Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Dạy học theo chủ đề và sự vận dụng nó vào giảng dạy phần kiến thức các định luật bảo toàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 141 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





TRẦN VĂN HỮU



DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ
VÀO GIẢNG DẠY PHẦN KIẾN THỨC
“CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” VẬT LÍ LỚP 10 THPT
VỚI SỰ HỖ TR CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN


Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lí

Mã số: 60.14.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THỊ THANH THẢO




THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2005

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê
Thò Thanh Thảo đã tận tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả chân thành cảm ơn các thầy, cô khoa Vật Lý và phòng
Khoa học công nghệ – Sau đại học trường Đại học sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy và truyền đạt nhiều kiến thức
mới, giúp tác giả làm quen dần với việc nghiên cứu khoa học.
Tác giả chân thành cảm ơn các thầy, cô phản biện đã nhận xét
và sửa chữa những thiếu sót để luận văn hoàn chỉnh hơn.
Tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Hàm
Thuận Nam, thuộc tỉnh Bình Thuận, nơi tác giả đang công tác, trường
THPT Phan Bội Châu, nơi tác giả tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, góp ý
để tác giả hoàn thành luận văn này.


Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn

CNTT : Công nghệ thông tin.
CNTT-TT : Công nghệ thông tin - truyền thông.
CQ : Câu hỏi nội dung. (Content Questions)
EQ : Câu hỏi khái quát. (Essential Questions).
GV : Giáo viên.
KHBG : Kế hoạch bài giảng.
KT-ĐG : Kiểm tra đánh giá.

KHKT : Khoa học kỹ thuật.
KHCN : Khoa học công nghệ.
HS : Học sinh.
MVT : Máy vi tính
PBL : Dạy học theo dự án (Project Based Learning).
PL : Phụ lục
PPGD : Phương pháp giảng dạy.
TG : Thế giới.
THCS : Trung học cơ sở.
THPT : Trung học phổ thông.
SGK : Sách giáo khoa.
UQ : Câu hỏi bài học (Unit Questions).
Xtr-i : Xem trang i trong luận văn.
Xtr-CD : Xem trên đóa CD kèm theo.

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại mà những thành tựu của nó gần
như được áp dụng ngay lập tức vào tất cả các lónh vực, là động lực thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và tạo ra những chuyển biến cơ
bản trong nền sản xuất hiện đại. Để đáp ứng được những chuyển biến mạnh mẽ đó,
người lao động không những phải có trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ nhất
đònh còn phải có tính độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết
vấn đề thực tiễn, có khả năng đào tạo và tự đào tạo để không ngừng phát triển và
đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và sản xuất. Thực tiễn đó đặt ra cho nền giáo
dục của mỗi quốc gia phải không ngừng đổi mới cả về nôïi dung cũng như phương
pháp giáo dục và đào tạo con người.
Đònh hướng đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học đã được
xác đònh trong Nghò quyết Trung ương khóa VII (01 – 1993), Nghò quyết Trung ương

2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục (12 - 1998), được cụ thể
hóa trong các chỉ thò của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thò 15 (4 – 1999) và
được vạch rõ trong chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 (1999).
Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 đã xác đònh, để phát triển giáo
dục thì: “đổi mới chương trình giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên là trọng tâm”
hay “… nội dung, chương trình cần được đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, tiếp cận với trình độ chương trình của các khu vực và trên thế giới, đồng thời
thích ứng với nguồn nhân lực cho các lónh vực kinh tế – xã hội của đất nước, … .
Nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục để đổi mới phương pháp
giáo dục và quản lý”.

Luật giáo dục, điều 24.2 đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kó năng vận dụng
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh” …
Để việc đổi mới diễn ra một cách đồng bộ, triệt để, tiếp cận được với nền giáo
dục trong khu vực và trên thế giới cần đổi mới sâu sắc từ mục tiêu, nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy và phương tiện kiểm tra đánh giá. Trong đó việc xác
đònh mục tiêu giữ vai trò chủ đạo, từ đó có cơ sở để xác đònh nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học một cách hợp lí. Nội dung kiến thức cần trang bò cho HS phải
nằm trong một cấu trúc chặt chẽ, gắn kiến thức giáo dục với thực tiễn cuộc sống
hàng ngày và đặc biệt hệ thống kiến thức này phải hỗ trợ cho GV vận dụng được các
phương pháp dạy học hiện đại cũng như ứng dụng công nghệ hiện đại vào dạy học.
Trên thế giới, theo đánh giá của UNESCO, việc đổi mới nội dung chương trình
và cách tiếp cận nội dung chương trình dạy học ở nhiều quốc gia đang có xu hướng
tích hợp theo chủ đề học tập và cách tiếp cận dạy học theo chủ đề cùng với sự tích
hợp công nghệ vào dạy học đang được quan tâm, chú trọng một cách đặc biệt. Đổi
mới phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin (CNTT) là một chương trình lớn
được UNESCO chính thức dưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa

của thế kỷ XXI. UNESCO đã dự đoán rằng sẽ có sự thay đổi một cách căn bản nền
giáo dục trên thế giới ở đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT.
Ở nước ta, mặc dù đã có những chiến lược đổi mới về mục tiêu, chương trình,
nội dung cũng như đònh hướng đổi mới phương pháp giảng dạy như trên. Cụ thể, gần
đây nhất, chúng ta đã triển khai biên soạn và thử nghiệm chương trình SGK mới.
Nhưng qua tổng kết, bên cạnh một số ưu điểm, việc đổi mới vẫn được đánh giá là
chưa đồng bộ, nên việc thực hiện mục tiêu giáo dục đặt ra vẫn còn gặp những khó
khăn hạn chế. Một vài trong số những khó khăn vẫn được quan tâm và bàn luận

