Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC PHẠM TRÙ VẬT CHẤT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.26 KB, 45 trang )



ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT


1
ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
I. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật
chất (giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước,
là quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp
với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước
mác lại có những quan điểm khác nhau.
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất
vật chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử…
coi đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng
tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về
các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử.
Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ
giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ.
Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu
tiên đưa ra được quan điểm này.
II. ĐỊNH NGHĨA CỦA LÊNIN VỀ VẬT CHẤT
1. Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều
phát minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện một loạt
những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất


cụ thể là:
- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ
là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà
vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó không xác định về mặt
khối lượng, không có cấu trúc nguyên tử).
- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan.

2
- Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết
cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa).
- Sang đầu thế kỷ XX phát hiện ra hiện tượng thay đổi của khối lượng, quảng
tính và thời gian trong sự phụ thuộc vào tốc độ vận động.
Tóm lại: Khoa học chứng minh rằng không có dạng vật chất đầu tiên.
Từ những phát minh khoa học trên đã làm xuất hiện sự khủng hoảng trong lập
trường tư tưởng của một số nhà khoa học, nhà triết học, từ đó làm khôi phục lại
chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri, chống lại chủ nghĩa Mác. Trước bối cảnh
đó LêNin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” xuất bản năm 1909 mà trong đó ông đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật
chất (được thừa nhận như là một định nghĩa chính thống của chủ nghĩa Mác)
2. Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
3. Phân tích định nghĩa: Trong nội dung định nghĩa trên cần lưu ý 2 điểm sau:
- Một là: Định nghĩa khẳng định vật chất là một phạm trù triết học, phạm trù là
một khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính phổ biến nhất của
hiện thực. Như vậy khi coi vật chất là một phạm trù triết học thì nó là khái niệm
chứ không phải là sự vật. Cho nên vật chất là cái chung, cái khái quát, cái trừu
tượng, là vật chất nói chung (là vĩnh viễn).
Vì vậy cần phải phân biệt phạm trù triết học về vật chất với 1 khái niệm vật lý
thông thường về vật chất mà người ta dùng để chỉ những sự vật, những hiện tượng

vật chất cụ thể (như vậy: đất, nước, lửa, không khí chẳng qua chỉ là một dạng tồn
tại về vật chất).
- Hai là: Về mặt nhận thức luận (phương pháp luận) thì thuộc tính cơ bản nhất
của vật chất dùng để định nghĩa cho nó và để phân biệt nó với ý thức tinh thần là
thuộc tính tồn tại khách quan. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên
ngoài đầu óc con người và không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập lại
với nó thì ý thức hay tinh thần là cái tồn tại chủ quan trong đầu óc con người.
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau:

3
- Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người,
không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người.
- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một
cách trực tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác.
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của
con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi.
4. Ý nghĩa, phương pháp luận của định nghĩa:
Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về vật
chất, đó là không quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách
quan nói chung (Cái thực tại khách quan ấy mới là vĩnh viễn, mới là cái vô cùng
tận).
Hai là: Định nghĩa đã góp phần giải quyết được cả hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học theo lập trường duy vật và theo lập trường khả tri luận (theo thuyết có thể
biết)
Ba là: Định nghĩa góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, nhất là duy tâm
về xã hội. Vì theo định nghĩa này đưa vào thuộc tính tồn tại khách quan mà ta có
thể phân biệt trong xã hội xem đâu là vật chất, đâu là tinh thần.
Bốn là: Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về các dạng cấu trúc
vật chất của thế giới có liên quan đến dạng vật chất mới như là: hạt và phản hạt;
vật chất và phản vật chất.


