Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

KHÁI QUÁT CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA HỒ QUÝ LÝ_1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.7 KB, 9 trang )

KHÁI QUÁT CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA
HỒ QUÝ LÝ

LỜI MỞ ĐẦU

Trong lịch sử Việt Nam từ khi dựng nước cho đến nay đã có rất nhiều
cuộc cải cách, đổi mới nhằn hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước và các
chính sách cai trị. Đặc biệt là từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, qua năm
thế kỷ phát triển từ các phương thức sản xuất tiền phong kiến sang
phong kiến không phải trải qua một cuộc cách mạng vũ trang nào,
nhưng lại qua các cuộc cải cách, đổi mới có hiệu quả. Mà đặc biệt là hai
cuộc cải cách (của họ Khúc và nhà Hồ) và hai cuộc đổi mới (từ Tiền Lê
sang Lý, từ Lý sang Trần).

Cả bốn đều nhằm giải quyết những khủng hoảng xã hội, cũng cố lại bộ
máy nhà nước, đẩy mạnh tiến bộ xã hội. Nhưng nếu hai cuộc đổi mới (từ
Tiền Lê sang Lý, từ Lý sang Trần) đã thành công mỹ mãn, cuộc cải cách
của họ khúc cũng đã dành được những thắng lợi cơ bản, tạo ra được
bước phát triển tích cực của xã hội phong kiến Việt Nam, thì cuộc cải
cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã thành công một
cách hạn chế mà cái hạn chế lớn nhất lại là sự phá hoại của giặc ngoại
xâm. Nó để lại một bài học sâu sắc cho hiện tại.

Công cuộc đổi mới, cải cách của chúng ta hiện nay đã kế thừa truyền
thống của cha ông, rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc và thế
giới, phát huy đến cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, nắm vững
quyền dân tộc tự quyết để không ngùng dành thắng lợi.

Với sự phân công của giáo viên bộ môn, nhóm chúng tôi đã quyết định
chọn đề tài “Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly”. Nhóm chúng tôi hy vọng
qua bài tiểu luận này làm rõ hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.




Phần I: TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC CẢI CÁCH

1. Sự khủng hoảng của triều đình nhà trần

+ giai đoạn đầu nhà Trần, thể chế chính trị vững chắc là nhờ “vua tôi
đồng lòng, anh em hòa mục”. Vua anh minh, cần mẫn, tôi tận tụy, liêm
trung. Chính lệnh “lúc thường thì khoan sức cho dân’. Điều này đã tạo
cho nhà Trần một sự hưng thịnh vào giai đoạn đầu.

+ Từ khi trần dụ tông lên ngôi:

Đối với vua thì ăn chơi vô độ khiến triều đình bạc nhược.Vua Dụ Tông
sai đào hồ lớn ở vườn ngự, chất đá làm núi, bắt đào kênh thông với sông
lớn để lấy nước vào làm chổ vui chơi,… Trộm cướp không trừa ai, cướp
bóc cả vua (ví dụ: năm 1366,vua Dụ Tông ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà
Thúy úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới
sông Chữ Gia, bị cướp mất ấn báu).

Điều này đã làm xuất hiện hàng loạt tên nịnh thần và việc triều chính bị
lũng đoạn đã gây ra những biến cố lớn như: Chúa Chiêm là Chế Bồng
Nga đem dâng lên vua 10 mâm vàng. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của
mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua
giận lắm. Quyết ý thân chinh. Phải chăng đây cũng là một nguyên nhân
khiến quan hệ Việt - Chiêm càng xấu đi trong giai đoạn cuối Trần. Đồng
thời trong triều không có vua càng tạo cơ hội cho bọn nịnh thần lộng
hành.

Trước hoàn cảnh ấy những những hiền thần đã nhiều lần dâng sớ để

khuyên vua có những sự điều chỉnh mà vua không chịu nghe như Chu
Văn An khuyên Dụ Tông không nghe bèn dâng sớ xin chém bảy tên
nịnh thần…Sớ dâng lên nhưng không dược trả lời nên ông đã trả ấn từ
quan về quê. Còn Trần Nguyên Đán thì lui về Côn Sơn trí sĩ để tránh
mối họa sau này.

