Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kỷ yếu hội thảo về thời kỳ Hùng Vương_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.67 KB, 7 trang )

Kỷ yếu hội thảo về thời kỳ Hùng Vương
Thời An Dương Vương trong
quan hệ với thời Hùng Vương
Từ những di vật khảo cổ học, có thể sơ lược suy ra một số nét của xã hội
thời kỳ An Dương Vương như sau: người Âu Lạc vẫn tiếp tục xây dựng
nơi ở bằng những ngôi nhà sàn kể những cánh đồng lúa, vẫn mặc theo
kiểu đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, những ngày hội vẫn đội mũ
cắm lông chim hay bông lau cao vút trên đầu, vẫn tiếp tục đúc những
trống đồng, thạp đồng nổi tiếng, vẫn dùng những vũ khí giáo, lao, rìu
lưỡi xéo, rìu gót vuông các loại bằng đồng có trang trí hoa văn hình
thuyền, người hoá trang lông chim và động vật hươu nai sinh động và
đẹp, v.v

Công cụ bằng kim loại đã thay thế những công cụ sản xuất bằng đá.
Những lưỡi cày đồng hình lá tìm thấy tại xóm Nhồi (Cổ Loa) khỏe hơn,
dày hơn, kích thước lớn hơn tất cả những lưỡi cày đã tìm thấy chứng
minh một sức kéo lớn hơn, một năng suất cao hơn, một kỹ thuật tiến bộ
hơn trong nông nghiệp. Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của đồ sắt. Phàn
lớn dấu vết sát tìm thấy trong các di chỉ khảo co học không còn rõ hình
dáng công cụ vì sắt chóng gỉ và đã gỉ thì rất mau mất nguyên dáng-một
mặt là bằng chứng cho một bước tiến lớn trong sức sản xuất, mặt khấc là
bằng chứng để cải chinh nhận thức có phần phổ biến từ lâu là Việt Nam
mới có sắt từ thời thuộc Hán và do người Hán truyền bá sang. Sắt bước
vào đời sống con người thời đó đã cắm một cái mốc quan trọng trong
lịch sử. Sức sản xuất tăng lên, kéo theo một loạt những biến đổi lớn
trong xã hội Âu Lạc, mà hiện vật khảo cổ đã là minh chứng hùng hòn.
Nếu ở cuối thời Hùng Vương sự cách biệt giàu nghèo đã có (1 Sự khác
biệt về số lượng những vật chôn theo trong các ngôi mộ ở Đông Sơn
trong lần khai quật năm 1970 đã phản ánh rõ ràng điều này), thì ở thời
An Dương Vương sự phân hóa giai cấp càng rõ nét.
Điều này không chỉ là suy luận. Những chứng cớ về một quân đội


thường trực lớn mạnh, những dấu tích của một công trình quân sự-
thành Cổ Loa-độc đáo, to lớn đã chứng minh cho điều nòi trên. Kho tên
đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực (Cổ Loa) là một phát hiện khảo
cổ học hiếm thầy không những trong nước mà cả trên thế giới. Những
đầu mũi tên đồng 3 cạnh tương đối lớn về kích thước và khá đặc biệt về
kiểu dáng này là cơ sở tốt để giải thích câu chuyện truyền thuyết về nỏ
thần. Hầu như mọi người đều chấp thuận ý kiến cho rằng chuyện nỏ
thần phản ánh sự xuất hiện một loại vũ khí mới rất lợi hại có thể bắn
một lúc nhiều mũi tên, hoặc ít nhất là cải tiến một thứ vũ khí có tác
dụng sát thương cao. Việc sản xuất vũ khí cũng có tổ chức quy mô, đội
quân thường trực được trang bị chính quy hơn hẳn thời trước. Kỹ
thuật, chiến thuật chiến đấu cũng có một bước tiến mới đồng thời với
việc xây thành phòng ngự. Việc xây dựng thành quách và sự xuất hiện
chiến thuật chiến đấu phòng ngự trong thành rất phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử mới: bên trong thì mâu thuẫn giai cấp đã nảy sinh mạnh
mẽ, bên ngoài thì sức ép bành trướng của xâm lược nước ngoài tăng
lên.

Thành Cổ Loa với dấu tích hiện còn là một tòa thành vào loại lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam. Cho tới nay, chúng ta chưa phân tách bạch
được đoạn nào, phần nào được đắp thời Vua Thục, đoạn nào, phần nào
do các đời sau tu bổ hay làm thêm. Nhưng những lát cắt thành đã cung
cấp chứng cớ để có thể thừa nhận: về cơ bản những lũy thành quanh co
hiểm trở vốn là cấu trúc của tòa thành xưa. Từ đấy có thể nhận thấy
một tổ chức quân đội khá mạnh “giỏi cung nỏ, thạo thủy chiến”. Quân
đội này đã chặn đứng được những cuộc tiến công quân sự của Triệu Đà,
buộc họ Triệu phải viện tới những âm mưu xảo quyệt mới chiếm được
cơ đồ Âu Lạc (1 Truyền thuyết nỏ thần kể nguyên nhân việc mất nước
Âu Lạc là do hoạt động gián điệp của Trọng Thủy lấy cắp được lẫy nỏ
thần của vua Thục. Sử kỷ chép: “Cao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà

nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần
phục”. Như vậy cả truyền thuyết lẫn sử sách đều thống nhất việc Triệu
Đà chiếm được nước Âu Lạc là không phải do một thắng lợi quân sự).
Trong mấy chục năm tồn tại của nước Âu Lạc (2 Chúng tôi lấy năm kết
thúc của nước âu Lạc là 180 (hoặc 179) trước Công nguyên bằng vào Sử
ký: “Cao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh
và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục) kề vai sát cánh bên nhau,
người Âu và người Lạc đã xây dựng một nước giàu mạnh, phát triển
trên cơ sở bền vững của hàng nghìn năm thời kỳ Hùng Vương. Nước Âu
Lạc đã bước hẳn vào thời đại sắt, tình hình phân hóa giai cấp đã rõ nét
hơn, đã xuất hiện nhà nước thực sự, đã có quân đội thường trực mạnh,
gồm bộ binh, thủy binh, đã biết xây dựng thành quách vững chắc.

