Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tieuluan cuoikhoa CV 8 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.69 KB, 16 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TIỂU LUẬN
MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy
Đơn vị công tác: Vụ Cải cách hành chính - Bộ Nội vụ
Lớp: Bồi dưỡng QLNN ngạch Chuyên viên
Hà Nội, tháng 6/2010
MỞ ĐẦU
Chúng ta đều biết rằng Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), điều này mở ra muôn vàn cơ hội, nhưng cũng muôn vàn thử thách. Nền
kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế chứa đựng
trong nó các tồn tại vốn có của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đồng thời nền
kinh tế đó chịu sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
bao gồm cả các ưu thế của nền kinh tế thị trường cũng như các hạn chế của nó.
Với đặc điểm nền kinh tế như vậy, để có thể hội tụ đủ các điều kiện tồn tại và
đứng vững trong sân chơi WTO rõ ràng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm như:
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách nền hành chính Nhà nước… Đặc biệt trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản một mặt trận nóng bỏng mà cả xã hội đều quan
tâm. Để công tác đầu tư xây dựng thực sự hiệu quả đem lại các mục tiêu kinh tế -
xã hội, việc cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng thường được các
bộ, ngành… quan tâm và coi là mục tiêu trọng tâm.
Trong phạm vi bài viết này, với các kiến thức đã được trang bị trong khóa
học về quản lý hành chính Nhà nước, người viết xin đưa ra một số suy nghĩ về
việc cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng. Hiểu biết còn hạn chế, tất
nhiên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của người đọc để
bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
A. CÂU CHUYỆN TÌNH HUỐNG


1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Câu chuyện xảy ra tại Thành phố Y thuộc miền Trung nước ta. Nơi đây đang
thực hiện một chủ trương lớn đã được Đảng bộ thành phố, Ủy ban nhân dân thành
phố và toàn thể nhân dân đồng tâm nhất trí đó là xây dựng Y thành một thành phố
lớn của cả nước trên cơ sở phát huy thế mạnh riêng biệt của mình đó là ngành du
lịch – ngành công nghiệp không khối.
2. DIỄN BIẾN CÂU CHUYỆN TÌNH HUỐNG
Thực hiện chủ trương trên, để thu hút khách du lịch trong nước và ngoài
nước, lãnh đạo thành phố xác định trước mắt cần tập trung cải tạo cơ sở hạ tầng
thành phố.
Năm 2004, Ủy ban nhân dân thành phố X đã đệ trình và được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt cho phép đầu tư dự án thoát nước và vệ sinh nhằm mục tiêu
thể hiện nét văn minh của một đô thị đang phát triển. Đây là dự án nhóm A với
tổng mức đầu tư lên đến 300 triệu USD (tương đương 4.500 triệu đồng). Dự án
bao gồm 4 tiểu dự án trong đó có tiểu dự án “Xây dựng 20 nhà vệ sinh công cộng”
có thể độc lập vận hành khai thác, có số vốn 2,345 tỷ đồng nên được Thủ tướng
Chính phủ phân cấp cho Ủy ban nhân dân thành phố quyết định đầu tư dự án.
Ủy ban nhân dân thành phố đã giao cho Công ty xây dựng và Phát triển nhà D
là chủ đầu tư thực hiện dự án. Chủ đầu tư đã triển khai thực hiện dự án như sau:
Để thực hiện dự án, chủ đầu tư đã thành lập Ban Quản lý dự án “Xây dựng 20
nhà vệ sinh công cộng”.
Bước 1: Thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư gồm:
1. Xác định địa điểm, lập quy hoạch tổng mặt bằng… để lập báo cáo nghiên
cứu khả thi dự án.
Tháng 4/2004, Ban quản lý dự án sau khi khảo sát điều tra tình hình nhu cầu
các vị trí cần có nhà vệ sinh công cộng, đã xác định địa điểm xây dựng dự án và
lập báo cáo xin ý kiến chấp thuận của Viện Quy hoạch, phường, quận, Sở Xây
dựng, Ủy ban nhân dân thành phố.
Tháng 8/2004, Ban quản lý dự án nhận được ý kiến chấp thuận của các cơ
quan nói trên.

