Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nguyễn Trãi - nhân tài kiệt xuất của Việt Nam - Những thăng trầm trong cuộc đời_3 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.44 KB, 6 trang )

Nguyễn Trãi - nhân tài kiệt
xuất của Việt Nam - Những
thăng trầm trong cuộc đời






Khi đất nước đã sạch bóng quân thù, Nguyễn Trãi vinh dự được
viết thay Lê Lợi bản Bình Ngô đại cáo bất hủ. Ông viết bằng cả tâm
huyết, tài năng, trí tuệ của mình. Ông viết trong không khí hào hùng
của dân tộc chiến thắng, trong khung cảnh hùng tráng của “giang sơn
từ nay đổi mới”. Bình Ngô đại cáo được người đời ghi nhận là bản
“tuyên ngôn độc lập thứ hai”, là một áng “thiên cổ hùng văn” là bản
tổng kết tuyệt vời về lịch sử dân tộc và lịch sử kháng chiến chống
Minh. Qua Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần nhân đạo và niềm tự hào dân tộc, vừa phản ánh sự
nghiệp lẫy lừng của Lê Lợi và nghĩa quân, vừa thể hiện tâm hồn khí
phách của dân tộc Việt Nam.

Đất nước hồi sinh trong độc lập và thanh bình. Công cuộc xây dựng
đất nước có điều kiện tiến triển thuận lợi. Bao năm mong đợi, Nguyễn
Trãi đã tưởng nay là lúc có thể mang hết tâm huyết và tài năng làm
cho đất nước được phồn vinh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Song
tình thế đã diễn ra không như ông mong muốn. Chế độ phong kiến
quan liêu được ổn định và củng cố thì nó cũng ngày càng bộc lộ
những mặt tiêu cực với những mâu thuẫn không thể giải quyết.
Nghe những lời xiểm nịnh và cũng vì lo bảo vệ vương nghiệp của
mình, Lê Thái Tổ đã giết hại khai quốc công thần là Trần Nguyên Hãn
và Phạm Văn Xảo. Gần thời điểm này, Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ


và bị bắt giam một thời gian.
Từ ngày được tha, Nguyễn Trãi vẫn không được tin dùng. Mặc dù
trước đó ông đã được ban họ vua, được phong tước Quan Phục hầu và
giữ chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ Thượng thư , song chức
thì cao mà quyền lại không trọng. Ông không thể thi thố tài năng và
phải chịu bó tay trước mọi điều ngang tai chướng mắt. Tình hình đó
ngày càng xấu đi đối với ông, nhất là từ khi Lê Thái Tổ mất, Lê Thái
Tông kế ngôi mới hơn 10 tuổi, nhân đó bọn gian thần chấp chính càng
được thể lộng hành.

Đã bao lần, ông kiến nghị với vua những kế sách giúp dân, dựng nước
nhưng chẳng được vua nghe theo.

Ông muốn triều đình không nên quá nặng về sưu thuế và trừng phạt
mà chỉ nên chăm lo sao cho dân được làm ăn và học hành tốt hơn.

Trước cảnh đói khổ của nhân dân, đã có lúc ông nổi giận bảo vào mặt
bọn triều thần: “Sở dĩ có tai nạn ấy, chính là tự lũ các ông. Các ông
chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều”.

Về mặt hình phạt, ông không đồng ý một lúc chém bảy tên ăn trộm.
Theo ông, nhà vua phải lấy nhân nghĩa làm chính, xây dựng pháp luật
và chế độ trên cơ sở tình thương yêu nhân dân.

Một lần ông được vua giao việc soạn nhạc cung đình cùng với Lương
Đăng. Lúc đầu ông gắng sức làm, nhưng càng về sau thì giữa hai
người càng có những ý kiến bất đồng. Lương Đăng soạn nhạc, thường
chỉ hoàn toàn mô phỏng theo nhạc của triều Minh. Còn ông, khi dâng
biểu về khánh đá, ông đã nói lên được phần nào quan điểm của mình
đối với âm nhạc: “Xin bệ hạ yêu nuôi nhân dân, khiến cho các nơi

làng mạc không có tiếng oán giận, than sầu đó là không mất cái gốc
của nhạc vậy!”.

Cuối những năm 30 thế kỷ XV, triều đình ngày càng thối nát với sự
tranh giành ngày càng dữ dội giữa các phe phái. Những thủ đoạn
nham hiểm nhất đã được sử dụng để hãm hại lẫn nhau. Ông cảm thấy
ghê sợ trước sự dối trá và độc ác của những con người mà lòng dạ
“khó hiểu hơn vực sâu”, miệng nói “sắc nhọn hơn chông mác”.