1.Tóm lại, mấy năm nghiên cứu đã có thể cho phép chúng ta sơ bộ chấp
thuận một số kết luận cơ bản về thời kỳ lịch sử An Dương Vương và
quan hệ giữa thời kỳ này với thời kỳ lịch sử Hùng Vương như sau:
-Quan hệ Hùng-Thục là quan hệ nội bộ của người Việt. Không thể coi
việc mất ngôi thủ lĩnh của Hùng Vương như kết quả của một sự mất
nước của Hùng Vương. Cả hai thời kỳ lịch sử Hùng Vương và An Dương
Vương đều có thể đặt chung trong thời đại bắt đầu dựng nước và giữ
nước.
-Nền văn minh sông Hồng đã phát triển cao hơn một bước trong thời kỳ
Thục An Dương Vương. Sự xuất hiện đồ sắt, sự phân hóa giai cấp đã sâu
hơn trong xã hội, sự xuất hiện một quân đội thường trực chính quy với
một kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu có công sự, sự ra đời một nhà nước
thật sự là nhưng mối quan hệ nhân quả chằng chéo, nhưng dù sao
những yếu tố mới đâm chồi nảy lộc trong thời kỳ lịch sử An Dương
Vương này đều đã được ươm từ thời kỳ lịch sử Hùng Vương trước nó.
-Di tích thành Cổ Loa và kho mũi tên đồng Cầu Vực là chứng tích của
một bước nhảy vọt về kỹ thuật quốc phòng. Thời kỳ lịch sử An Dương

Vương ngắn ngủi đã có thể được coi như bước chuyển mình của hàng
nghìn năm lượng biến của thời Hùng Vương.
-Sự giao lưu văn hóa với bên ngoài đã có và có từ lâu trước thời Âu Lạc
nhưng ảnh hưởng của các văn hóa khác chưa đậm nét và chưa hề làm
thay đổi bộ mặt văn hóa bản địa đẫ sâu rễ bền gốc.

2.Một báo cáo tổng kết 3 năm nghiên cứu chưa phải là những kết luận
đầy đủ về thời kỳ lịch sử An Dương Vương tuy ngắn ngủi nhưng rất
phức tạp. Trên cơ sở những kết luận đã tạm thời rút ra được, chúng ta
lại thấy phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu một số vấn đề:
-Nguồn gốc tộc Thục còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Phải tiến tới có kết
luận nào đó về yếu tố Âu trong văn hóa Âu Lạc. Những kết luận đó sẽ
củng cố vững chắc hơn những điều chúng ta đã chấp thuận cho tới nay,
rằng quan hệ Thục-Hùng là quan hệ láng giềng, văn hóa Tây Âu và Lạc
Việt vốn có nhiều điểm tương đồng và nước Âu Lạc chính là sự sáp
nhập của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt.
-Văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu kỹ về thời gian tồn tại, địa bàn
phân bố và những nét khác biệt của các loại hình địa phương. Hiểu biết
cặn kẽ về những điểm này sẽ kiểm tra giả thuyết “đặt cả hai thời kỳ
Hùng Vương và An Dương Vương vào chung một thời đại bắt đầu dựng
nước và giữ nước”.
Văn hóa Đông Sơn không những là văn hóa của thời Hùng Vương, thời
An Dương Vương mà còn là văn hóa của người Việt cho tới cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng.
-Sự kiện Vua Thục thay thế Vua Hùng trị dân lập nước Âu Lạc là một
biến động xã hội lớn. Nhà Triệu xâm chiếm và nô dịch nước Âu Lạc cũng
là một cuộc thay đổi triều đại quan trọng. Nhưng về mặt văn hóa vật
chất, hầu như không có mấy đổi thay. Sức sống mãnh liệt của nền văn
hóa Đông Sơn phải chăng là phản ánh sức sống mãnh liệt của dân tộc?
Chính điều đó đòi hỏi phải giải thich tính chất của sự thay đổi trên lĩnh

vực thượng tầng kiến trúc, đặc biệt là ở thời Triệu Đà, nghĩa là phải giải
thich rô hơn nguyên nhân sự sụp đổ của cơ đồ nhà Thục.

Ở góc độ khảo cổ học bằng vào những di tích văn hóa vật chất thì thời
đại đầu tiên của lịch sử Việt Nam rõ ràng phải được cắm mốc cuối ở
ngày thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cho nên để giải quyết
tốt những vấn đề về thời kỳ lịch sử Hùng Vương-An Dương Vương,
người nghiên cứu không thể không phóng tầm mắt tới những năm đầu
của thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Chỉ có thế mới mong rằng trong
những năm sắp tới, công cuộc nghiên cửu lịch sử và khảo cổ thời Bà
Trưng-Bà Triệu sẽ được đẩy mạnh hơn trước

×