Lập quy hoạch tổng mặt bằng:
Sau khi đã xác định địa điểm, Ban quản lý dự án thuê Công ty Tư vấn SGS
lập quy hoạch tổng mặt bằng để lập thiết kết sơ bộ, lập dự toán của dự án. Tháng
8/2004, Công tư Tư vấn hoàn thành quy hoạch tổng mặt bằng. Chủ đầu tư trình
quy hoạch tổng mặt bằng cho các cơ quan: Viện Quy hoạch, Sở Xây dựng, Ủy ban
nhân dân thành phố xin chấp thuận và được thông qua vào tháng 11/2004.
2. Sau khi có tổng mặt bằng, Công ty Tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi
dự án và tháng 2/2005 Chủ đầu tư (Công ty xây dựng và phát triển nhà D) trình
cấp thẩm quyền phê duyệt và được cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư số
1234/QĐ-ĐT ngày 12/4/2005 với các nội dung cơ bản sau:
- Chủ đầu tư: Công ty Xây dựng và Phát triển nhà D
- Mục tiêu dự án: Cải thiện môi trường vệ sinh của thành phố, thể hiện nét
văn minh của một đô thị đang phát triển.
Tổng số vốn đầu tư: 2,345 triệu đồng
Nguồn vốn từ: Vốn vay Ngân hàng.
Thời gian thực hiện: 12 tháng kể từ khi có quyết định phê duyệt.
Bước 2: Triển khai thực hiện dự án
1. Sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi dự án được phê duyệt, chủ đầu tư xin
lập hồ sơ xin thành phố giao đất để thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng
triển khai thực hiện dự án.
Trên cơ sở ý kiến thẩm định của Trung tâm địa chính, phường, chủ đầu tư,
chủ sử dụng đất, Sở Tài nguyên – Môi trường và Ủy ban nhân dân thành phố đã ký
quyết định giao đất số 1345/UB-GĐ ngày 12 tháng 6 năm 2005 giao đất cho chủ
đầu tư thực hiện dự án.
B. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. MỤC TIÊU CẦN GIẢI QUYẾT
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương
đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc thu lợi ích kinh tế - xã hội. Đặc điểm của đầu tư
là nó xảy ra trong thời gian tương đối dài, thường từ 2 năm trở lên đến 50, 70 năm
hoặc lâu hơn nữa. Để triển khai hoạt động đầu tư, nhà đầu tư phát lập dự án đầu tư

trong đó xác định nguồn tài nguyên nhân lực, vật tư, đất đai, tiền vốn, ngoại tệ,
hoạch định lựa chọn các giải pháp kỹ thuật – công nghệ, tổ chức quản lý, lựa chọn
sản phẩm, dịch vụ, tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án trên cơ sở các yếu
tố đầu vào và các dự báo về giá bán sản phẩm và dịch vụ của dự án. Chính vì vậy,
bản thân dự án đầu tư chứa đứng nhiều yếu tố rủi ro do chất lượng của công tác
khảo sát thị trường, công tác dự báo, sự biến động giá cả, tỷ giá ngoại tệ… Việc
triển khai dự án có sự tham gia của nhiều cá nhân, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
vốn có nguồn từ ngân sách nhà nước, vốn vay quỹ tín dụng đầu tư phát triển nhà
nước và vốn của các doanh nghiệp nhà nước thì việc triển khai dự án càng trở lên
phức tạp. Nếu quản lý không tốt sẽ dẫn đến các hiện tượng thất thoát vốn, không
đảm bảo chất lượng công trình, sai quy hoạch, kết quả là không đạt được mục tiêu
đầu tư đề ra. Nhưng nếu quản lý quá cứng nhắc, thủ tục rườm rà nhiêu khê thì sẽ
mất nhiều thời gian cũng sẽ gây tốt kém và thậm chí có nhiều trường hợp mất cơ
hội đầu tư, dự án đổ vỡ không thu hồi được vốn. Chính vì vậy việc quản lý đầu tư
xây dựng sao cho thật hiệu quả là thách thức của mỗi chúng ta.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chúng ta đều biết rằng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vấn đề xây dựng nhà nước ta theo
mục tiêu trên đã được Đảng và Nhà nước quan tâm rất sớm. Ngay từ khi mới ra
đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác Hồ đã căn dặn cán bộ phải phấn
đấu trở thành công bộc của nhân dân. Tư tưởng đó của Bác về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức vẫn còn giữ nguyên cho đến ngày hôm nay.
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta
và tạo tiền đề cho nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng trong nền kinh tế tập
trung, quan liên bao cấp. Trong khi đó hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên
các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực quản lý hành chính về kinh tế đã có nhiều bất cập
đã cản trở công cuộc đổi mới kinh tế. Vì vậy, cải cách nền hành chính nhà nước đã
trở thành cần thiết. Cải cách hành chính là một phần của cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nhằm làm cho nhà nước quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn.
Cải cách hành chính là một quá trình lâu dài, nhiều khâu, nhiều giai đoạn