Khủng hoảng cung trình cũng đã xẩy ra nghiêm trọng đến hai lần:

Lần thứ nhất là khi Hiến từ Hoàng Thái Hậu đưa Dương Nhật Lễ, con
của người làm trò (tên là Dương Khương) lên ngôi. Nhật Lễ tiếm vị,
rượu chè dâm dật, hàng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng,
muốn đổi lại họ dương. Nhà trần mất ngôi hơn một năm (từ tháng 6 –
1369 đến tháng 10 – 1370). Đến tháng 10 – 1370, cuộc hội quân của
hoàng gia có Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán, Cung tuyên Vương Kính
cùng công chúa Ngọc Tha…tham gia, đã từ Đại Lại Thanh Hóa kéo về
Thăng Long dành lại ngôi vua.

Lần thứ hai là sau khi Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị tử trận, Đế
Hiện lên thay rồi bị phế (Phế Đế). Thuận Tông lên ngôi rồi bị giết. Thiếu
Đế lên thay được hai năm, nhà Trần bị diệt. Ngôi vua về tay Hồ Quý Ly.

+ Sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa – xã hội

Cuối nhà Trần bộc lộ những mâu thuẫn:

Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được nhà nước Trần
thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công
thành ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm
ngặt. Điều này được thể hiện rõ ở việc bãi lệ “Sa châu tiệt cước” vào
năm 1379.


Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia
đình (gia nô, nô tì của phong kiến) với sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ
bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển. Chính điều này đã dẫn đến
đòi hỏi là sức lao động cần được giải phóng để tạo ra những người lao
động tự do. Nhưng hoàn cảnh cuối thời Trần đã không đáp ứng được
điều này.

Bao trùm nhất là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển
đến chừng mực nhất định trong thời thịnh Trần với kinh tế còn bảo lưu
phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ
gia đình, chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và việc bảo tồn ruộng đất
công hữu.

Do vua ăn chơi, không quan tâm đến phát triển kinh tế. Đồng thời lại thu
thuế nặng nề nhất là vào thời Phế Đế như vào năm 1378 đang có việc
dùng binh nhưng kho tàng trống rỗng. Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ
đinh nam 3 quan tiền. Vua đã nghe theo. Trước chỉ có thuế ruộng nay có
cả thuế đinh. Đièu này đã làm cho những người nông dân đã khổ nay lại
cành khổ hơn.Do đó đã diễn ra rất nhiều cuộc đấu trang của nông dân
như khỡi nghĩa Ngô Bệ (khởi nghĩa tồn tại trong 10 năm),

+Khủng hoảng tư tưởng phong kiến:

Tư tưởng phong kiến mang nặng tàn dư phương thức sản xuất châu Á
lấy phật giáo làm quốc giáo, từng phát huy tác dụng ỏe thời lý, thời thịnh
trần nay không còn thích hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội đang
rơi vào khủng hoảng. chế độ phong kiến theo tống nho đang hình thành
đã tấn công vào hệ tư tưởng phong kến quý tộc mà nghệ tông đã ra sức
bảo vệ.


Nghệ tông còn phê phán bọn tống nho có xu hướng phong kiến quan liêu
là “bọn học trò mặt trắng” : khoảng năm đại trị, bọn học trò mặt trắng
được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép củ
của tổ tông thay đổi theo tục phương bắc cả, như về y phục, âm
nhạc,…Thật không kể xiết.

Nhưng dầu nghệ tông có phê phán thì khổng giáo vẫn ngày càng
đóngvai trò quốc giáo. Trong khi đó, phật giáo lại luôn bị các nhà khoa
bảng tống nho chỉ trích. Tiêu biểu là sự chỉ trích của trương hán siêu và
lê quát.

Năm 1354, Trương Hán Siêu đã từng phê phán phật giáo đề cao nho
giáo: “chùa bỏ ooiflaij xây, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi
khắc chữ, ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá
phong hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi, dị đoan
đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu,
không phải đạo nghiêu thuấn thì không trình bày, không phải đạo khổng
tử thì không trước thuật. thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện phật, ta định
lừa dối ai đây?”

Sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã dẫn đến một tất yếu là phong kiến
quan liêu tống nho sẽ thắng phong kiến quý tộc phật giáo.