nhiều nhất là sự mâu thuẫn giữa mục tiêu đào tạo với nội dung chương trình đào tạo;
giữa phương pháp giảng dạy với chương trình SGK; giữa mục tiêu, nội dung, phương
pháp giảng dạy với nền tảng kiến thức của người học và phương tiện kiểm tra đánh
giá, …
Khi tìm hiểu cấu trúc, nội dung kiến thức và thực trạng dạy học phần kiến thức
các đònh luật bảo toàn ở lớp 10 THPT hiện nay, chúng tôi nhận thấy khi dạy phần
kiến thức này, cả GV và HS đều gặp phải những khó khăn về mặt nội dung kiến
thức, về logic hình thành cũng như phương pháp tiếp cận từng đơn vò kiến thức, do đó
dẫn đến chất lượng và hiệu quả dạy học phần kiến thức này chưa cao.
Với xu thế xã hội và thực tiễn đặt ra như trên, cùng với sự mong muốn nâng cao
chất lượng dạy học phần kiến thức này, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu là: “DẠY
HỌC THEO CHỦ ĐỀ VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO GIẢNG DẠY PHẦN KIẾN
THỨC “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” VẬT LÍ LỚP 10 THPT VỚI SỰ HỖ TR
CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN”.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng quan điểm tiếp cận dạy học theo chủ đề với sự hỗ trợ của
CNTT vào dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của HS, từ đó nâng cao hiệu quả
dạy học.
III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu bao gồm:

- Mục tiêu giáo dục các môn khoa học về tự nhiên.
- Nội dung chương trình Vật lí THPT.
- Phương pháp giảng dạy vật lí.
- Phương tiện dạy học vật lí ở trường phổ thông,

- Một số phần mềm tin học hỗ trợ trong dạy học.
2. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu là Lý luận dạy học Vật lí ở trường THPT.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu xây dựng tài nguyên hỗ trợ cho việc giảng dạy và thiết kế tiến trình
dạy học phần kiến thức các đònh luật bảo toàn trong chương trình vật lí 10 THPT theo
quan điểm tiếp cận dạy học theo chủ đề với sự hỗ trợ của CNTT.
Khả năng ứng dụng của đề tài vào giảng dạy vật lí ở các trường THPT.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu sự thay đổi mục tiêu dạy học các môn khoa học về tự nhiên ở
trường phổ thông.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của cách tiếp cận dạy học theo chủ đề.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc sử dụng CNTT trong dạy học vật lí.
- Tìm hiểu thực tế của việc giảng dạy phần kiến thức về các đònh luật bảo
toàn ở trường THPT.
- Nghiên cứu xây dựng website hỗ trợ cho việc giảng dạy phần kiến thức về
các đònh luật bảo toàn.
- Nghiên cứu thiết kế chủ đề học tập phần kiến thức về các đònh luật bảo toàn
trên tinh thần của cách tiếp cận dạy học theo chủ đề với sự hỗ trợ của
CNTT.
- Nghiên cứu hiệu quả sư phạm của việc vận dụng cách tiếp cận dạy học mới,
trên đối tượng HS THPT.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lý thuyết:


- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng.
- Nghiên cứu các tài liệu về giáo dục học và phương pháp giảng dạy vật lí,
các phương pháp tiếp cận dạy học hiện đại trên thế giới.
- Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn sử dụng công nghệ trong dạy học; các tài
liệu liên quan đến sử dụng một số phần mềm thiết kế web, khai thác
Internet.
2. Điều tra:
- Nghiên cứu, điều tra ý kiến của GV về khả năng vận dụng cách tiếp cận dạy
học theo chủ đề với sự hỗ trợ của CNTT vào dạy học trong trường THPT trong tương
lai.
3. Nghiên cứu thực nghiệm:
- Nghiên cứu sử dụng máy tính và một số thiết bò ngoại vi, cách quản lý việc
học của HS trong phòng máy tính nối mạng.
- Khai thác các tài liệu có liên quan đến chủ đề học tập từ Internet, từ các
đồng nghiệp.
- Thiết kế Website hỗ trợ dạy học.
- Thiết kế tiến trình dạy học.
- Chọn mẫu và dạy thực nghiệm ở trường THPT.
4. Thống kê toán học:
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư
phạm và kiểm đònh giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai
nhóm đối chứng và thực nghiệm.
Cấu trúc của luận văn:
Luận văn được cấu trúc như sau:

PHẦN MỞ ĐẦU.
PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1:
Những cơ sở lý luận của cách tiếp cận dạy học theo chủ đề với sự
hỗ trợ của CNTT.

Chương 2:
Thiết kế các bài học theo quan điểm tiếp cận dạy học theo chủ đề
với sự hỗ trợ của CNTT.
Chương 3:
Thực nghiệm sư phạm.
PHẦN KẾT LUẬN.
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHẦN PHỤ LỤC.
Trong đó:
Phần mở đầu có 5 trang.
Phần nội dung có 115 trang.
Phần kết luận có 3 trang.
Phần phụ lục có 9 trang.
Luận văn có sử dụng 55 tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
NHỮNG CƠ SỞ CỦA CÁCH TIẾP CẬN DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
VỚI SỰ HỖ TR CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1.1.
SỰ THAY ĐỔI CÁCH TIẾP CẬN MỤC TIÊU GIẢNG DẠY CÁC MÔN
KHOA HỌC VỀ TỰ NHIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG.
1.1.1. Mục tiêu giáo dục các môn khoa học về tự nhiên từ những
năm 80 trở về trước.
Nhìn chung, mục tiêu giáo dục phổ thông của Việt Nam giai đoạn này dựa trên
mục tiêu giáo dục phổ thông của Liên Xô (cũ). Cụ thể, mục tiêu tổng quát là: đào
tạo con người phát triển toàn diện: đức, trí, thể, mó, “… có trình độ văn hóa ngày
càng cao, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học kó thuật, và áp dụng
những hiểu biết đó vào xây dựng nền văn hóa, khoa học và kó thuật tiên tiến, thiết
thực phục vụ sự nghiệp cách mạng XHCN, nâng cao không ngừng đời sống vật chất