Cuối cùng, để thoả mãn nguyện vọng cáo quan của ông, và cũng để
gạt ông ra khỏi việc nước, triều đình đã thuận cho ông về nghỉ tại Côn
Sơn. Ông như người trút được gánh nặng. Từ đây không ai quấy rầy
ông nữa: “Trúc có nghìn cây để ngăn khách tục. Bụi không nửa điểm
bợn đến căn nhà trên núi”. Tưởng chừng ông rất thanh thản với cuộc
sống thanh cao, không vướng bận bụi đời, nhưng sâu thẳm trong ông
vẫn là “tấc lòng ưu ái” không bao giờ nguôi trước cuộc sống thực tế
đang diễn biến phức tạp trên đất nước yêu quý của mình.

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Vào năm 1439, Lê Thái Tông bấy giờ đã lớn khôn, có ý thức củng cố
lại triều đình. Nhà vua xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra nhận lại mọi
chức tước cũ, lại phong thêm chức Môn hạ sảnh tả ty Gián nghị đại
phu kiêm Tri tam quán sự, Đề cử chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, đặc trách
trông coi hai đạo Đông và Bắc. Đầu năm 1442, với danh nghĩa Thừa
chỉ Viện hàn lâm kiêm Quốc tử giám, ông được chỉ định vào ban giám
khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên dưới thời Lê Thái Tông.
Thực hành những việc được giao, khi ở trong triều, khi đến với quân
dân hai đạo, Nguyễn Trãi đã có được một quãng thời gian làm việc với

tâm trạng thoải mái hơn. Nhưng chẳng được bao lâu thì tai hoạ bỗng
dưng ập đến. Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Phả Lại, Chí Linh, có ghé
thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, khi về có Nguyễn Thị Lộ vợ Nguyễn Trãi
đi theo xa giá, ngày 7-9-1442 đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định
(nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh). Vua ngủ lại và mất đột
ngột trong đêm hôm đó.

Triều đình lập tức vu cho Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ âm mưu giết
vua. Với bản án tru di tam tộc, chỉ 12 ngày sau đó, ngày 19-9-1442,
cả gia đình Nguyễn Trãi đã bị sát hại. Riêng người vợ lẽ là bà Phạm
Thị Mẫn may trốn thoát khi đang có mang, sau sinh ra Nguyễn Anh
Vũ.

Cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi là một bản cáo trạng đối với chế độ
quân chủ chuyên chế triều Lê, là hậu quả tất yếu và đầy nghịch lý mà
một con người “nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá”
(Phạm Văn Đồng) phải hứng chịu trong hoàn cảnh đối mặt với những
cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái, hãm hại nhau giữa một lũ gian
thần nhỏ nhen, độc ác.

Mãi 22 năm sau khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu
giải oan cho ông, truy phong chức Đặc tiền kim tử vinh lộc đại phu,
tước Tán Trù bá, bổ dụng Nguyễn Anh Vũ con trai ông làm tri huyện
và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc thờ cúng ông. “Ức Trai tâm
thượng quang Khuê tảo” (tấm lòng Ức Trai ngời sáng tựa sao Khuê).
Nhà vua anh minh đã phát biểu về Nguyễn Trãi như vậy. Năm 1467,
nhà vua còn xuống chiếu cho Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm
của Nguyễn Trãi. Đến năm 1480, Trần Khắc Kiệm đã hoàn thành sưu
tập và đề tựa tập thơ chữ Hán Ức Trai di tập.
Nguyễn Trãi không còn nữa, nhưng tinh thần và sự nghiệp của ông

vẫn sống mãi với non sông đất nước và mãi mãi không phai mờ trong
tâm trí của mỗi người Việt Nam.

Ông là người anh hùng vĩ đại trọn đời chiến đấu hy sinh cho dân tộc,
nhà chiến lược thiên tài mà công lao to lớn đã góp phần quyết định
trong cuộc đánh thắng quân Minh, giải phóng đất nước.

Ông là nhà văn nhà thơ lỗi lạc đã để lại một di sản lớn về văn học với
nhiều kiệt tác. Ngoài những tác phẩm nhằm trực tiếp phục vụ cuộc
chiến đấu giành độc lập mà tiêu biểu là Quân trung tùy mệnh và Bình
Ngô đại cáo, ông còn viết Phú núi Chí Linh và Văn bia Vĩnh Lăng nêu
bật công tích của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, viết Dư địa chí, cuốn
địa lý học lịch sử đầu tiên của nước ta, v.v. Ông sáng tác hơn 100 bài
thơ chữ Hán, hơn 250 bài thơ chữ Nôm về sau được sưu tập thành hai
cuốn Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.

Ông là nhà trí thức uyên bác, tài đức vẹn toàn. Là nhà văn hóa kiệt
xuất của dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới làm rạng rỡ non sông
đất nước.

Ông là tinh hoa dân tộc, tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của
con người Việt Nam. Ông vươn tới đỉnh cao nhất trong phạm vi thời
đại của ông, làm đầy đủ nhất những việc mà người trí thức trong hoàn
cảnh của ông có thể làm. Ông hoàn toàn xứng đáng với lòng khâm
phục và tự hào của dân tộc.

×