khác nhau. Cải cách nền hành chính nhà nước được đề cập liên quan đến tất cả các
yếu tố của nền hành chính nhà nước theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Những nội
dung này cũng được các Hội nghị Trung ương, các nghị quyết, quyết định của
Quốc hội và Chính phủ làm căn cứ để triển khai cụ thể. Ba nội dung chủ yếu được
đề cập là; cải cách thể chế nền hành chính, chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt
động của hệ thống hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm trong
sạch một bước bộ máy hành chính nhà nước.
Cải cách một bước thủ tục hành chính được xác định như một khâu đột phá
của công cuộc cải cách. Nội dung cơ bản của cải cách thủ tục hành chính đã được
chi tiết trong Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ, trong đó tập
trung vào cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, công khai, dễ hiểu trên
7 lĩnh vực:
- Nhà đất
- Đăng ký sản xuất kinh doanh
- Xuất nhập khẩu
- Xuất nhập cảnh
- Đầu tư trực tiếp
- Thuế
- Trật tự giao thông
Như vậy, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư là một trong
những nhiệm vụ của công tác cải cách hành chính ở nước ta.
Một số quy chế liên quan
Từ năm 1999 đến năm 2003, Chính phủ đã ban hành:
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP
ngày 8/7/1999.
Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 sửa đổi bổ sung một số điều của
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số
52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999.
Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003 sửa đổi bổ sung một số điều
của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định

52/1999/NĐ-CP ngày 5/5/1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000.
Trong đó quy định:
Mục đích yêu cầu của quản lý đầu tư và xây dựng
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với
chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân.
Sử dụng các nguồn vốn đầu tư do Nhà nước quản lý đạt hiệu quả cao nhất,
chống tham ô, lãng phí.
Bảo đảm xây dựng theo quy hoạch xây dựng, kiến trúc, đáp ứng yêu cầu bền
vững, mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời gian xây
dựng với chi phí hợp lý, thực hiện bảo hành công trình.
Nguyên tắc cơ bản của quản lý đầu tư và xây dựng
Phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu tư
và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư, thực hiện quản
lý đầu tư và xây dựng theo dự án, quy hoạch và pháp luật.
Các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước
bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà
nước đầu tư phải được quản lý chặt chẽ theo trình tự đầu tư và xây dựng quy định
đối với từng loại vốn.
Đối với các hoạt động đầu tư, xây dựng của nhân dân, Nhà nước chỉ quản lý
về quy hoạch, kiến trúc và môi trường sinh thái.
Phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước,
của chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng.
Trình tự đầu tư và xây dựng bao gồm ba giai đoạn:
- Chuẩn bị đầu tư
- Thực hiện đầu tư
- Kết thúc xây dựng dự án vào khai thác sử dụng.

