Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kinh nghiệm sống và biểu tượng thơ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 5 trang )

Kinh nghiệm sống và
biểu tượng thơ




Hình ảnh được hiểu là người, vật, cảnh để lại ấn tượng và tái hiện trong trí nhớ
chúng ta (hình ảnh ngôi nhà, hình ảnh người mẹ, hình ảnh cuộc đời…). Ở một mức độ,
đó chỉ là những khái niệm, trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt trùng khít với
nhau. Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới
hình thức nhận thức trực tiếp cảm tính những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình,
có ý nghĩa thẩm mỹ. Như vậy hình tượng vừa thể hiện bản chất hiện thực vừa bộc lộ
thái độ, quan niệm, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Hình ảnh người mẹ khi trở thành
hình tượng người mẹ đã bao hàm một lượng thông tin phong phú mang sắc thái cá tính
sáng tạo riêng biệt độc đáo của nhà thơ. Hình ảnh người mẹ được lựa chọn hội tụ đủ
những yêu cầu thẩm mỹ, sinh động như cuộc đời và có tác động vào tình cảm, có ý
nghĩa nhận thức, giáo dục người đọc. Khi nói đến hình tượng người mẹ trong thơ Tố
Hữu, chúng ta nghĩ tới tầm vóc, tính khái quát về người mẹ đã trở thành biểu
tượng của non sông đất nước. Từ Bà má Hậu Giang đến Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, hình tượng
người mẹ không đơn lẻ mà tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam với những phẩm chất
đặc trưng của dân tộc. Hình tượng người mẹ lồng lộng, bất tử:
- Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang
- Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non
- Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ.
Trong thơ Nguyễn Duy, hình tượng người mẹ gần gũi, cảm thương là biểu
tượng về người mẹ Việt Nam vất vả lam lũ, chịu đựng, yêu thương bao la, hi sinh cao
cả. Bằng phong cách riêng, giàu kỉ niệm, Nguyễn Duy xây dựng hình tượng người mẹ
với vẻ đẹp đời thường, bình dị:
Bần thần hương huệ thơm đêm


Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Từ hình tượng gợi lên biểu tượng, tức là thêm một động tác trong quá trình nhận
thức nghệ thuật, đời sống. Và như vậy, trong quan hệ này, hình tượng là một khái niệm
còn biểu tượng là ý nghĩa của khái niệm ấy. Thế nên, cũng dễ hiểu, cùng một hình tượng
sẽ hình thành những biểu tượng khác tùy thuộc cá tính của mỗi chủ thể sáng tạo và đối
tượng tiếp nhận. Cùng là một hình tượng người mẹ, trong thơ Tố Hữu là một biểu tượng,
trong thơ Nguyễn Duy là một biểu tượng khác bằng những chất liệu, chi tiết cảm quan
và ý đồ nghệ thuật khác. Cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt. Cùng là hoa hồng,
như trên đã nói, trong thơ Puskin là một biểu tượng, trong thơ Aragon là một biểu tượng
không như thế. Có thể mô hình hóa quan hệ giữa hình ảnh, hình tượng, biểu tượng như
sau:
Hình tượng Biểu tượng
Biểu tượng
Biểu tượng

Hình ảnh
Khi đối tượng tiếp nhận cảm được linh hồn, sự thiêng liêng của hình tượng, hình
tượng đó trở thành biểu tượng. Biểu tượng biến hóa hơn hình tượng, được chiết xuất từ
tư duy trừu tượng của đối tượng tiếp nhận. Nói cách khác “chỉ một cái biểu đạt giúp ta
nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt” (Tzvetan Todorov). Căn cứ vào hình tượng gốc,
các đối tượng tiếp nhận tạo ra một hệ biểu tượng có liên quan với nhau. Biểu tượng có
sức khái quát, gợi cảm xúc, chứa đựng nhiều ý nghĩa và chuyển dịch ý nghĩa theo thời
gian, lãnh thổ, dân tộc… phụ thuộc vào tâm thức cộng đồng. Hoa hồng với nhiều dân
tộc là biểu tượng cho tình yêu, sự trong trắng, hoàn hảo, với đạo Kitô hoa hồng là biểu
tượng của sức mạnh và sự tu dưỡng tinh thần và cũng có nghĩa là biểu tượng của sự
phục sinh và sự bất tử
(4)
.

