơ luật vì


khuôn khổ gò bó chặt chẽ của thơ luật không đủ để thể hiện cảm xúc phong phú của nhà
thơ. Lý Bạch tung hoành với thể thơ cổ phong, số dòng, số chữ, số câu dao động ở biên độ
lớn, phù hợp với khí thơ mạnh, hùng tráng. Lý Hạ sở trường nhạc phủ, trong hình thức thơ
dân gian ông để trí tưởng tượng tha hồ bay bổng, đồng thời tìm thấy âm điệu riêng cho những
bài thơ của mình.
Sức tưởng tượng là một trong những phú bẩm tâm linh vĩ đại nhất của loài người, là
tiền đề và năng lực tâm lý quan trọng nhất cho hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng nghệ thuật,
sáng tạo nghệ thuật ở những thiên tài. Sức tưởng tượng ở cả ba nhà thơ lãng mạn Khuất
Nguyên – Lý Bạch – Lý Hạ đều mang tính tự do dong ruổi, tính thể nghiệm thiết thân và tính
nhất thể của tình cảm – tư tưởng… nên sự chiếm lĩnh thế giới, lý giải thế giới, hệ thống biểu
tượng, ý tượng… sáng tạo của họ đều thấm đẫm tình cảm thẩm mĩ nồng nàn. Lãng mạn – xét
trên góc độ này – là kiểu tư duy về thế giới trên đôi cánh thăng hoa của tư tưởng – Câu thần
xin mượn bút hoa… Khi thơ ca là sự bay bổng của trí tưởng tượng thì dòng chảy của sông
cũng đầy ngẫu hứng. Tứ thơ có sự thay đổi, đi về giữa quá khứ - hiện tại – tương lai, giữa trời
và đất, tiên – quỷ và người… Trong Ly tao có sự đan xen của những chiều thời gian, thơ Lý
Bạch lại là sự bay nhảy của không gian, tự nhiên đến bất ngờ trong cấu tứ hình ảnh; mạch thơ
đi mạnh, như những đợt sóng trùng điệp. Đặc biệt, khi tưởng tượng lạc sang địa hạt của ảo
giác, thậm chí vô thức, thì mạch thơ trở nên đứt nối, phi logic như trường hợp của Lý Hạ.
Trong thơ ông, ranh giới thời gian – không gian bị xóa nhòa, giữa các câu dường như có sự
nhảy cóc về ý, khó nắm bắt. Tuy vậy, nếu đọc kỹ ta vẫn nhận ra một mạch ngầm bên trong.
Với hiện tượng thơ Lý Hạ, thơ lãng mạn Trung Hoa đã nhuốm màu sắc siêu thực.

Như mọi nhà thơ lãng mạn, Khuất Nguyên – Lý Bạch – Lý Hạ không dựa trên Danh
lý (Logical) mà nhận thức bằng trực giác (Intaition). Cho nên cái mà Chu Quang Tiềm gọi là
“kinh nghiệm mỹ cảm”
(8)
trong thơ của họ là trực cảm khoảnh khắc của chính cuộc đời mình
mà thăng hoa, ngưng đọng vĩnh cửu với thời gian. Kinh nghiệm mỹ cảm ấy chính là khoảng
cách giữa mặt đất họ đang đứng và bầu trời họ ngước nhìn – chảy mãi dòng sông huyền diệu
ngang trời đến hôm nay qua mỹ cảm liên tưởng đồng vọng.


3. Để hiểu đúng và cảm hay dòng thơ ca phương Đông – đặc biệt là thơ ca cổ điển –
với những phương thức trữ tình, khuynh hướng lãng mạn… không nên thuần túy dựa vào
giai đoạn, thời kỳ chủ yếu với những tiền đề bối cảnh xã hội… đã sản sinh ra nó (như các
khuynh hướng, trào lưu tiêu biểu ở phương Tây – dễ bị rơi vào cái gọi là “gọt chân cho vừa
giày”). Còn có thể đi vào nghiên cứu theo một hệ thống khác: tâm thức thẩm mỹ mang tính
dung hợp, quan niệm (gắn liền với phương thức biểu đạt, diễn đạt) về cái đẹp, cái thực “nhòe
hóa” qua tâm, cái kỳ ảo, cái phi logic… với những sự pha trộn tinh tế mà phức tạp toát ra từ
dòng văn học đó. Thơ trữ tình – lãng mạn phương Đông phải được nhìn ngắm theo cái cách
nhà thơ đã làm ra nó, toát ra các đặc trưng riêng của nó.

Khuất Nguyên – Lý Bạch – Lý Hạ là những đỉnh cao của thơ cổ Trung Hoa mà chỗ
cao diệu như vẫn ẩn hiện trong mây không có chỗ tận cùng. Khuất Nguyên là sự khởi đầu vĩ
đại, Lý Bạch và Lý Hạ là sự kế thừa kiệt xuất của dòng thơ lãng mạn vượt ra ngoài khuôn
khổ cổ điển. Tất nhiên, thể thơ tự do đặt nền móng cho chủ nghĩa lãng mạn trong thơ mới
phải chờ đến tậpNữ thần (1921) của Quách Mạt Nhược (1892-1978) với tinh thần sáng tạo
“tự do tuyệt đối” mang vẻ đẹp hào sảng mặt trời, ánh sáng, phượng hoàng, hy vọng… theo
dòng chảy “tiết tấu tình cảm”. Xét về khuynh hướng sáng tác – chứ không phải dựa trên
những tiền đề cơ sở xã hội – với những đặc trưng, cảm hứng, lý tưởng thẩm mĩ, chủ thể trữ
tình cái tôi… thì chưa hẳn “khuynh hướng “lãng mạn” trong văn học cổ điển phương
Đông xa lạ với chủ nghĩa lãng mạn ở phương Tây”
(9)
. Thơ ca lãng mạn Trung Quốc nói
riêng và phương Đông nói chung không hình thành trên một trào lưu, trường phái, vì ngoài
những tiền đề lịch sử - xã hội, còn có yếu tố con người: không có tầng lớp trí thức độc lập,
không tách riêng ra một dòng trên con đường công danh quan chức. Khuất Nguyên ôm ấp
hoài bão lý tưởng cao đẹp mà không được trọng dụng, phải lưu đày. Lý Bạch ôm mộng kinh
bang mà không chịu qua vòng thi cử Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, bất như ý nên giằng co
giữa hai lẽ xuất – xử. Lý Hạ mang tham vọng chủ quan “Đằng các vương tôn” va đập thế tục
– dù Hàn Dũ đã gắn “húy biện” vẫn vỡ tan hoang, vụn thành ảo giác… mới sinh ra những

tiếng hót lạ trên miền đất quen đến độ thâm nghiêm. Sự khác biệt giữa Đông Tây là dễ nhận
thấy, nhưng hồn người muôn thuở vẫn gặp nhau ở một mẫu số chung. Gần đây, giới nghiên
cứu – bắt nguồn từ một ý kiến của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam – nói nhiều đến
“duyên kỳ ngộ” giữa Đường thi với thơ tượng trưng Pháp ngay trong ngôi nhà Thơ mới Việt
Nam (1932-1945) với những tính chất tượng trưng, ám thị, trực giác phi lý tính
(10)
… Lãng
mạn vẫn là một mạch ngầm tươi mát chảy hàng ngàn năm nuôi dưỡng mảnh đất thơ ca, với
bao điều kỳ thú muôn đời mới lạ chưa nói hết. Từ khởi nguyên, nối tiếp, những nhánh rẽ…
xuôi về hiện đại, có lẽ cần một chuyến đi dài

×