và văn hóa của nhân dân ta”. [23]
Cụ thể hóa mục tiêu đó, mục tiêu cụ thể của các môn khoa học về tự nhiên nói
chung và môn Vật lí nói riêng được xác đònh thông qua các nhiệm vụ:
Truyền thụ cho HS hệ kiến thức về khoa học tự nhiên, nhằm giúp người học có
một bức tranh chân thực về thế giới tự nhiên; trang bò hệ thống kiến thức về các
phương pháp nhận thức thế giới và phương pháp tư duy. Với môn Vật lí: truyền thụ
cho HS hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản, có hệ thống về cơ, nhiệt, điện, quang,
nguyên tử và vật lí hạt nhân [14]. Đặc biệt chú trọng xây dựng các khái niệm chủ
chốt, cho rằng: “Nắm vững các khái niệm có nghóa là nắm vững toàn bộ tập hợp
những tri thức về các sự vật mà khái niệm đã cho có quan hệ với chúng” [23].
Phát triển tư duy của HS trong việc thu nhận kiến thức và vận dụng kiến thức
một cách sáng tạo, bồi dưỡng cho HS có phương pháp học tập, phương pháp nghiên

cứu khoa học, bồi dưỡng lòng ham thích nghiên cứu khoa học, trí tò mò, óc sáng tạo,
ý thức tích cực, góp phần vào công cuộc cách mạng kỹ thuật trong quá trình học tập
và chuẩn bò ra thực tế, có khả năng tự lập trong học tập và lao động sản xuất.[14].
Góp phần xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho HS, làm cho họ hiểu
thế giới tự nhiên là vật chất, vật chất luôn ở trạng thái vận động và vận động theo
quy luật. Củng cố lòng tin khoa học vô thần, ở khả năng con người có thể nhận biết
được các quy luật tự nhiên và nhận biết ngày càng chính xác. Góp phần giáo dục
lòng yêu nước, yêu CNXH, tinh thần quốc tế vô sản, rèn luyện nhân sinh quan chủ
nghóa và cộng sản chủ nghóa, từ tính cần cù, cẩn thận, chính xác, cho đến tinh thần
tập thể, thái độ lao động XHCN trong học tập và lao động.
Góp phần giáo dục kó thuật cho HS, làm cho HS nắm được những nguyên lí cơ
bản về các quá trình sản xuất của những ngành chủ yếu. Rèn luyện cho họ kó năng kó
xảo trong việc sử dụng những dụng cụ đo lường đơn giản, phương pháp thực nghiệm
khoa học, biết tiến hành công tác thực hành có kế hoạch và biết xử lý các số liệu
thực nghiệm.
1.1.2. Mục tiêu giáo dục các môn khoa học về tự nhiên khoảng sau
những năm 90 đến nay.

Từ khi cải cách giáo dục cho đến nay, mục tiêu giáo dục phổ thông ở Việt Nam
vẫn cơ bản giữ vững quan điểm toàn diện, chú trọng cả bốn mặt đức, trí, thể, mỹ
nhằm đào tạo những người lao động mới có khả năng xây dựng và bảo vệ tổ quốc
XHCN. Bên cạnh đó, nhấn mạnh thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới:
coi trọng giáo dục tư tưởng, chú trọng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, một mặt
phải học để nắm vững và làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại mà nhân
loại đã tích lũy được; mặt khác phải có tư duy sáng tạo, phát huy tiềm năng của dân
tộc và con người Việt Nam; người lao động mới vừa phải có ý thức cộng đồng, tinh
thần tập thể vì sự nghiệp chung hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, vừa phải phát huy tính tích

cực cá nhân, năng động, chủ động, đem hết tài năng, sức lực của mình cống hiến cho
đất nước [33].
Đối với các môn khoa học tự nhiên nói chung và bộ môn Vật lí nói riêng, mục
tiêu dạy học hướng tới:
Về kiến thức: Trang bò cho HS hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại,
bao gồm: các khái niệm vật lí; các đònh luật, nguyên lý vật lí; những nét chính của
các thuyết vật lí, phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình hóa trong vật lí;
những ứng dụng quan trọng của vật lí trong đời sống và sản xuất.
Về kó năng: chú trọng rèn luyện cho HS các kó năng:
- Thu lượm thông tin từ quan sát thực tế, thí nghiệm, điều tra, sưu tầm tài
liệu, tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, khai thác mạng
internet, …
- Các kó năng xử lí thông tin như: xây dựng bảng, biểu đồ, vẽ đồ thò, rút ra
kết luận bằng suy luận quy nạp, suy luận diễn dòch, khái quát hóa, …
- Các kó năng truyền đạt thông tin: thảo luận khoa học, báo cáo viết, …
- Kó năng vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng.
- Giải bài tập vật lí phổ thông.
- Khả năng đề xuất khoa học và thí nghiệm kiểm tra.
Về tình cảm, thái độ, tác phong, cần bồi dưỡng:
- Sự hứng thú học tập, lòng yêu thích khoa học.

- Tác phong làm việc khoa học, cẩn thận, tỉ mỉ.
- Tính trung thực trong khoa học.
- Tinh thần hợp tác trong học tập và nghiên cứu.

Có thể nói, mục tiêu giáo dục các môn khoa học về tự nhiên ở nước ta, theo
thời gian, đã thay đổi theo hướng tích cực. Tuy nhiên, cách tiếp cận mục tiêu giáo
dục của Việt nam hiện nay vẫn là cách tiếp cận mục tiêu giáo dục kiểu truyền thống.
Thật vậy. Trong lòch sử phát triển các cách tiếp cận mục tiêu giáo dục thì cách
tiếp cận mục tiêu theo quan điểm của nhóm Bloom được gọi là cách tiếp cận truyền
thống (mục tiêu giáo dục xác lập trong ba lónh vực: nhận thức, kỹ năng và thái độ),
trong đó quy đònh cụ thể những yêu cầu trong lónh vực nhận thức (về kiến thức, trình
độ nắm vững kiến thức); các kỹ năng cơ bản và trình độ hoàn thiện từng kỹ năng....
và điều quan trọng là các mục tiêu có thể cụ thể hóa thành những tiêu chí đánh giá
chung cho phép đo lường – đánh giá thành quả học tập của từng học sinh. Mục tiêu
kiểu truyền thống thể hiện sự chờ đợi kết quả học tập ở tất cả học sinh, dù có sự
khác biệt cá nhân như thế nào đều đạt tới một chuẩn mực nhất đònh sau một khóa
học nào đó.
Ở thời điểm ra đời, cách tiếp cận mục tiêu này đã ngay lập tức mang đến cuộc
cách mạng thực sự trong giáo dục, đẩy nhanh sự phát triển giáo dục ở nhiều quốc gia
trong các thập niên sau đó (từ những năm 50 của thế kỷ XX và vẫn còn phổ biến ở
nhiều quốc gia cho đến ngày nay).
Bên cạnh những ưu việt không thể phủ nhận của cách tiếp cận mục tiêu giáo
dục này thì đồng thời nó cũng thể hiện những hạn chế lớn: Đó là giáo dục tạo các
sản phẩm giáo dục (nhân cách) khuôn đúc, nó không quan tâm tới sự phong phú, đa
dạng vốn có của nhân cách cá nhân, cũng có nghóa là không quan tâm đến sự khác
biệt, phong phú, đa dạng của phong cách học tập, phong cách tư duy...., cũng có
nghóa là không quan tâm đến đònh hướng tương lai, nghề nghiệp khác nhau của người
học.
Mục tiêu giáo dục các môn học ở trường phổ thông Việt Nam lần đầu tiên được
chính thức hóa trong văn bản của ngành giáo dục là mục tiêu của lần phân ban này.