4
PHẠM TRÙ Ý THỨC
1. Vấn đề nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác thì ý thức của con người được bắt nguồn từ 2
nguồn gốc: Tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó nguồn gốc tự nhiên là điều
kiện cần còn nguồn gốc xã hội mới là điều kiện đủ cho sự hình thành ý thức.
a) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
- Ý thức của con người là sản phẩm tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên cho nên nó
có nguồn góc tự nhiên cụ thể là:
Thứ nhất: Ý thức của con người là do bộ óc người sinh ra, bộ óc người là một
dạng vật chất phức tạp, là sản phẩm tiến hoá cao nhất của tự nhiên, chính là nơi sản
sinh ra ý thức. Bộ óc người phải thông qua hoạt động sinh lý thần kinh
Thứ hai: Bộ có người cũng không tự sinh ra được ý thức, để ý thức được sinh ra
thì cần phải có sự tác động của thế giới khách quan lên các cơ quan cảm giác của
con người, cho nên ý thức còn có nguồn gốc từ thế giới khách quan.
Thứ ba: Ý thức của con người chỉ là một hình thức phản ánh đặc biệt của thế giới
khách quan vào trong bộ óc của con người, bộ óc người chỉ là một cơ quan phản
ánh đặc bịêt cho nên ý thức của con người là kết quả tiến hoá từ thuộc tính phản
ánh chung của vật chất. Phản ánh là thuộc tính của một hệ vật chất, có thể tái tạo
lại những đặc điểm nào đó cua một hệ vật chất khác khi có sự tác động của 1 hệ vật
chất thứ 2 lên nó. Trong quá trình tiến hoá củavật chất năng lực phản anh cũng có
sự tiến hoá dần dần từ thấp đến cao, từ phản ánh vật lý thông thường tiến hoá thành
phản ánh sinh vật với 2 dạng tính kích thích của động vật và tính cảm ứng thông
qua phản xạ tự nhiên của động vật. Từ cảm ứng động vật sau đó tiến hoá thành
tâm lý động vật dựa trên phản xạ có điều kiện và từ tâm lý động vật mới tiến hoá
thành ý thức của con người.
b) Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Ý thức của con người chỉ hình thành được trong môi trường xã hội cho nên nó là
một sản phẩm mang tính xã hội. Theo Angghen lao động và ngôn ngữ chính là 2

sức kích thích chủ yếu cho sự hình thành và phát triển ý thức của con người.

5
Thứ nhất là vai trò của lao đông: Lao động là 1 hoạt động có ý thức của con
người, tác động lên tự nhiên để cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu lợi ích
của con người, nhờ lao động mà cơ thể của con người dần dần hoàn thiện như có
dáng đi thẳng, đôi tay linh động, bộ óc phát triển.
Trong lao động con người giao tiếp với nhau, và tác động lên tự nhiên, để cải tạo
tự nhiên làm cho tự nhiên phải bộc lộ ra những thuộc tính, những mối liên hệ của
nó nhờ đó con người nhận thức tự nhiên, làm hình thành lên ý thức về thế giới tự
nhiên. Thông qua quá trình giao tiếp mà dần dần hình thành nhu cầu về ngôn ngữ,
từ đó tiếng nói xuất hiện
Thứ hai: Về vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ (tiếng nói) là một hệ truyền tin thứ
2 của con người, hệ truyền tin gián tiếp.
Sau khi tiếng nói xuất hiện thì nó lập tức trở thành cái vỏ vật chất của ý thức hay
nói như Mác ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, bởi vì tư duy hay ý thức
chỉ có thể tồn tại và biểu hiện được thông qua ngôn ngữ khi suy nghĩ (tư duy)
người ta sử dụng hệ ngôn ngữ bên trong, và khi diễn đạt ý nghĩ thì người ta sử
dụng ngôn ngữ bên ngoài.
Phải có đủ 2 điều kiện trên thì mới tồn tại ý thức của con người.
2. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo của hiện thực khách quan vào bộ óc của
con người, được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của họ.
Bản chất ý thức được thể hiện ở 3 mặt sau:
a) Mặt phản ánh của ý thức:
Ý thức của con người là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người
do đó nó là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Vì vậy nếu ta xét ý thức
theo phương thức tồn tại thì nó là chủ quan bởi nó chỉ tồn tại một cách chủ quan
trong đầu óc con người.
Nhưng nếu ta xét ý thức teo nội dung phản ánh thì nó là khách quan vì nó mang

nội dung về hiện thực khách quan, vì vậy Lênin khẳng định phản ánh bao giờ cũng
là phản ánh của tồn tại khách quan.
b) Mặt sáng tạo của ý thức:

6
Ý thức không phản ánh thụ động thế giới khách quan mà phản ánh một cách chủ
động, tích cực và sáng tạo thế giới, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ở các
phương diện sau:
Một là: Thông qua quá trình trao đổi thông tin 1 cách có chọn lọc giữa chủ thể và
khách thể, trong đó chủ thể giữ vao trò chủ động.
Hai là: Thông qua quá trình mã hoá các đối tượng vật chất bên ngoại thành các
loại hình ảnh tinh thần tương ứng. Mác gọi đậy là hoạt động cải biến, ông nói ý
thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi ở đó. Hoạt động này có thể dẫn đến thứ nhất là sự phản ánh sai
lệch, xuyên tạc hiện thực , làm hình thành lên những hình ảnh không có thật. Thứ
2: Làm hình thành lên những loại hình ảnh đúng đắn phản ánh bản chất hiện thực
khách quan như là khái niệm, phạm trù, quy luật, học thuyết…
Ba là: Ý thức sau khi được hình thành có thể chỉ là hoạt động thực tiễn của con
người, để chuyển hoá các ý tưởng trong đầu óc con người thành hiện thực vật chất
tương ứng đây được gọi là hoạt động đối tượng hoá.
c) Mặt xã hội của ý thức:
Ý thức tuy phải tồn tại thông qua đầu óc cá nhân của mỗi người nhưng con người
luôn luôn sống trong một mối trường xã hội nhất định và toàn bộ ý thức tư duy của
họ chịu sự chi phối của môi trường xã hội ấy , do đó con người ta sống trong
những thời đại lịch sử khác nhau thì ý thức của họ cũng khác nhau. Vì vậy xét cả
về nguồn gốc lẫn phương thức thực hiện thì ý thức của con người đều mang tính xã
hội, nó có nguồn gốc từ xã hội và nó tồn tại trong xã hội như là 1 sản phẩm chung
của mọi người.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Quan hệ giữa vật chất và ý thức được xem xét trên 2 phương diện:

Một là: Trong khuôn khổ vấn đề cơ bản của triết học thì ý thức và vật chất được
đặt đối lập nhau. Theo Lê nin sự đối lập trên chỉ là trương đối
Hai là: Trong hoạt động thực tiễn của con người thì mối quan hệ vật chất và ý
thức là quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó vật chất
quyết định ý thức nhưng ngược lại ý thức có thể tác động trở lại lên vật chất.

7
1. Vật chất quyết định ý thức
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất là cái có trước nó sinh ra và
quyết định ý thức (ý thức là cái có sau ) trong lĩnh vực xã hội quan hệ này được
biểu hiện là tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội sự quyết
định của vật chất đôí với ý thức được thể hiện ở chỗ: Một là nó quyết định nguồn
gốc ý thức, quy định sự hình thành ý thức của con người Hai là nó quyết định toàn
bộ nội dung của ý thức con người, Ba là nó quyết định quá trình vận động phát
triển, biến đổi của ý thức con người. Từ quan điêm của thế giới quan duy vật trên
chúng ta phải rút ra 1 nguyên tắc phương pháp luận để chỉ đạo các hoạt động của
mình đó là phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng và hành động theo
các quy luật khách quan, phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan, duy
ý trí.
2. Sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất:
Sau khi ý thức hình thành thì nó có tính độc lập tương đối, nhờ đó nó có thể tác
động tích cực trở lại lên vật chất theo 2 xu hướng: Một là nếu ý thức phản ánh
đúng đắn các quy luật vận động khách quan của vật chất thì nó có thể thúc đẩy sự
phát triển của vật chất. Hai là nếu ý thức phản ánh 1 cách sai lệch, xuyên tạc các
quy luật vận động khách quan của vật chất thì nó lại kìm hãm sự phát triển của vật
chất. Sự tác động này không diễn ra tự thân mà nó phải được thực hiện thông qua
các hoạt động thực tiễn của con người, như Mác nói: Một lực lượng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bằng 1 lực lượng vật chất và vì vậy để ý thức tác động lên vật chất
thì trước tiên nó phải được vật chất hoá, Từ quan điểm trên cần rút ra nguyên tác
phương pháp luận đó là đề cao vai trò của nhân tố sáng tạo chủ quan con người,

phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ học vấn chuyên môn phổ
biến tri thức khoa học và lý luận Cách mạng cho quần chúng nhân dân, kiên quyết
đấu tranh khắc phục chủ nghĩa duy vật tầm thường, siêu hình, cơ giới, máy móc.





8











9
Sáng thứ 6, ngày 21 tháng 01 năm 2011
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm về mối liên hệ:
- Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những quan điểm đối lập nhau về mối
liên hệ như là sự đối lập giữa quan điểm siêu hình và biện chứng, giữa quan điểm
duy tâm tâm và duy vật. Quan điểm siêu hình coi thế giới là một tập hợp tình cờ
của những sự vật riêng rẽ, biệt lập và tách rời. Do đó quan điểm này hoặc là không
thừa nhận sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau hoặc là có thừa nhận sự
liên hệ, nhưng lại xem xét chúng một cách giản đơn, hời hợt bề ngoài, cho nên

không thấy được sự chuyển hóa bên trong giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
- Quan điểm biện chứng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó
mọi sự vật hiện tượng đều có sự liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau. Do đó theo quan
điểm này thì không có một sự vật hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, tách rời mà
mọi sự vật hiện tượng đều có sự liên hệ với nhau. Quan điểm này được đánh giá là
sâu sắc, toàn diện khi giải giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự liên hệ thì có sự đối
lập giữa quan điểm duy vật và và duy tâm. Các nhà biện chứng duy tâm coi nguồn
gốc của các mlh là ý niệm, ý niệm tuyệt đối hay là cảm giác chủ quan của con
người
Ngược lại các nhà biện chứng duy vật (Chủ nghĩa Mác) chỉ ra rằng nguồn gốc
của các mlh trong hiện thực là do tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó thì
mọi sự vật hiện tượng đều kà những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, có tính vật
chất hay có nguồn gốc vật chất.Vì vậy chúng đều phải chịu sự chi phối bởi các quy
luật phổ biến của vật chất.
Tóm lại theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm về mlh được dùng để
chỉ sự tương tác qua lại, tính quy định ràng buộc lẫn nhau và sự chuyển hoá vào
nhau giữa những mặt trong cùng một hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng
với nhau.
2. Các tính chất của mlh
Theo quan điểm biện chứng duy vật thì các mối liên hệ trong hiện thực có 3 tính
chất cơ bản:

10
Một là: Tính khách quan: Điều này nói lên rằng các mối liên hệ của hiện thực
có nguồn gốc kq từ vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan ở bên ngoài đầu óc
con người và không phụ thuộc vào ý thức con người.
Hai là: Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng đều có mlh của mình chứ ko có 1
sự vật hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, những mlh này có mặt cả trong tự
nhiên.
Ba là: Tính đa dạng nhiều vẻ: Điều đó nói lên rằng có vô số các kiểu loại liên