+Yếu tố chủ quan

Sử cũ chép lại lại lịch của Hồ Quý Ly không rõ ràng về năm sinh và năm
mất, nhưng lại hgi khá đầy đủ những chi tiết về nhân vật Hồ Quý Ly trên
chính trường Trần mạt vào cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV.Ông tổ
của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc. Từ

đời Ngũ Quý (907-959) sang bên ta, lập ấp tại làng Bào Đột thuộc Diễn
Châu (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa, làm con nuôi của Lê Huấn.

Tháng 3 năm 1371 Hồ Quý Ly được phong làm Khu mật viện Đại sứ.
Đến tháng 9 cùng năm lại được phong làm Trung tuyên Quốc thượng
hầu.

Trong tình đất nước luôn bị Chiêm Thành đánh phá thì yêu cầu đòi hỏi
một người có khả năng và quyền lực để nhận lãnh sứ mệnh giúp Vua
làm việc nước, chống ngoại xâm và người đó chính là Hồ Quý Ly. Ông
xuất hiện như là một người trung hòa trong mâu thuẫn giữa phong kiến
quý tộc và phong kiến quan liêu, bởi vì ông vừa có vị trí cao trong hàng
ngũ phong kiến quý tộc vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến
quan liêu. Là quý tộc ông đang là người có quyền thế nhất trong đám
hoàng thân quốc thích, có hai bà cô là Hoàng hậu vợ Minh Tông, vợ
Quý Ly lại là Công chúa; là quan liêu, ông thuộc giới quan liêu ngoại
tộc, có tinh thần cải cách, đã có một số thể nghiệm được giới quan liêu
chấp nhận.

Họa ngoại xâm

Bắt đầu từ việc triều Minh coi Đại Việt là cảu mình: Năm 1370, cho
Diêm Nguyên Phục đến tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông
Lô…Vào kinh thành nước ta làm lễ tế xong khắc bài văn vào bia đá ghi
việc đó.
Tiếp theo là các yêu sách như “Đòi Đại Việt cấp lương cho binh lính
Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam). Lần này vua Trần sai vận tải 5000
thạch lương đưa đến đầu địa phận huyện Thụy Vĩ (thuộc tỉnh Lào Cai)
giao nộp. trong chuyến vận tải này, quan quân ta vì nhiễm lam sơn
chướng khí, bị bệnh chết khá nhiều. Đến năm 1385, nhà Minh lại sai sứ

sang đòi ta nộp 20 nhà sư. Vua ta phải lo tuyển đủ để đưa sang Kinh
Lăng giao nộp.
Lập lại âm mưu của nhà Nguyên một trăm năm trước, nhà Minh lại đòi
mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành và đòi nhà Trần phải cung
cấp đầy đủ cho chúng 50 thớt voi, đặt các cung trạm dọc đường từ phủ
Nghệ An trỏ ra, ở mỗi trạm đều phải có sẵn lương thảo cho voi trên
đường sang Vân Nam.
Đụng độ với Chiêm Thành diễn ra dồn dập chưa từng có. Nếu từ cuộc
Trần Anh Tông đưa quân chinh phạt người Chiêm “phản trắc” năm 1312
đến hết năm 1341 khi Dụ Tông lên ngôi, trong khoảng 30 năm chỉ có hai
lần phải đi chinh phạt Chiêm Thành (một của Huệ Vũ Vương vào năm
1318 và của Huệ Túc Vương vào năm 1326), thì từ cuộc cử quân đi
đánh Chiêm Thành nhằm đưa Chế Mỗ về nước nhưng không thành công
vào năm 1353 trở đi đến cuộc đánh thắng Chế Bồng Nga vào năm 1390,
trong khoảng gần 40 năm mà đã có tới mười sáu lần quân Đại Việt đụng
độ với quân Chiêm Thành. Trong đó có ba lần quân Chiêm Thành đã
đánh vào tận thành Thăng Long. Hai lần vua tôi phải bỏ thành lánh nạn
(1371,1383) – một điều chưa bao giờ diễn ra trong quan hệ Đại Việt –
Chiêm Thành.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa nho sĩ và quý tộc phong kiến. Tầng lớp Nho sĩ
lúc này đang phát triển, trong khi quý tộc phong kiến lại kìm hãm sự
phát triển đó. Quý tộc phong kiến nắm một lượng lớn ruộng đất và nông
nô, kìm hãm sự phát triển của xã hội

×