Điều dễ nhận ra là nó vẫn được thiết lập theo cách tiếp cận mục tiêu truyền thống.

Chúng ta sẽ đối chiếu và so sánh cách tiếp cận mục tiêu DH các môn khoa học (về
tự nhiên) hiện nay ở nước ta với cách tiếp cận mục tiêu DH hiện đại trên TG ở phần
tiếp theo để làm sáng tỏ hơn điều này.
1.1.3. Hiện trạng mô hình dạy học vật lý ở nước ta.
Ở Việt Nam do mục tiêu giáo dục các môn học ở trường phổ thông không được
chính thức hóa bằng văn bản quản lý giáo dục các cấp trong một thời gian dài nên dù
chúng có được xác lập ở phương diện nghiên cứu và đào tạo giáo viên chăng nữa
cũng vẫn không trở thành yếu tố bắt buộc phải thực hiện trong thực tiễn. Trong thực
tiễn giáo dục phổ thông mục tiêu giáo dục đích thực của các môn học đã bò chi phối
triệt để bởi nội dung, cách thức thi cử nhiều chục năm qua (chỉ quan tâm đến dung
lượng và mức độ đồng hóa kiến thức, việc vận dụng kiến thức chủ yếu được quy về
các kỹ năng giải các bài tập vật lý mà cùng với thời gian chúng đã ngày càng biến
thái thành những bài toán vật lý lắt léo, đánh đố, xa rời thực tiễn, nhưng lại cần
nhiều thủ thuật, cần thời gian khổ luyện).
Chính nội dung, cách thức thi cử này đã đưa đến một kiểu “dạy học truyền
thống tiêu cực” phổ biến hiện nay hướng tới các mục tiêu thi cử lệch lạc như thế.
Trong kiểu dạy học tiêu cực này người giáo viên thấy rằng không cần thiết phải sử
dụng phương tiện, đồ dùng dạy học, không cần phải quan tâm, chú ý diễn biến tâm
lý, đến sự phát triển của học sinh (mặc dù họ đã được chuẩn bò về hiểu biết và trang
bò những kỹ năng nhất đònh trong quá trình đào tạo), mà chỉ cần truyền thụ bản thân
kiến thức và yêu cầu học sinh ghi nhớ kiến thức và luyện tập cho họ giải bài tập vật
lý, là các nội dung thường có trong các kỳ thi. Không chỉ riêng việc dạy học mà mọi
tác động giáo dục trong nhà trường phổ thông đều bò chi phối bởi mục tiêu thi cử,
đánh giá. Trong kiểu dạy học này các phương pháp dạy học truyền thống vốn có
nhiều ưu điểm trở thành các phương pháp dạy học tiêu cực, ở đó người giáo viên là
trung tâm, là độc tôn trong quá trình dạy học, diễn biến trên lớp học phổ biến trong
thực tế chỉ còn là thầy thuyết trình hay đọc, trò nghe và ghi chép, nhớ và lặp lại,


phương tiện dạy học chỉ còn là phấn bảng, thí nghiệm vật lý trở thành xa xỉ và chỉ
được sử dụng trong các kỳ thi giáo viên dạy giỏi các cấp...
Có thể nói mô hình dạy học truyền thống tiêu cực là không có mục tiêu hay lấy
nội dung dạy học làm mục tiêu cũng vậy (cách tiếp cận nội dung cũng đã có trong
lòch sử phát triển giáo dục, phổ biến đến những năm 40 của thế kỷ XX, ngày nay
được coi là cách tiếp cận chương trình học lạc hậu nhất).
1.1.4. Cách tiếp cận mục tiêu DH theo hướng hiện đại:
Những hạn chế của cách tiếp cận truyền thống thúc đẩy sự ra đời gần như cùng
một giai đoạn ở thập niên 60, 70 một cách tiếp cận mục tiêu giáo dục mang tính nhân
văn gần như trái ngược lại, đó là cách tiếp cận chủ trương coi trọng nhu cầu cá nhân,
cố gắng làm cho mục tiêu, nội dung học tập thích hợp với người học, coi người học là
trung tâm của quá trình dạy học, coi trọng hứng thú và sự chọn lựa của người học.
Cách tiếp cận này dựa trên nguyên tắc coi mục tiêu giáo dục là sự hiện thực hóa sự
trưởng thành hoặc khả năng của người học.
Tuy nhiên, giáo dục thời kỳ nào cũng là tác động trên bình diện toàn xã hội,
giáo dục bên cạnh sự cần thiết thỏa mãn nhu cầu học tập và phát triển cá nhân, tạo
điều kiện cho sự phát triển nhân cách đa dạng của các nhân thì giáo dục còn có
nhiệm vụ lớn lao là giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho
đònh hướng phát triển của quốc gia.
Cách tiếp cận truyền thống – nhân văn (hay cách tiếp cận hiện đại, tiếp cận
phát triển, tiếp cận quá trình) thực chất là sự dung hòa cần thiết hai quan điểm trên
nhằm làm cho giáo dục không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội mà còn làm cho
người học tìm thấy sự thỏa mãn nhu cầu học tập và có cơ hội phát triển cá nhân. Các
xu hướng đổi mới giáo dục phổ thông (và cả các bậc học cao hơn) của nhiều quốc gia
hiện nay đồng tình với cách tiếp cận mục tiêu này.