hệ khác nhau đang tồn tại trong hiện thực và mỗi sự vật đều phải đồng thời tham
gia và vô số các mlh ấy. Có liên hệ bên trong, có liên hệ bên ngoài trong đó những
mối liên hệ bên trong đóng vai trò quyết định. Có liên hệ trực tiếp, có liên hệ gián
tiếp, và chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau, có lien hệ riêng, có liên hệ chung.
Trong đó những mối liên hệ chung nhất có tác động đồng thời lên mọi sự vật hiện
tượng cả trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy thì được gọi là mlh phổ biến.
Những mlh riêng và liên hệ đặc thù là đối tượng nghiên cứu của các khoa học cụ
thể, còn các mlh phổ biến là đối tượng nghiên cứu của triết học. Phép biện chứng
duy vật chỉ nghiên cứu về các mlh chúng bao gồm 6 mlh, còn được gọi là 6 cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật
3. Ý nghĩa pp luận
- Phải quán triệt nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và trong hoạt động thực
tiễn.
Trong nhận thức phải quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện, tức là khi xem xét
1 sự vật anò đó thì chúng ta cấn phải xem xét tất cả các mặt, các mlh khác nhau
của nó, ko được bỏ sót mặt nào dù nó là ngẫu nhiên nhất. Theo Lênin chúng ta sẽ
ko thể làm việc đó 1 cách hoàn toàn đầy đủ nhưng quán triệt nguyên tắc này sẽ
tránh cho chúng ta khỏi sai lầm là sự cứng nhắc. Trong thực tiễn, quan điểm toàn
diện đòi hỏi phải đưa ra được những giải pháp đồng bộ để tác động làm thay đổi sự
vật.
- Phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và trong thực tiễn.
Trongn nhận thức phải xem xét một cách lịch sử cụ thể đối với sự vật, tức là phải
đặt sự vật trong những điều kiện, những hoàn cảnh cụ thể của nó để xem xét nó

11
một cách đúng đắn tránh thái độ trừu tượng, chung chung. Trong thực tiễn quan
điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải luôn luôn tính đến những điều kiện hoàn cảnh cụ
thể của từng nơi, từng lúc mà đưa ra những giải pháp phù hợp.
4. Nguyên lý về sự phát triển:
4.1. Khái niệm về sự phát triển: Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những

quan điểm đối lập nhau về sự phát triển, như là sự đối lập giữa qđ biện chứng và
siêu hình, sự đối lập giữ qđ duy vật và duy tâm.
- Quan điểm siêu hình về sự pt: Q điểm này hoịăc là ko thừa nhận sự vận động
và phát triển vì nó coi thế giới là cái cho sẵn, cố định, bất biến. Hoặc là có thừa
nhấnmự vận động phát triển nhưng lại xem xét chúng một cách giản đơn, hời hợt,
bề ngoài, coi phát triển chỉ là sự tăng hay giảm thuần tuý về lượng mà ko thấy sự
biến đổi về chất. Lê nin đánh giá q điểm này là phiến diện 1 chiều cứng nhắc.
- Quan điểm biện chứng: Q điểm này coi phát triển là sự thống nhất giữa các mặt
đối lập như là thống nhất giữa lượng và chất, thống nhất giữa liên tục và gián đoạn.
Thống nhất giữa dần dần và nhảy vọt. Q điểm này đã thể hiện được tính toàn diện,
tính sâu sắc. Khi giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự phát triển thì có sự đối lập
giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Các nhà duy tâm và tôn giáo thường lý giải
nguồn gốc phát triển từ các lực lượng siêu nhiên (chúa, thượng đế ), hay từ các
lực lượng tinh thần (như ý niệm, ý niệm tuyệt đối). Ngược lại các nhà biện chứng
duy vật côi nguồn gốc phát triển là nguồn gốc bên trong, nguồn gốc đó chính là
mâu thuẫn.
* Tóm lại: Theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm phát triển thường
dùng để chỉ khuynh hướng đi lên của sự vận đọng, làm cho các sự vật hiện tượng
biến đổi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
4.2. Các tính chất của sự phát triển:
Theo quan điểm biện chứng duy vật sự phát triển gồm 2 tính chất cơ bản sau:
Một là: tính khách quan: điều này nói lên rằng sự phát triển không phải do con
người gán ghép cho sự vật, hay được áp đặt từ bên ngoài vào sự vật, mà nó có
nguồn gốc khách quan từ các mâu thuẫn bên trong. Nên sự phát triển diễn ra một

