Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo ở đô thị miền Nam 1954 – 1975 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.77 KB, 6 trang )

Khuynh hướng phê bình chịu
ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo ở đô
thị miền Nam 1954 – 1975





2. Khuynh hướng phê bình ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo.
So với các tôn giáo khác, Thiên Chúa giáo vào nước ta có muộn hơn nhưng không
vì thế mà ảnh hưởng bị hạn chế. Ngược lại nó có tầm ảnh hưởng khá lớn, và có những
thời điểm lấn át các tôn giáo khác. Xã hội miền Nam thời kỳ 1954-1975, nhờ sự tiếp sức
của chính quyền, Thiên Chúa giáo phát triển khá nhanh, có ảnh hưởng lớn đến đời sống
chính trị xã hội trong đó có văn học. Chính vì vậy trong Lịch sử văn học Công giáo Việt
Nam, tập 1, một tác phẩm duy nhất trong văn học đô thị miền Nam viết về lịch sử văn
học Công giáo còn lại cho đến nay, Võ Long Tê đã nhận định “Riêng trong phạm vi văn
học, đạo Công giáo đã đem lại những nguồn cảm hứng mới. Những công trình sáng tác
biên khảo Công giáo đã làm cho văn học Công giáo phát sinh và trưởng thành theo một
đường hướng riêng biệt nhưng không phải là không có mối liên hệ hỗ tương với các
thành phần khác của nền văn học Việt Nam”
(11)
. Và cách đây hơn sáu mươi năm, kể từ
khi Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan ra đời, trong phần viết về thi sĩ Hàn Mặc Tử,
ông đã khẳng định: "Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn
nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường
triết học, con đường rất mới, rất xa xăm mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới"
(12)
.
Điều dự cảm và tiên đoán của Vũ Ngọc Phan đã trở thành hiện thực trong văn học ở đô
thị miền Nam 1954-1975. Đây cũng chính là tiền đề hình thành khuynh hướng phê bình
văn học ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo ở đô thị miền Nam.


Khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo lấy triết lý
Kitô giáo làm cơ sở mỹ học và làm hệ quy chiếu phê bình các hiện tượng văn học.
Chính vì vậy, ở những bài phê bình này, ta thấy rõ dấu ấn tư tưởng của Kitô giáo được
các nhà phê bình làm căn cứ giải mã một số hiện tượng văn học, tiêu biểu là thơ Hàn
Mặc Tử. Theo Võ Long Tê, trong Lịch sử văn học Công giáo tập 1 có một số bài phê
bình về thơ Hàn Mặc Tử dưới ánh sáng tư tưởng Thiên Chúa giáo như Hàn Mặc Tử, thi
sĩ của đạo quân thánh giá (Tạp chí xã hội, Xuân Giáp thân, 1954); Sự hiện diện của Hàn
Mặc Tử của Võ Long Tê (1956), Sứ mạng của Hàn Mặc Tử của Lê Hữu Mục (1956); Sự
đau khổ của Hàn Mặc Tử của Trần Điền (1956). Ngoài ra, từ điểm nhìn phúc âm của
người Kitô giáo, trong bài viết về Hàn Mặc Tử ở Vũ trụ thơ, Đặng Tiến đã phân tích sự
hòa hợp giữa đạo và thơ, xem đây như một cơ sở lý giải hành trình sáng tạo thơ Hàn
Mặc Tử. Theo Đặng Tiến, ở Hàn Mặc Tử “Thơ là Đạo và Đạo là Thơ”. Và “Thơ đưa về
Đạo là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải thoát tạm thời của Đau Thương,
trong khi chờ đợi Đạo là cứu rỗi miên Viễn"
(13)
. Vì vậy, "Nếu Gái Quê là thế giới đợi
chờ Điềm Lạ, đợi chờ Chúa ra đời, thìĐau Thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày
Chúa trở lại (Mt 24-42). Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì "do Đức Chúa
trời ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói, nhưng trước hết vì nó là hậu quả tất nhiên
của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu
thế”
(14)
. Cũng như Đặng Tiến, Lê Huy Oanh đã dựa trên cơ sở tư tưởng Thiên Chúa giáo
để lý giải hành trình sáng tạo thi ca của Hàn thi sĩ và cho rằng đức tin vào Chúa trời là lẽ
sống của Hàn Mặc Tử, là nguồn cảm hứng để ông sáng tạo thơ ca. Bởi “là một tín đồ
ngoan đạo, ông đã tìm được nhiều sự an ủi từ tấm gương chịu đựng đau khổ của Chúa
Jêsu và của thánh nữ đồng trinh Maria; càng đau khổ bao nhiêu ông càng trông cậy vào
sự an ủi của Chúa và Đức Mẹ (…) Cho nên, trong thơ ông, nhất là trong tập thơ Hàn
Mặc Tử, chúng ta thấy có rất nhiều ảnh hưởng và màu sắc Thiên Chúa giáo”
(15)