Các công việc trong giai đoạn thực hiện đầu tư và kết thúc xây dựng đưa công
trình vào khai thác sử dụng có thể thực hiện tuần tự hoặc gối đầu, xen kẽ tùy theo
điều kiện cụ thể của từng dự án hoặc do người có thẩm quyền quyết định đầu tư
quyết định.
Nội dung các công việc chuẩn bị đầu tư gồm có: nghiên cứu sự cần thiết phải
đầu tư và quy mô đầu tư, khảo sát điều tra thị trường để xác định nhu cầu sản
phẩm, tìm nguồn cung ứng vật tư thiết bị cho sản xuất, tiến hành điều tra, khảo sát
lựa chọn địa điểm, lập dự án đầu tư, gửi hồ sơ dự án đầu tư và văn bản trình đến
cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư, tổ chức cho vay vốn và cơ quan có thẩm
quyền quyết định,
Nội dung công việc giai đoạn thực hiện đầu tư gồm có: xin giao đất hoặc thuê
đất, xin giấy phép xây dựng, thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng chuẩn bị mặt
bằng xây dựng, mua sắm thiết bị và công nghệ, thực hiện việc khảo sát và thiết
kết, thẩm định phê duyệt thiết kết và tổng dự toán, dự toán công trình, tiến hành
thi công xây lắp, kiểm tra và thực hiện các hợp đồng, quản lý kỹ thuật chất lượng
công trình xây dựng, vận hành thử, nghiệm thu công trình.
Nội dung giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dự án khai thác sử dụng: nghiệm
thu, ban giao công trình, vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng, bảo hành
công trình, quyết toán vốn đầu tư, phê duyệt quyết toán.
C. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Chủ trương đầu tư
Dự án đầu tư 20 nhà vệ sinh công cộng phù hợp với chủ trương của thành phố
Y, nằm trong kế hoạch và quy hoạch đầu tư xây dựng của thành phố Y giai đoạn
2002-2006, đã được cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư (điều 11,12,13 Nghị định
52/1999 về quản lý đầu tư xây dựng.
Các bước triển khai dự án.
Chủ đầu tư đã triển khai thực hiện dự án theo đúng trình tự thủ tục đầu tư xây
dựng cơ bản: chuẩn bị đầu tư và kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử
dụng. Nội dung của từng giai đoạn trên đã được thực hiện đúng trình tự, đủ nội
dung, đúng thẩm quyền: bước chuẩn bị đầu tư được thực hiện đầy đủ; sau khi có

quyết định đầu tư mới triển khai các bước tiếp theo: giao đất, đều bù giải phóng
mặt bằng, lập thiết kế kỹ thuật, đấu thầu, xây dựng…. Các bước thực hiện đều
được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi triển khai thực hiện (hiện nay có rất
nhiều chủ đầu tư triển khai xây dựng khi chưa có quyết định đầu tư hoặc có quyết
định đầu tư nhưng lại chưa có quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật tổng dự toán
… của cấp có thẩm quyền).
Một số tồn tại, bất cập
Dự án được thực hiện trong thời gian quá dài sau 16 tháng dự án mới hoàn
thành nằm trên tổng số 20 nhà vệ sinh công cộng. Để hoàn thành việc xây dựng
công tình nhà vệ sinh công cộng đã cần tới tổng cộng 24 con dấu:
Xác định địa điểm: 6 con dấu (gồm Viện Quy hoạch xây dựng, Ban Quản lý
dự án, phường, quận, Sở Xây dựng, UBND);
Quy hoạch tổng mặt bằng: 4 con dấu (gồm Viện Quy hoạch, Ban Quản lý, Sở
xây dựng, UBND thành phố);
Giao đất: 6 con dấu (gồm Trung tâm địa chính, phường, chủ sử dụng đất, Sở
Tài nguyên môi trường, Sở Xây dựng, UBND thành phố);
Đền bù giải phóng mặt bằng: 3 con dấu (gồm Ban giải tỏa đền bù, Sở Tài
chính, UBND thành phố);
Phê duyệt thiết kế kỹ thuật tổng dự toán: 5 con dấu (gồm Viện Quy hoạch,
Ban Quản lý dự án, Sở Xây dựng, Hội đồng kiến trúc, UBND thành phố);
Đó là chưa kể các con dấu trong quá trình thẩm định phê duyệt quá trình đấu
thầu lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án, mất rất nhiều thời gian, rất nhiều cơ quan
chịu trách nhiệm nhưng lại không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính cả. Quả
là quá nhiều khê.
Dự án quá nhiều cấp thẩm định, thời gian thẩm định ở mỗi khâu thực hiện
đều vượt quá quy định của Nhà nước. Theo quy định tại các điều 29, điều 34 và
điều 39 quy chế quản lý đầu tư xây dựng đã quy định: thời gian thẩm định dự án
nhóm A không quá 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, thời gian cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết hồ sơ xin giao đất không quá 25 ngày
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, thời gian thẩm định thiết kế kỹ thuật tổng dự toán

