Cách mạng Tháng Tám trong
mắt sử gia nước ngoài
Sử gia người Mỹ William Duiker lại trình bày các nguyên nhân dẫn đến
Cách mạng Tháng Tám một cách hết sức thực tế: “Rõ ràng là nạn đói ở
miền Bắc và Trung Việt Nam, kéo dài dai dẳng từ mùa đông trước, đã
tạo ra một tình thế thuận lợi cho các lực lượng cách mạng…
Đói kém tràn lan đã tạo ra cơ hội ngàn vàng cho Việt Minh. Họ tiếp tục
khuyến khích nông dân đang bị đói, ở những khu vực mà họ đã giải
phóng, phá các kho thóc công để chia cho dân nghèo…
Trong khi đó, lạm phát đang tăng rất nhanh… Với chi phí sinh hoạt
lên cao và tình trạng khan hiếm lương thực tiếp diễn, nhiều người dân
trung lưu ở Hà Nội và các thành phố lớn bắt đầu để ý đến Việt Minh, và
thậm chí một số đã mua “trái phiếu cách mạng” để gây cảm tình với
chính quyền cách mạng tiềm tàng trong tương lai”. (2)
Tuy nhiên, cho dù có những khác biệt trong đánh giá về nguyên nhân và
bản chất của Cách mạng Tháng Tám, các sử gia đã gặp nhau khi chỉ ra
trong cuốn sách của họ vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh, tinh thần
dân tộc của thời đại, cũng như tầm tư tưởng vươn xa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Hồ Chủ tịch - nhà cách mạng của thời đại
Không có gì quá lạ khi hai sử gia người Mỹ Stanley Karnow và William
Duiker dành nhiều dòng để viết về mối quan hệ Việt Nam - Mỹ từ thời
“xa xôi” 1945-1946. Hai ông cũng nói nhiều về thái độ nhìn nhận và
cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những đại diện cho
Washington ở Việt Nam thời kỳ ấy.
Nhà báo kỳ cựu - sử gia Mỹ Stanley Karnow phát biểu tại lễ tưởng niệm
50 năm cái chết của hai người lính Mỹ đầu tiên ở Việt Nam. Buổi lễ tổ
chức tại Washington DC., 8/7/2009. (Nguồn ảnh: Getty Images North
America)
Chẳng hạn, nhà báo Stanley Karnow đã viết tương đối kỹ về một thời
gian mà Hồ Chí Minh phải chèo lái con thuyền cách mạng để giữ vững
nền độc lập trong một bối cảnh quốc gia và quốc tế rất phức tạp. Ông
cho rằng chính việc để quân Tàu Tưởng vào giải giáp phát xít Nhật ở
miền Bắc, quân Anh vào tiếp quản miền Nam, chia hai miền tại vĩ tuyến
16, đã là “một công thức nấu món thảm họa”.
Viên đô đốc người Anh, Douglas Gracey, đã tỏ ra có quá ít kinh nghiệm
chính trị khi tuyên bố “việc kiểm soát về dân sự và quân sự của người
Pháp (đối với Đông Dương) chỉ là trong vài tuần nữa”, bất chấp việc Hồ
Chủ tịch tuyên bố độc lập cho Việt Nam vào ngày 2/9/1945.
Còn theo sử gia William Duiker thì mối “duyên nợ” Việt Nam - Hoa Kỳ
đã hình thành từ khi viên sĩ quan OSS Archimedes Al Patti gặp Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Tỉnh Tây đầu năm 1945. Tháng 8 năm đó, Patti đến Hà
Nội để thu xếp việc trả tự do cho tù binh Đồng minh đang bị Nhật giam
giữ, cũng như cung cấp thông tin tình báo về Đông Dương.
Duiker thuật lại về cuộc gặp giữa Hồ Chủ tịch và Archimedes Al Patti
vào khoảng trưa ngày 26/8/1945:
“… Ông Hồ bày tỏ quan ngại về thái độ của Chính phủ Trung Quốc
(chính quyền Tưởng Giới Thạch) và Anh, và cho rằng Chính phủ Anh
có chung lợi ích với Pháp trong việc duy trì các thuộc địa châu Á, trong
khi người Trung Quốc có lẽ sẽ bán rẻ lợi ích của người Việt Nam để
đánh đổi lấy lợi ích cho riêng họ.
Ông Hồ cũng cố gắng thăm dò vị khách của mình về cách nhìn của Mỹ
về Đông Dương… nói rằng ông chỉ là “một nhà yêu nước theo chủ nghĩa
xã hội tiến bộ”… Nhưng Patti đã kể lại rằng Patti đã tránh né không hứa
hẹn gì, và một mực nói rằng ông ta không được quyền tham gia vào
những cuộc mạn đàm chính trị”. (3)
Những chi tiết này hé lộ cho chúng ta thấy nhiều điều, có lẽ rất gần với
sự thật lịch sử, hoặc ít nhất cũng có giá trị thông tin hết sức thú vị, về tư
tưởng và hành động của Hồ Chủ tịch – nhà cách mạng lỗi lạc.
Nhân dân Hà Nội mít tinh tại Nhà Hát Lớn (Hà Nội) trong tuần lễ cứu
đói, tháng 11/1945. (Ảnh tư liệu, nguồn: vietchange.com)
Một chính quyền cách mạng tiến bộ
Cũng William Duiker đã ghi lại những tư liệu cho thấy tinh thần dân tộc
và tính nhân văn của một chính phủ cách mạng non trẻ trong hoàn cảnh
khó khăn chất chồng. “Chính phủ mới đã thông qua một loạt các biện
pháp khẩn cấp để chống nạn đói… Thuế nông nghiệp được giảm và sau
đó miễn hoàn toàn, một sở tín dụng nông nghiệp được lập ra để giúp
nông dân vay vốn dễ dàng hơn ”. (4)
Chính phủ mới cũng đã ra một sắc lệnh (mà theo Duiker là “đậm màu
sắc Khổng giáo”) yêu cầu tất cả mọi người Việt Nam trong vòng một
năm phải biết đọc, biết viết. Chính nhờ sự quyết tâm của chính quyền,
đến mùa thu năm sau, trên 2 triệu người đã thoát mù chữ.
Quân Tàu Tưởng đến Hải Phòng, năm 1945. (Ảnh tư liệu, nguồn:
vietchange.com)
Chính quyền cách mạng lâm thời nỗ lực phục hồi kinh tế bằng nhiền
biện pháp như giảm thuế, chia đất nông nghiệp cho dân, tuy “không tiến
hành các biện pháp quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và cơ sở
thương mại… Chỉ có đất đai của thực dân Pháp và Việt gian mới bị tịch
thu”. (5)
Hồ Chủ tịch cũng nêu vấn đề chuẩn bị Tổng tuyển cử, thành lập chính
phủ hợp pháp dựa trên quyền tự do dân chủ.
“Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, không chỉ có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính
trị chống lại nền quân chủ thối nát, và là một cuộc cách mạng xã hội
chống lại chủ đất và những người thu thuế” – S.Tonesson viết.
Xuất phát từ những quan điểm và tâm thế chính trị khác nhau, không
phải tất cả các sử gia đều có thể vươn tới sự thật và mang nó tới cho độc
giả. Càng không phải tất cả đều chia sẻ những quan điểm thống nhất về
Cách mạng Tháng Tám.
Nhưng các tác phẩm phản ánh những góc nhìn của họ về một sự kiện
trọng đại trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam, ngoài ra, ít nhiều, chúng
đều mang lại cho chúng ta một số lượng không nhỏ những thông tin có
giá trị tham khảo.