.
Rõ ràng, Hàn Mặc Tử trong đời là một tín đồ ngoan đạo, chắc hẳn, những lời
Chúa dạy đã trở thành dấu ấn trong tâm thức nhà thơ, biến thành những dự phóng trong
ông và thăng hoa thành những đam mê sáng tạo. Vì vậy, khi phê bình thơ Hàn Mặc Tử,
các tác giả trong Quốc văn diễn giảng (Nxb Thiện Mỹ, 1974) cũng cho rằng, những rung
động thẩm mỹ trong thơ Hàn Mặc Tử đều bắt nguồn từ “tình thương bao la của thượng
đế trong hành động nhập thể cứu chuộc tội lỗi của nhân loại. Đó là một biến cố trọng đại
và thiêng liêng, báo hiệu một tin mừng từ bao năm đợi chờ, mong mỏi, làm xao xuyến
cả vũ trụ. Hành động nhập thể này tinh túy như ý thơ, là bản thể của thơ, làm thơ thành
tiếng nói mầu nhiệm kết hợp con người với thượng đế”
(16)
.
Như vậy, khi tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử các nhà phê bình đều căn cứ trên cơ sở tư
tưởng của Thiên Chúa giáo để phê bình thơ Hàn Mặc Tử. Có thể những kiến giải về thơ
Hàn Mặc Tử dựa trên tư tưởng Thiên Chúa giáo có khi chưa thật khách quan.Và nếu chỉ
căn cứ duy nhất từ điểm nhìn này để lý giải hành trình sáng tạo thơ Hàn Mặc Tử cũng
không tránh khỏi cực đoan, áp đặt. Nhưng dẫu sao, việc dựa trên cơ sở tư tưởng Thiên
Chúa giáo để lý giải hồn thơ của một con chiên ngoan đạo như Hàn Mặc Tử chắc cũng
có phần hợp lý. Điều quan trọng hơn, từ đây hình thành khuynh hướng phê bình văn học
ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo trong đời sống lý luận phê bình văn học ở đô thị
miền Nam. Thế nên, ngoài việc cảm nhận thơ Hàn Mặc Tử từ điểm nhìn của tư tưởng
Kitô giáo, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều những bài viết khác thuộc khuynh hướng phê
bình này. Chẳng hạn khi phê bình bài thơ Đêm giáng thế của Tạ Ký, nhà phê bình cho
rằng ở bài thơ này "nhà thơ được “thánh hóa” để trở nên chiên lành xin Chúa đem tình
thương yêu cứu nhân loại khỏi cảnh đau buồn khói lửa"
(17)
. Còn ở bài thơ Hoa trắng thôi
cài trên áo tím của Kiên Giang là nỗi “trông chờ ở đấng tối cao cứu rỗi linh
hồn”
(18)

trước sự tuyệt vọng vì tình yêu đã mất.
Trong khảo luận Những nhà thơ hôm nay, Nguyễn Đình Tuyến khi phê bình
thơ Hữu Phương cũng dựa trên tư tưởng Kitô giáo cho rằng: “Trong vườn thơ hôm
nay, Hữu Phương có một sắc thái riêng biệt. Đó chính là cảm xúc chân thật của một
niềm tin Thiên Chúa giữa trùng dương biển cả”
(19)
. Hay khi phê bình thơ Khải Triều,
Nguyễn Đình Tuyến cũng nhận ra cảm hứng về Chúa trong thơ Khải Triều là một
khát vọng của sáng tạo “Khi những bài thơ thành hình, nỗi buồn đó biến thành đá, để
xây nhà thương cho nhân loại. Trên cao nhà thương đó sẽ có hình ảnh đấng cứu thế bị
đóng đinh trên thánh giá và văng vẳng âm thanh tiếng hát của người nữ tu"
(20)
.
Không chỉ có thơ mà ở văn xuôi, nhiều tác phẩm cũng được các nhà phê bình
phân tích và cảm nhận từ góc nhìn của tư tưởng Thiên Chúa giáo. Khi phê bình tác
phẩm Một linh hồn của Thụy An các tác giả trong Quốc văn diễn giảng cho rằng: “Câu
chuyện tình bi đát này được lồng trong khung cảnh tràn ngập màu sắc của Thiên Chúa
giáo. Tâm hồn Vân lúc nào cũng ngây thơ trong trắng như một thiên thần, nhân sinh
quan của nàng chịu ảnh hưởng rõ rệt của Thiên Chúa giáo. Nàng biết tìm đến sự an ủi
trong Chúa, noi gương Chúa chấp nhận mọi cảnh khổ ở đời”
(21)
. Còn đây là thế giới
nghệ thuật trong truyện của Nhật Tiến qua cảm nhận của các nhà phê bình “Thế giới của
Nhật Tiến là thế giới trầm lặng cô tịch của những kẻ bất hạnh, những trẻ mồ côi trong cô
nhi viện của các Bà Phước, và đó là khung cảnh cho phần lớn các tiểu thuyết của ông,
tiêu biểu là Những Người Áo Trắng”
(22)
. Một tác phẩm khác của Nhật Tiến cũng mang
đậm dấu ấn tư tưởng của Chúa KiTô đó là Tay ngọc. Tác phẩm thể hiện sự tin tưởng
mãnh liệt nơi Thiên Chúa và ý nghĩa sứ mạng cứu chuộc của Người. Vì vậy khi phê bình