đối với dự án nhóm A không vượt quá 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Trong
khi đó xây dựng 20 nhà vệ sinh công cộng của thành phố Y, thời gian thẩm định
dự án là 70 ngày (vượt quy định 10 ngày), thời gian cấp có thẩm quyền giao đất
thực hiện dự án là 60 ngày (vượt quy định là 45 ngày), thời gian thẩm định thiết kế
kỹ thuật tổng dự toán 60 ngày (vượt 15 ngày). Như vậy chỉ ở 3 khâu này đã làm
chậm tiến độ thực hiện dự án hơn 2 tháng.
Tổ chức tín dụng cho vay vốn tỏ ra rất sốt ruột vì sự chậm trễ này và gia hạn
trong vòng 6 tháng nếu chủ đầu tư không hoàn thành công việc sẽ không tiếp tục
tài trợ vốn cho dự án.
Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan
Công tác quản lý đầu tư xây dựng là một công tác rất phức tạp, thực hiện qua
nhiều khâu, nhiều bước, trong một thời gian tương đối dài, có nhiều cơ quan tham
gia quản lý, nhiều nhà thầu tham gia thực hiện.
Các văn bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng điều chỉnh,
sửa đổi nhiều lần (trong thời gian từ năm 1999 đến 2003 có 3 lần ban hành và sửa
đổi quy định về quản lý đầu tư và xây dựng chưa kể đến hàng loạt các thông tư
hướng dẫn của bộ, ngành) nên việc hiểu và vận dụng vào thực tế của một số doanh
nghiệp, địa phương còn bị hạn chế. Vì vậy, để quản lý công tác đầu tư xây dựng
sao cho tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích, tránh lãng phí thất thoát đòi hỏi phải
tăng cường công tác quản lý của nhà nước đồng thời tăng cường công tác quản lý
của bản thân chủ đầu tư là đơn vị được nhà nước cấp vốn giao nhiệm vụ quản lý
thực hiện hoặc chính là đơn vị trực tiếp bỏ vốn đầu tư dự án.
b. Nguyên nhân chủ quan:
Do việc quản lý công tác đều phức tạp, việc hiểu và áp dụng các quy định của
nhà nước về quản lý đầu tư còn quá cứng nhắc, máy móc nên lãnh đạo thành phố
Y đã yêu cầu nhiều cơ quan quản lý của thành phố cùng tham gia quản lý, nhưng
lại không phân cấp, phân định rõ trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân, chưa
cải tiến trình tự thủ tục hành chính trong quá trình thẩm định, phê duyệt dẫn đến
tình trạng có quá nhiều đơn vị tham gia nhưng không có đơn vị nào chịu trách

nhiệm chính, trùng lặp. Việc thẩm định có các bước thực hiện dự án qua nhiều cơ
quan gây mất thời gian: ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư đã được Viện Quy hoạch
thông qua địa điểm xây dựng, quy hoạch tổng mặt bằng nhưng đến khâu phê duyệt
thiết kế kỹ thuật tổng dự toán, chủ đầu tư lại phải được Viện Quy hoạch thành phố
thẩm định một lần nữa.
3. Phương án, biện pháp giải quyết tình huống
Phương án giải quyết tình huống phải dựa trên nguyên tắc sau:
Tuân thủ các quy định hiện hành của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng và
các quy định khác.
Đảm bảo dự án đầu tư được triển khai đúng mục tiêu, đáp ứng các tiêu chuẩn
theo quy định về chất lượng, mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái, tiết kiệm hiệu
quả.
Rà soát lại quá trình thực hiện dự án nêu trên, chúng ta thấy rằng có thể thực
hiện cải cách thủ tục hành chính trong công việc quản lý đầu tư và xây dựng tại
thành phố Y như sau:
Tăng cường sự phân cấp rõ ràng cho các quận, huyện, các cơ quan tham mưu
về quản lý nhà nước và mạnh dạn giao việc, giao trách nhiệm cụ thể cho các sở,
ban, ngành, cơ quan cho từng cá nhân.
Giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo với quá nhiều cửa,
nhiều dấu, xem xét từng bước thực hiện các thủ tục trong quy trình khâu nào
không hợp lý cần phải cắt giảm.
Cụ thể
Sau khi đã có quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả khi, Chủ tịch
UBND thành phố Y có thể ủy quyền quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuất – tổng
dự toán cho Giám đốc Sở Xây dựng thành phố.
Đây là dự án xây dựng đơn thuần, không có mua sắm thiết bị công nghệ nên
giao các công việc thẩm định như: thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thẩm
định phương án đền bù giải phóng mặt bằng, thiết kế kỹ thuật tổng dự toán cho Sở
Xây dựng làm đấu mối thực hiện, tổng hợp còn các cơ quan khác tham gia thẩm
định trên lĩnh vực quản lý chuyên ngành.