Chúng ta hãy xem và so sánh một số mục tiêu giáo dục (MTGD) khoa học hiện
nay qua Bảng 1 dưới đây:
BẢNG 1:
MTGD MÔN HỌC VẬT LÝ

CỦA VN HIỆN NAY
MTGD KHOA HỌC Ở
NHIỀU NƯỚC
MTGD THIÊN
NIÊN KỶ CỦA
UNESCO
+ Ban tự nhiên:
- Mục tiêu kiến thức:
a) Những khái niệm tương đối
chính xác về sự vật, hiện tượng,
quá trình vật lý thường gặp
b) Những đònh luật, nguyên lý vật
lý quan trọng nhất
c) Những nét chính của các
thuyết vật lý
d) Những hiểu biết cần thiết về
phương pháp thực nghiệm,
phương pháp mô hình
e) Những nguyên tắc cơ bản của
những ứng dụng quan trọng của
vật lý trong đời sống và sản xuất.
- Mục tiêu kỹ năng:
a) Thu thập thông tin từ quan sát,
thí nghiệm vật lý, từ tài liệu và
các nguồn thông tin đại chúng…,
b) Xử lý thông tin về vật lý (xây
dựng biểu đồ, vẽ đồ thò, suy luận,
khái quát hóa…),
c) Truyền đạt thông tin về vật
lý;….

d) Giải thích các hiện tượng vật
lý,
e) Các kỹ năng thực hành vật lý
(sử dụng dụng cụ đo, đo đạc, lắp
ráp thí nghiệm…
f) Đề xuất các dự đoán khoa học,
các phương án thí nghiệm…
- Mục tiêu thái độ: Sự hứng thú
học tập môn học vật lý, có lòng

Mục tiêu nhận thức:
Phát triển kiến thức khoa
học: Có thay đổi lớn là:
a) Coi trọng việc làm thế
nào tiếp cận và sử dụng
thông tin hơn việc hiểu
biết một số lượng nhất
đònh các khái niệm khoa
học chủ chốt.
b) Nội dung kiến thức
không quan trọng bằng kỹ
năng tiến trình khoa học
và sự hiểu biết về tiến
trình khoa học.
Mục tiêu kỹ năng:
1- Phát triển tư duy lý trí.
2- Tiến trình khoa học và
các kỹ năng tiến trình
khoa học:
a) Quan sát,

b) Làm việc với thông tin:
- khai thác thông tin,
- so sánh thông tin,
- phân loại thông tin,
- sắp xếp thông tin,
- liên hệ….
c) Suy luận
d) Áp dụng


Mục tiêu thái độ:
Phát huy thái độ tích cực

Mục tiêu nhận
thức:
Học để biết
Thu thập thông tin
chuẩn hóa thành
kiến thức. Nhấn
mạnh tạo lập tri
thức như công cụ
nhận thức và tư
duy. Tri thức vừa là
phương tiện vừa là
mục đích


Mục tiêu kỹ năng
Học để làm
- Coi trọng kỹ năng

làm việc (theo
nhóm, sáng kiến, kỹ
năng giải quyết vấn
đề, óc độc lập, phê
phán...)
- Kỹ năng sống:
giao tiếp, hợp tác,
điều hành, quản lý
- Sau đó mới tới các
kỹ năng thuần túy
trí tuệ.

Mục tiêu thái độ:
Học để chung sống
Học để tự khẳng

yêu thích khoa học, có tác phong
làm việc khoa học, có tính trung
thực khoa học, có ý thức sẵn sàng
áp dụng hiểu biết vật lý vào thực
tế…
+ Ban xã hội: Trong các mục
tiêu kiến thức của ban tự nhiên
thì giảm nhẹ (?)ï các mục tiêu b,
c, d. Giảm nhẹ các yêu cầu về
tính toán đònh lượng và về lý
thuyết trừu tượng.
Trong các mục tiêu kỹ năng,
giảm nhẹ (?) các yêu cầu a, b, c, f


đối với khoa học, đó là
niềm tin, sự say mê, hứng
thú đối với khoa học.
** Mục tiêu cơ bản của
mô hình dạy học dự án:
- Phát triển kỹ năng tư
duy (bậc cao: tổng hợp,
đánh giá, phê phán, sáng
tạo).
- Phát triển kỹ năng làm
việc và kỹ năng sống
(hợp tác, đưa ra quyết
đònh, giải quyết vấn
đề....)
đònh (tự quyết đònh,
tự chòu trách nhiệm,
tự kiểm soát...)
So sánh các quan điểm về mục tiêu trên dễ dàng nhận thấy:
+ Mục tiêu giáo dục của môn vật lý và của nhiều môn học về tự nhiên khác ở
trường phổ thông của Việt Nam trước đây và hiện nay, dù là xác lập cho ban nào
cũng gần như chỉ hướng tới trang bò kiến thức, kỹ năng... chủ yếu cho một loại hoạt
động: hoạt động nghiên cứu khoa học (vật lý), coi trọng phát triển tư duy thuần túy trí
tuệ (trang bò kiến thức khoa học vật lý, các phương pháp nghiên cứu vật lý, rèn luyện
các kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề trong học tập và nghiên cứu vật lý,
phát triển tư duy khoa học vật lý...).
+ Trong khi đó mục tiêu các môn khoa học về tự nhiên ở trường phổ thông theo
xu thế hiện nay ở của nhiều nước trên thế giới và mục tiêu giáo dục rất thuyết phục
do tổ chức giáo dục lớn nhất hành tinh (Unesco) đưa ra lại có những khác biệt rất cơ
bản với quan niệm quen thuộc của chúng ta, theo đó mục tiêu giáo dục các môn khoa
học là sự kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu nhân văn, đáp ứng nhu cầu học tập và

phát triển của cá nhân, của các phong cách học tập khác nhau với mục tiêu truyền
thống hướng tới những nội dung kiến thức và kỹ năng cần thiết phục vụ cho nhu cầu
sự phát triển có đònh hướng nguồn nhân lực cho xã hội. Theo quan niệm này việc dạy
các môn học khác nhau hướng tới nhiều mục tiêu chung như:

- Hiểu biết về tiến trình khoa học và các kỹ năng tiến trình khoa học (không
phải là hiểu hiết về hoạt động nghiên cứu của mỗi khoa học, không phải là các kỹ
năng cần thiết cho hoạt động học tập và nghiên cứu trong mỗi khoa học mà là tiến
trình và các kỹ năng cần thiết có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề thuộc các lónh
vực khác nhau một cách khoa học:
- Các kỹ năng tư duy bậc cao: phân tích, tổng hợp, đánh giá,
- Các kỹ năng sống và làm việc trong xã hội đương đại: giao tiếp, ngôn ngữ,
hợp tác, quản lý, tổ chức. điều hành, ra quyết đònh...).
1.2.
SỰ ĐỔI MỚI CÁCH TIẾP CẬN MỤC TIÊU DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI
CÁC THÀNH TỐ CÒN LẠI CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC.
1.2.1. Sự khác biệt giữa các yếu tố của các mô hình dạy học:
Sự khác biệt về cách tiếp cận mục tiêu đã đưa đến sự khác biệt ở hầu hết các
yếu tố của các mô hình dạy học. Nếu xét các mô hình dạy học dựa trên một số yếu
tố: hình thức tổ chức dạy học, thái độ người học, tính chất quản lý người học, cơ sở lý
luận dạy học, yếu tố trung tâm của quá trình dạy học, phương tiện dạy học, quan hệ
thầy – trò, quan hệ HS – HS, kết quả chủ yếu thu được, chúng ta có thể so sánh sự
khác nhau giữa các yếu tố của mỗi mô hình qua Bảng 2 sau đây:

BẢNG 2:
II III IV I
CÁC YẾU
TỐ
TIẾP CẬN
TRUYỀN

THỐNG
TIẾP CẬN
NHÂN VĂN
TIẾP CẬN
HIỆN ĐẠI
TRUYỀN
THỐNG TIÊU
CỰC (tiếp cận
nội dung)
HÌNH
THỨC
TỔ CHỨC
THEO LỚP CÁ NHÂN
NHÓM MỀM
DẺO
THEO LỚP
THÁI ĐỘ
NGƯỜI
HỌC
BỊ BẮT BUỘC THEO SỞ THÍCH
THAM GIA
VÀO TỔ CHỨC
BỊ BẮT BUỘC
TÍNH
CHẤT
QUẢN LÝ
BẢO THỦ “BUÔNG THẢ” TỰ DO BẢO THỦ

CƠ SỞ LÝ
LUẬN DH


NHẤN MẠNH
MÔN HỌC
ĐỀ CAO
PHƯƠNG PHÁP
NHẤN MẠNH
QUÁ TRÌNH
NHẤN MẠNH
MÔN HỌC
YẾU TỐ
TRUNG
TÂM
GIÁO VIÊN LÀ
TRUNG TÂM
NGƯỜI HỌC LÀ
TRUNG TÂM
THẨM ĐỊNH LÀ
TRỌNG TÂM
GIÁO VIÊN LÀ
TRUNG TÂM

PHƯƠNG
TIỆN DH

PHƯƠNG TIỆN,
ĐỒ DÙNG DH
PHƯƠNG TIỆN
NGHE, NHÌN
THÔNG TIN PHẤN BẢNG
QUAN HỆ

THẦY –
TRÒ
KỶ LUẬT TỰ DO TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT
QUAN HỆ
HS – HS
CẠNH TRANH CÁ NHÂN HP TÁC CẠNH TRANH
KẾT QUẢ
CHỦ YẾU
KIẾN THỨC,
KỸ NĂNG
SÁNG TẠO PHÁT TRIỂN
DUNG
LƯNG, MỨC
ĐỘ ĐỒNG
HÓA KIẾN
THỨC
Nếu xét sự khác biệt của các cách tiếp cận mục tiêu trong lòch sử phát triển
giáo dục ( I → II → III → IV) thông qua sự khác biệt ở từng yếu tố, dễ dàng nhận
thấy, trên con đường tiếp cận với một nền giáo dục hiện đại, chúng ta còn một cự ly
khá xa, nếu không nói là gần như đang ở đích xuất phát! Mô hình dạy học chúng ta
hiện có là mô hình dạy học truyền thống tiêu cực (tương ứng với cách tiếp cận nội
dung), còn mô hình mà chúng ta đang hướng tới trong đổi mới giáo dục phổ thông

hiện nay là mô hình dạy học truyền thống (tạm gọi là tích cực vì mục tiêu của nó tích
cực hơn mục tiêu mà thực tiễn giáo dục Việt Nam đang thể hiện, nhưng nó vẫn chỉ là
cách tiếp cận mục tiêu đã có trong lòch sử giáo dục cách nay hơn nửa thế kỷ). Nhìn
chung hai mô hình này không có sự khác biệt đáng kể, chúng giống nhau ở hầu hết
các yếu tố chính:
1- Chương trình, nội dung học: Thích hợp nhất cho các kiểu mục tiêu này vẫn là
chương trình học xây dựng một cách tuần tự, chặt chẽ, logic (chương trình kiểu tuyến

tính) các nội dung trước là cơ sở để xây dựng và tiếp thu các nội dung sau theo chiều
hướng vấn đề ngày càng được mở rộng, đi sâu. Nội dung các bài học cụ thể dành ưu
tiên cho việc xây dựng kiến thức, vì như thế cùng với quá trình dạy học kiến thức
mới học sinh có thể được rèn luyện tư duy, nắm được phương thức họat động nhận
thức, phương pháp nhận thức ... đó cũng là những mục tiêu giáo dục của môn học.
2- Phương tiện hỗ trợ đắc lực để dạy học đạt tới các mục tiêu này là phương
tiện, đồ dùng dạy học, với môn vật lý và các môn khoa học thực nghiệm khác thì
thiết bò, dụng cụ thí nghiệm là phương tiện không thể thiếu để phục vụ cho việc xây
dựng, kiểm chứng lý thuyết. (thay cho dạy chay, học chay hiện nay).
3- Phương pháp dạy học: các phương pháp tạo điều kiện cho học sinh tham gia
tích cực, chủ động vào hoạt động học tập kiến thức mới, tạo điều kiện cho việc
truyền đạt kiến thức đến học sinh hiệu quả nhất. Trong mô hình này các phương pháp
dạy học truyền thống quen thuộc vẫn tỏ ra rất hiệu quả và được tôn vinh (thuyết
trình, đàm thoại, tìm tòi, thí nghiệm... thay cho kiểu dạy học độc giảng của giáo viên
phổ biến hiện nay).
4- Hình thức tổ chức dạy học: Theo lớp với tất cả các đối tượng học sinh (vì tất
cả học sinh đều phải đạt tới các tiêu chí đánh giá kết quả học tập chung)
5- Kiểm tra – đánh giá: Theo các tiêu chí đònh sẵn được cụ thể hóa từ mục tiêu
môn học thành các hình thức, nội dung thi cử chung, coi trọng kết quả cuối cùng.