tác phẩm Tay ngọc của Nhật Tiến, Tạ Tỵ cho rằng: “nội dung Tay Ngọc không mang
một ẩn dụ nào về tư tưởng, chỉ là những ý nghĩ hồn nhiên, hiền hòa như một dòng suối
trong suốt chảy từ trên cao của ý thức. Tay Ngọc gồm 18 bài bút ký, mỗi bài gói ghém
một vấn đề của tuổi nhỏ đã sống gần gũi Chúa trong khuôn khổ giáo dục của các mẹ bề
trên”
(23)
.
Với những minh chứng trên, rõ ràng ở đô thị miền Nam đã có một khuynh
hướng sáng tác văn học Thiên Chúa giáo và đây chính là cơ sở để hình thành khuynh
hướng phê bình văn học ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo.
Thực ra không phải đến thời kỳ này, trong đời sống văn học mới có khuynh
hướng phê bình Thiên Chúa giáo, mà ở giai đoạn văn học 1930-1945, Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại cũng đã ứng dụng tư tưởng Thiên Chúa giáo để phê
bình thơ Hàn Mặc Tử và tiểu thuyết Một linh hồn của Thụy An. Có thể nói đây là
những bài phê bình đặt nền móng cho khuynh hướng phê bình văn học ảnh hưởng tư
tưởng Thiên Chúa giáo trong đời sống lý luận phê bình văn học dân tộc. Sự thay đổi
trong cảm quan nghệ thuật đã tạo thêm một lối nhìn mới cho quan điểm phê bình
này. Từ đó hình thành lớp từ mới trong phê bình văn học có nguồn gốc từ giáo lý
của đạo Kitô như cứu rỗi, điềm lạ, thánh hóa, ngày Chúa trở về, Đức Chúa Trời,
nguyên tội, cứu thế, thánh ý của Chúa, tin mừng, Thiên Thần, đêm giáng thế,
chuông giáo đường, ơn Đức Mẹ đồng trinh… Những lớp từ này cũng góp phần làm
phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc.
Như vậy, khuynh hướng phê bình ảnh hưởng của tư tưởng Thiên Chúa giáo trong
lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam là một thực thể không thể phủ nhận. Cùng
với khuynh hướng phê bình ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo, nó góp phần hình thành
khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo ở đô thị miền Nam 1954-
1975. Vì vậy, cũng như các khuynh hướng phê bình khác, khuynh hướng phê bình chịu
ảnh hưởng tư tưởng của các tôn giáo cũng có những mặt tích cực và hạn chế mà người
làm lý luận phê bình cần nhận thức rõ.
Khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo tạo một cơ sở triết

học giúp người phê bình lý giải những hiện tượng văn học vốn được sáng tác dưới ánh
sáng tư tưởng của các tôn giáo mà nếu quy chiếu từ hệ tư tưởng khác, chắc chắn sẽ
không làm rõ được cơ sở triết học trong nội dung tác phẩm. Không những thế, sự hiện
hữu của khuynh hướng phê bình này đã cho thấy sự đa dạng cũng như làm rõ hơn sự
phân hóa trong đời sống lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam. Và từ đây, nó
cũng mở ra những hướng nghiên cứu mới giúp người tiếp nhận có thêm những hệ hình
để cảm thụ tác phẩm văn học. Như thế, phê bình văn học mới có thể tiệm cận hơn với
chân giá trị của các hiện tượng văn học. Mặt hạn chế dễ nhận thấy của khuynh hướng
phê bình chịu ảnh hưởng tư tưởng các tôn giáo là do nhiều lúc quá đề cao tư tưởng triết
học duy tâm thần bí của tôn giáo, nhà phê bình có thể dẫn đến tư tưởng cực đoan, khi
siêu hình hóa các hiện tượng văn học, không thấy được mối quan hệ nhiệm mầu giữa
văn học và đời sống vốn là một yếu tính trong phương thức phản ánh của văn học. Bởi
lẽ, văn học dù được qui chiếu từ điểm nhìn triết học nào, nhà phê bình cũng phải thấy
được căn bản giá trị của các sáng tác văn học đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc đời

×