Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA HỒ QUÝ LÝ _1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.88 KB, 6 trang )

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
CỦA HỒ QUÝ LÝ








Phần II: NỘI DUNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH

I. Cải cách hành chính

Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị Hồ Quý Ly từng bước
thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực

Về tổ chức hành chính: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu
quân sự, Quý Ly đã đề nghị chọn các quan viên, người nào có tài
năng, luyệ tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất,
đều cho làm tướng coi quân.

Từ năm 1397, Hồ quý Ly đã đổi một số lộ ở xa thành trấn như: Thanh
Hóa đổi thành trấn Thanh Đô, Quốc Oai thành trấn Quãng Oai, Diễn
Châu đổi thành trấn Vọng Giang,… và nâng một số châu lên thành lộ.
Ở các lộ thống nhất việc chỉ huy quân sự và hành chính trong tay
những quan chức gọi là Đô hộ, Đô thống, Tổng quản do các đại thần
nắm. Các lộ vẫn đặt chánh, phó An phủ sứ như cũ, ở phủ đặt chánh,
phó Trấn phủ như cũ; ở châu đặt Thông phán và Thiên phán; ở huyện
đặt lệnh úy và chủ bạ, bỏ đại tiểu, tư xã và giữ giáp như cũ. Ở các
trấn việc việc cai trị nặng nề mang tính chất quân sự. Để tăng cường


giao thông liên lạc giữa trung ương và địa phương, các hệ thống trạm
dịch được bổ sung. Để bảo đảm an ninh ở mỗi lộ có đặt chức liêm
phóng sứ- một chức quan chuyên trông coi việc dò xét tình hình,
trông coi bộ máy mật thám và dò la tin tức. Đồng thời quy định chế
độ làm việc: “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những
việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng dều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối
năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét.

Khu vực quanh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly đổi thành Đông Đô
lộ do phủ đô hộ cai quản. Hồ quý Ly cho dời đô về An Tôn (Tây Đô).
Cùng năm này Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn(
Vĩnh Tôn- Thanh Hóa), để lại cho đời sau một công trình kiến trúc lớn,
tục gọi là thành nhà Hồ.

Hồ Quý Ly cũng định cách thức mũ và phẩm phục của các quan văn
võ: Nhất phẩm màu áo tía, nhị phẩm áo màu đại hồng, tam phẩm áo
màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm trở xuống màu xanh biếc.
Chế độ Thái thượng hoàng được bãi bỏ cuối thời trần, nhưng đến khi
nhà trần thành lập, năm 1404 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ
Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng hoàng.

Về hành chính địa phương của nhà Hồ cơ bản giống Nhà Trần:


Không theo nề nếp nhà tiền Lê, Lý, Trần phong tặng quan tước cho
quý tộc tôn thất. Không đưa nhiều quý tộc nhà Hồ vào bộ máy nhà
nước. Hồ Hán Thương “cấm người tôn thất, cung nhân không được
xưng quý hiệu, người vi phạm bị trị tội”

II. Cải cách quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, chủ yếu là quan

hệ ruộng đất bằng chính sách “hạn điền”

Mục tiêu của hạn điền là hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý
tộc phong kiến:

Chiếm hữu lớn về ruộng đất của nhà Trần vừa là do phân phong, vừa
là do chiếm dụng: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của
mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai, ba năm khai
khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều
đất tư trang”

Nay “Năm 1397, tháng 6 (âm lịch) xuống chiếu hạn chế danh điền
(tức ruộng có người đứng tên”. Riêng đại vương và trưởng công chúa
thì số ruộng không hạn chế.

Đến thứ dân thì số ruộng đến 10 mẫu. Người nào có nhiều thì tùy ý
được lấy ruộng để chuộc tội. Bị biếm chức hay mất chức cũng được
làm như vậy. số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.

“Hạn điền đánh vào nền tảng kinh tế của quyền uy chính trị của quý
tộc phong kiến.

Tuy vậy cải cách này cũng chỉ là nửa vời. Bởi vì trong khi xã hội đang
có yểu cầu tư hữu hóa ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa tiền
tệ và giải quyết nạn thiếu đói, thì số ruộng đất ngoài 10 mẫu được lấy
ra lại bị xung công “hiến cho nhà nước” biến thành quan điền”

Tuy việc đưa ruộng đất rút ra từ “hạn điền” vào sở hữu chung của nhà
nước phong kiến quan liêu như vậy là tiến bộ hơn sở hữu lớn của
phong kiến quý tộc, nhưng nó cũng chỉ có tác dụng củng cố quyền lực

Nhà nước chứ không phát triển được kinh tế, cải thiện được dân sinh,
tăng cường được khối đoàn kết dân tộc chống ngoaị xâm.
Phần náo đó là sự duy trì tính chất công hữu về ruộng đất của phương
thức sản xuất châu Á mà đến thế kỷ XV đã quá lỗi thời.

×