1.2.2. Xu hướng đổi mới các thành tố của quá trình dạy học theo
hướng tiếp cận hiện đại.
Các thành tố Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp - phương tiện dạy học, phương
thức tổ chức dạy học và cách thức kiểm tra đánh giá có quan hệ mật thiết, hữu cơ với
nhau. Sự thay đổi của thành tố này ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến
các thành tố khác. Đặc biệt, khi mục tiêu GD thay đổi, kéo theo sự thay đổi một cách
sâu sắc các thành tố còn lại. Vậy các thành tố này đã thay đổi như thế nào?
Về nội dung:
Mục tiêu GD của nước ta trước đây luôn đặt yếu tố hàng đầu là xây dựng một
hệ thống các khái niệm chủ chốt sao cho chặt chẽ, logic, có hệ thống, điều này đã

dẫn đến chương trình mang nặng tính lý thuyết, hàn lâm, ít gắn kết được với thực tiễn
cuộc sống, chỉ thích hợp với một số ít các HS có thiên hướng khoa học. Bên cạnh đó,
do coi trọng việc xây dựng một hệ thống khái niệm chặt chẽ như trên nên SGK được
coi là chương trình pháp lệnh, mất đi tính mở, không thích ứng được với các đối tượng
HS, do đó chương trình trở nên quá tải đối với HS này nhưng lại đơn điệu đối với HS
khác …. Hơn nữa, các môn khoa học được xây dựng một cách độc lập, không có tính
liên thông nên chưa khuyến khích HS vận dụng kiến thức kinh nghiệm vào học
tập….
Theo cách tiếp cận mục tiêu GD tiên tiến, bên cạnh việc xây dựng hệ thống
kiến thức, chú trọng hơn đến việc xây dựng các tiến trình khoa học và hình thành cho
HS các kó năng tiến trình khoa học, gắn việc học của HS với các hoạt động thực tiễn
(học bằng hoạt động và thông qua hoạt động), điều này giúp HS vận dụng tốt hơn
những kiến thức đã học vào thực tiễn và nội dung học tập thật sự giúp ích cho cuộc
sống của họ sau này.
Từ việc coi trọng rèn luyện các kỹ năng tiến trình khoa học, coi trọng việc xây
dựng kiến thức dựa trên các hoạt động thực tiễn nên xu hướng xây dựng chương trình

trở nên có tính mở hơn dựa trên một chương trình chuẩn, tùy từng điều kiện cụ thể,
nội dung chi tiết sẽ được xây dựng ở mỗi vùng miền khác nhau, , SGK chỉ có vai trò
là những tài liệu tham khảo, tra cứu. GV và HS có quyền lựa chọn một số nội dung
phù hợp nhằm thích ứng nhiều hơn với điều kiện cụ thể và phát huy hết tiềm năng
vốn có của HS.
Bên cạnh đó, việc học luôn gắn với thực tiễn cuộc sống, nên cùng một lúc các
kiến thức cần trang bò cho HS có liên quan đến nhiều lónh vực khoa học khác nhau,
do đó việc tích hợp các môn khoa học vào những chủ đề học tập cụ thể trong trường
phổ thông được chú trọng và phát triển như một điều tất yếu và tự nhiên.
Với mục tiêu hướng tới hình thành ở HS các kó năng tư duy, kó năng sống và làm
việc, thì ở nhiều nước, nội dung các môn khoa học (về tự nhiên) đã từ lâu được biên
soạn theo các chủ đề liên môn, tích hợp (ở Tiểu học và Trung học cơ sở, ở đó các
môn khoa học về tự nhiên hợp chung thành môn Khoa học) và tích hợp (ở Trung học

phổ thông, ở đó nội dung học được tích hợp trong từng môn học riêng biệt thành các
chủ đề) vừa có ý nghóa khoa học vừa có ý nghóa thực tiễn, tạo cho học sinh hứng thú,
say mê nghiên cứu chúng. Việc lựa chọn chủ đề, xây dựng nội dung các chủ đề có sự
khác nhau ở các quốc gia khác nhau, các trường khác nhau, nó phản ánh những quan
điểm triết học giáo dục riêng.
Khi nghiên cứu các chủ đề có nội dung liên môn, tích hợp, học sinh không
những chiếm lónh được tri thức khoa học mang tính tổng thể (chứ không phải từng
khái niệm riêng lẻ) mà còn được làm quen với tiến trình khoa học và được rèn luyện
các kó năng tiến trình khoa học. Các chủ đề này thường được thận trọng, khéo léo lựa
chọn và xây dựng bắt nguồn từ thực tiễn sinh động mà học sinh đang sống tạo được
hứng thú ở học sinh khi tìm hiểu, xử lí các thông tin khoa học và đời sống từ các
nguồn khác nhau để cùng giải quyết vấn đề đặt ra. Khi đó phần kiến thức cốt lõi
được khéo léo đưa vào trở thành kiến thức chìa khóa mà học sinh tất yếu phải nắm

được để tham gia nghiên cứu chủ đề. Kết quả là bên cạnh kiến thức cốt lõi họ còn
thu được rất nhiều kiến thức khác có được do tự lực tìm và xử lí thông tin.
Các chủ đề có ý nghóa thực tiễn thường có sự tích hợp, vì vậy ở Mó và nhiều
nước Tây Âu (như Pháp, Úc, Hà Lan,..) và cả nhiều nước trong khu vực Đông Nam
Á (như Thái lan, Indonesia, Singapo, Malaixia, Philipin,…) đã từ lâu không tách rời
các môn Lý, Hóa, Sinh ở cấp Tiểu học và THCS, ở hai cấp học này các môn này tích
hợp thành môn Khoa học và chỉ được tách ra ở cấp THPT. Chương trình THPT cũng
được xây dựng thành các chủ đề tích hợp có ý nghóa thực tiễn cao.
Sự tích hợp thành môn Khoa học sẽ được giảng dạy theo một số chủ đề chính.
Các chủ đề chính sau đó dược phân cấp thành các chủ đề nhỏ hơn.
Ví dụ ở Úc, chương trình khoa học gồm các chủ đề chính sau [1]
• Làm việc khoa học.
• Cuộc sống và vật thể sống.
• Vật liệu tự nhiên và vật liệu nhân tạo.
• Năng lượng và sự biến đổi.
• Trái đất và vũ trụ.