- Viện Quy hoạch tham gia thẩm định địa điểm xây dựng, quy hoạch tổng mặt
bằng.
- Sở Tài chính vật giá tham gia thẩm định dự án, thẩm định phương án đền bù
giải phóng mặt bằng.
- Sở Xây dựng tham gia thẩm định giao đất, thẩm định và phê duyệt thiết kế
kỹ thuật tổng dự toán.
- UBND phường, quận tham gia phương án đền bù, giải phóng mặt bằng.
Việc thẩm định địa điểm, quy hoạch tổng mặt bằng nằm trong quá trình thẩm
định dự án báo cáo nghiên cứu khả thi.
UBND thành phố, lãnh đạo các sở, ban, ngành cần cso quy định rõ thời gian
thẩm định các bước thực hiện dự án, đảm bảo không vượt quá thời gian đã được
quy định trong quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của nhà nước, các cá nhân nào
tham gia thẩm định vượt quá thời gian nói trên phải chịu trách nhiệm về sự chậm
trễ của mình và phải bồi thường các thiệt hại do quyết định chậm gây ra.
Giải quyết như vậy vừa đảm bảo tuân thủ các quy định của nhà nước về quản
lý đầu tư, xây dựng vừa đảm bảo dự án thực hiện đúng mục tiêu, phù hợp quy
hoạch chung của thành phố, triển khai đúng tiến độ, tiết kiệm và hiệu quả. Bên
cạnh đó giảm tải cho UBND thành phố, quy rõ đầu mối trách nhiệm chính (Sở
Xây dựng), thời gian thẩm định được rút ngắn, do đó cũng giảm số lượng các con
dấu./.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Đối với cơ quan quản lý cấp trên:
Cần có sự hướng dẫn và kiểm tra thường xuyên về công tác quản lý đầu tư
xây dựng để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực này, đồng thời có
uốn nắn kịp thời nhằm ngăn ngừa các sai phạm gây lãng phí thất thoát.
2. Đối với UBND thành phố Y và các sở, ban, ngành
Để có thể thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư xây
dựng cần phải thường xuyên đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, ý
thức trách nhiệm về công việc đảm nhiệm, cần – kiệm – liêm – chính – chí công –
vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng đồng thời hiểu biết về quản lý

hành chính nhà nước.
Thường xuyên tổ chức tập huấn về công tác nghiệp vụ, quán triệt và hiểu biết
sâu sắc các quy định của Nhà nước, có như vậy mới tránh được việc quản lý một
cách hình thức, quan liên hoặc quá cứng nhắc, đưa ra nhiều thủ tục, nhiều cấp
trung gian không cần thiết, thiếu khoa học, rườm rà không rõ ràng về trách nhiệm.
Khẩn trương tổ chức rút kinh nghiệm các sở, ban, ngành bao gồm: Sở Nội vụ,
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng và Sở Tài chính vật giá cần ngồi lại với
nhau cùng bàn bạc tìm biện pháp giải quyết, đề xuất phương án cải cách thủ tục
hành chính trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết định.
KẾT LUẬN
Những vẫn đề nêu trên cho thấy cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
không chỉ đơn thuần cải cách thủ tục hành chính mà còn là công việc của bộ máy
hành chính, là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, là xây dựng nền hành chính
công v.v.… đụng chạm đến toàn bộ các hoạt động của hệ thống chính trị. Điểm
mấu chốt có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho cải cách hành chính thành công là
giữ vững quan điểm chỉ đạo kiên quyết, tập trung của cả hệ thống chính trị và ý
thức chủ động, tự giác của mọi cán bộ, công chức nhà nước và tinh thần làm chủ
của nhân dân. Tiến hành các hoạt động cải cách hành chính một cách cơ bản, hệ
thống, đồng bộ, không chắp vá, làm tăng tính năng động sáng tạo của các cơ quan
trong bộ máy hành chính, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực, làm trong sạch bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước ta thực sự là nhà nước
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nền kinh tế của chúng ta đang mở cửa hội nhập, mọi thủ tục hành chính tiến
gần đến thông lệ quốc tế. Thực hiện “cơ chế một cửa, một cửa liên thông” là bước
đi của quá trình cải cách hành chính quốc gia. Thực tế đã chỉ rõ, chúng ta thực
hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo đà cải cách hành chính thành công sẽ là cầu
nối nước ta với các nước khu vực và trên thế giới. Làm cho kinh tế phát triển, đạt
được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra./.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×