Hoa cúc ở Việt Nam là biểu tượng của tính giản dị, khiêm tốn, điềm đạm, kín đáo.
Ở Nhật Bản, hoa cúc với những cánh hoa được xếp quy củ như những tia sáng phát ra từ
tâm giống như mặt trời, từ đó gắn với ý niệm về sự trường thọ và thậm chí bất tử. Chính
vì thế mà hoa cúc đã trở thành biểu tượng của dòng họ Nhật hoàng
(5)
. Quạ, tiếng quạ kêu
với chúng ta là điềm dữ, đem đến những điều bất hạnh. Màu đen của quạ, màu tang tóc.
Trong văn học lãng mạn châu Âu, quạ bay lượn trên chiến trường để mổ thịt xác chết.
Trong thơ Việt Nam trước năm 1945, quạ, tiếng quạ kêu gợi lên sự rùng rợn, lạnh lùng,
não nùng, héo hắt (Đêm thu nghe tiếng quạ kêu - Quách Tấn) và chết chóc bi thương:
Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế…
(Nhạc sầu - Huy Cận)
Đầy cỏ xanh xao mây lấp phủ
Trên mồ con quạ đứng im hơi
(Nấm mộ - Bích Khê)
Thế nhưng khởi nguyên ở phương Đông cũng như phương Tây, con quạ là biểu
tượng có ý nghĩa tích cực. Quạ ở Trung Hoa là biểu tượng của đức hiếu thảo, nó là điềm
lành. Quạ là con chim của mặt trời. Mười con quạ bay đi các nẻo từ cây dâu của Mặt trời
mọc để mang ánh sáng xuống trần gian. Hậu Nghệ (thiện xạ bắn cung) đã dùng tên bắt
chết chín con, nếu không thì thế giới này đã bị thiêu cháy. “Trên những pho tượng đá
thời Hán, hình quạ ba chân được khắc giữa vầng thái dương. Con chim này được xem là
truyền sinh khí cho mặt trời và cũng có thể nó là biểu thị của bản nguyên dương, bản
nguyên lẻ. Ba chân ấy biểu hiệu của các hoàng đế Trung Hoa - như một cái kiềng, ứng
với một nghĩa biểu trưng của mặt trời: bình minh, trưa, hoàng hôn”
(6)
. Vì vậy, hiểu ý
nghĩa của biểu tượng là hiểu ý nghĩa mà nó gợi lên từ những tâm thế, hoàn cảnh, môi
trường khác nhau. Mỗi biểu tượng là một chỉnh thể toàn vẹn, đa nghĩa, chỉ có thể nắm
bắt được nó ở tính tổng thể, không giới hạn, có khi chỉ là cảm nghiệm.

Trong thơ hiện đại Việt Nam, các biểu tượng gắn với cuộc sống, tính cách của
từng tác giả. Môi trường sống, kinh nghiệm sống từ tuổi thơ đến trưởng thành qua lao
động, đấu tranh và chiêm nghiệm có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành biểu tượng.
Qua các biểu tượng có thể nhận ra cuộc sống quen thuộc, vùng thẩm mĩ của nhà thơ.
Những ấn tượng thời trẻ in dấu ấn rất đậm trong tư duy sáng tạo của nhà thơ, có khi qua
nhiều thời gian, không gian khác nhưng những ấn tượng ấy mãi còn tồn tại lúc ẩn lúc
hiện, có khi hiện ra theo ý thức, có khi ẩn sâu vào vô thức, tiềm thức, siêu thức và khi
gặp thời cơ sẽ hiện hình, lung linh tỏa sáng. Sông nước cứ trở đi trở lại và thành biểu
tượng trong thơ Tế Hanh. Biểu tượng bà trong thơ Bằng Việt, Nguyễn Duy. Biểu
tượng núi trong thơ Y Phương, Dương Thuấn và biểu tượng lửa trong thơ Lò Ngân
Sủn
(7)
.
Tuổi 10, 12 hiếu động, ham tìm tòi khám phá các hiện tượng xung quanh, lứa tuổi
18, có sự phát triển toàn diện về thể chất, tâm lí, ý thức sáng tạo mạnh mẽ cùng với tính
nhạy cảm được tăng dần và ổn định. Vì vậy Bằng Việt nhớ từ “lên bốn tuổi” đến “tám
năm ròng” và “mấy chục năm rồi” đã đi xa mà hình ảnh người bà vẫn hiện lên bên Bếp
lửa thiêng liêng. Kí ức tuổi thơ hiện lên trong tâm tưởng Nguyễn Duy để nhà thơ xây
dựng hình tượng người bà chân thật, cảm động, ám ảnh người đọc (Đò Lèn). Từ thuở lọt
lòng, các nhà thơ dân tộc miền núi đã gắn bó với môi trường thiên nhiên và thiên nhiên
thấm vào máu thịt, thành nếp cảm nếp nghĩ của họ. Y Phương, Dương Thuấn, Lò Ngân
Sủn nhìn đâu cũng thấy núi. Thơ Y Phương, Đi tìm bóng núi của Dương Thuấn, núi luôn
xuất hiện. Quanh năm, núi che chở bao bọc, núi ngóng đợi người đi. “Bước ra khỏi cửa
là nhìn thấy núi”, “Hễ đi xa là nhớ”. Dương Thuấn giải thích về núi quê mình: “Ngày ấy
những ngọn núi/ Kéo thành lũ thành đàn/ Đi như trâu đen kịt… Núi về đến quê mình/
Có tiếng lượn nàng ơi/ Núi đứng nghe mê mải/ Mà chân không biết bước/ Núi đứng đến
bây giờ”. Y Phương: “Ngày xuống núi/ Mây vướng chân/ Núi như trăm voi rùng rình”.
Và nhà thơ tâm niệm “dù đi đâu cũng quay về với núi”. Lửa, từ cuộc sống tự nhiên,
quen thuộc trở thành biểu tượng về một thế giới tươi sáng, rạo rực, say đắm, về tình yêu
sức sống mạnh mẽ, căng tràn của người con gái đẹp trong Con của núi III của Lò Ngân

Sủn. “Em/ Ngọn lửa/ Bập bùng/ Cháy ngực/ Cháy áo/ Bao chàng trai”. Biểu tượng lửa
lung linh nhiều màu sắc: “người đẹp trông như lửa/ Sờ vào lại thấy mát”.
Hai trái tim - hai hòn than đỏ ủ trong ngực
Áp vào nhau là bùng lên ngọn lửa
Ngọn lửa mềm mại, êm ái, mát trong
Ngọn lửa rạo rực, nóng ấm, nhiệt cuồng.

×