Trong mỗi chủ đề lại bao gồm nhiều chủ đề nhỏ và được phân thành các mức từ
1 đến 7 cho các lớp từ thấp đến cao. Ví dụ chủ đề “Vật liệu tự nhiên và vật liệu nhân
tạo” gồm các chủ đề:
9 Cấu trúc, tính chất và ứng dụng của vật liệu nói chung.
9 Chất rắn, chất lỏng, chất khí trong các mẫu đơn giản.
9 Hỗn hợp và nguyên chất.
9 Cấu tạo nguyên tử.
9 Các nguyên tố và hợp chất.

9 Phản ứng và sự biến đổi, gồm: Những thay đổi trong vật liệu nói
chung, những điều kiện ảnh hưởng đến phản ứng hóa học, các phản
ứng hóa học giữa các chất khác nhau.
Ở Thái Lan, chương trình khoa học gồm các chủ đề chính sau: [44]
• Quá trình khoa học.
• Chất.
• Sinh vật và môi trường.
• Năng lượng và sự biến đổi.
Mỗi chủ đề chính lại được phát triển thành các chủ đề nhỏ và được phân thành
các mức khác nhau từ Tiểu học đến THCS và THPT.
Về phương pháp giảng dạy:
Với cách tiếp cận dạy học truyền thống, để có thể truyền tải hết nội dung, với
việc đặt mục tiêu hàng đầu là xây dựng một tập hợp đầy đủ và chặt chẽ hệ thống
các khái niệm đã được trình bày trong SGK. Người GV, dẫu muốn hay không, cũng
phải chạy đua với thời gian để truyền tải hết nội dung và “yên tâm” với việc hoàn
thành bài giảng của mình. Phương pháp nào là tối ưu trong trường hợp này? Câu trả
lời có lẽ không ngoài các phương pháp truyền thống!. Người HS, dẫu muốn hay
không, chỉ cần ngồi nghe là đã thực hiện xong nhiệm vụ học tập.
Khi mục tiêu GD chú trọng hơn đến việc hình thành ở HS các kó năng tiến trình
khoa học, thì việc dạy học sẽ chú ý nhiều đến việc tạo cơ hội cho HS tham gia hoạt
động học tập, quá trình học tập sẽ được tiến hành bằng các hoạt động và thông qua

các hoạt động. Các bài tập, các tình huống, các vấn đề thực tiễn, … được đưa ra cho
HS giải quyết, HS có cơ hội tìm hiểu những vấn đề mình ưa thích, được phát huy hết
năng lực của mình; kiến thức kinh nghiệm của HS được phát huy một cách tối đa.
Thông qua các hoạt động học tập cụ thể những kiến thức kinh nghiệm này sẽ được

chính xác hóa dần thành kiến thức khoa học, điều này sẽ làm cho các kiến thức mang
tính chất thực tiễn cao và được lưu giữ một cách chắc chắn hơn.
Các cách tiếp cận hiện đại hướng tới sự phát triển tư duy cho học sinh nhưng
không phải mỗi môn học lại trang bò và rèn luyện cho học sinh những hiểu biết về
phương pháp và kỹ năng tư duy của bản thân mỗi khoa học (nhiều khi mang tính đặc
thù cao), mà các môn khoa học riêng biệt phải cùng hướng tới mục tiêu chung làm
cho học sinh hiểu tiến trình khoa học và rèn luyện các kỹ năng tiến trình khoa học có
thể áp dụng để giải quyết một cách khoa học các vấn đề khác nhau trong cuộc sống,
nghề nghiệp sau này, hướng tới rèn luyện những kỹ năng sống và làm việc không thể
thiếu của con người trong thời đại ngày nay. Chính vì thế dạy học phải chú trọng đến
các phương pháp tạo cơ hội, tạo điều kiện cho người học tích cực, chủ động, đặc biệt
là quan điểm kiến tạo trong dạy học, còn quá trình học là quá trình giải quyết các
vấn đề thực tiễn trên cơ sở kiến thức được học.
Trong các mô hình dạy học tích cực khác người ta không dành nhiều thời gian
cho việc cung cấp kiến thức mới bằng cách dẫn dắt xây dựng kiến thức đó như kiểu
dạy học truyền thống hiện nay mà thời gian học chủ yếu dành cho việc giải quyết
vấn đề của các nhóm học sinh. Kiến thức mới có thể được cung cấp một cách đúng
lúc trong quá trình học sinh giải quyết vấn đề thực tiễn được giao, hoặc được giới
thiệu trong một khoảng thời gian ngắn theo cách dạy truyền thống trước khi học sinh
giải quyết vấn đề, hoặc thông qua tài liệu do giáo viên cung cấp, chỉ dẫn. Nói cách
khác, các mô hình dạy học tích cực phổ biến hiện nay thường ưu tiên việc sử dụng
kiến thức vào giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, học sinh học được tiến trình khoa
học và kỹ năng tiến trình khoa học từ việc giải quyết vấn đề chứ không phải từ việc
tham gia xây dựng kiến thức như quan niệm dạy học truyền thống quen thuộc.
Sự thay đổi về phương tiện dạy học:

Trên con đường hướng tới một xã hội tri thức, thông tin và hợp tác toàn cầu, nhu
cầu về tiếp nhận, tìm hiểu thông tin, tìm kiếm tri thức của loài người ngày càng cao

×