12
cách khách quan ở bên ngoài đầu óc của con người, không phụ thuộc ý thức của
con người và đó l à một hiện tượng tự thân (bản thân từ sự vật hiện tượng).
Hai là: Tính phổ biến: điều này nói lên rằng phát triển luôn luôn là khuynh

hướng tất yếu cuối cùng của quá trình vận động, chúng diễn ra cả trong tự nhiên,
trong xã hội, trong tư duy.
Ba là: Tính đa dạng nhiều vẻ: điều này nói lên rằng sự phát triển diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau, với những quy mô và nhịp điệu khác nhau.
Tuy nhiên tất cả các hình thức phát triển này đều phải tuân thủ 3 quy luật phổ
biến của sự phát triển: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ
định của phủ định.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển: Nguyên tắc
chung
- Phải quán triệt nguyên tắc phát triển trong nhận thức, cũng như trong thực tiễn:
+ Trong nhận thức: Cần phải quán triệt nguyên tắc xem xét trong sự vận động và
phát triển. Tức là khi xem xét một sự vật nào đó thì không được nhìn nhận như là
một cái cho sẵn, cố định, bất biến, mà cần phải đặt nó trong toàn bộ quá trình vận
động phát triển bản thân nó, để nhìn nhận nó như một quá trình. Phải lý giải được
xem từ đâu mà nó (nguồn gốc phát sinh), nó đã trải qua những giai đoạn phát triển
nào (lịch sử của nó), hiện tại nó đang là cái gì để từ đó dự đoán khuynh hướng phát
triển trong tương lai của nó.
+ Trong thực tiễn: Quan điểm phát triển đòi hỏi phải biết phủ định đi cái cũ, cái
lỗi thời, biết kế thừa cái tích cực, cái tiến bộ, không ngừng đổi mới (tìm nhân tố
mới, XD nhân tố mới) để phát triển.


13
QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
(QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT)

Quy luật này nghiên cứu về về cách thức chung của sự phát triển (hình thức phát
triển thì đa dạng, muôn vẻ), phải có sự tích lũy có đủ về lượng thì mới dẫn đến sự
biến đổi về chất. Ngược lại chất đổi sẽ dẫn đến lượng đổi.

1. Các phạm trù Chất và Lượng:
a. Phạm trù chất:
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là
nó, chứ không phải là cái khác.
Như vậy khái niệm chất trả lời cho câu hỏi: Sự vật ấy là cái gì.
Chất của sự vật luôn luôn gắn liền với các thuộc tính của nó, nhưng chất và thuộc
tính không đồng nhất với nhau: Thuộc tính chỉ là một mặt, một trạng thái, một tính
chất nào đó của sự vật được biểu hiện ra thông quan mối quan hệ của sự vật ấy với
những sự vật khác. Do đó thuộc tính có tính bộ phận, trong khi Chất của sự vật là
toàn bộ sự vật, là sự thống nhất của tất cả các thuộc tính, nên Chất có tính chỉnh
thể. Thuộc tính là cái quy định Chất. Tuy nhiên những thuộc tính khác nhau quy
định chất cho sự vật một cách khác nhau, chỉ những thuộc tính cơ bản mới quy
định chất cho sự vật và thuộc tính cơ bản cho Chất này có khi lại là không cơ bản
đối với Chất khác. (thuộc tính cơ bản thay đổi thì Chất thay đổi: ví dụ cái cốc thủy
tinh có những thuộc tính làm bằng thủy tinh, trong suốt, đáy lành, không thủng,
miệng không ghồ ghề, không sứt mẻ => cái cốc có Chất: đựng nước; có thể làm cái
chặn giấy: thuộc tính cơ bản là nó nặng; có thể úp đựng các con vật
Chất của sự vật là khách quan, tuy nhiên nó không thể tồn tại bên ngoài sự vật
mà phải tồn tại thông qua sự vật mang nó và một sự vật có vô vàn Chất.
b. Phạm trù Lượng:
Định nghĩa: Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có về mặt số lượng, khối lượng, kích thước, quy mô, nhịp điệu của quá

14
trình vận động phát triển của các sự vật hiện tượng, cũng như của các yếu tố tạo
nên chúng.
Như vậy khái niệm Lượng trả lời cho câu hỏi: Sự vật ấy như thế nào (lớn – bé,
cao – thấp ).
Để xác định Lượng cho sự vật người ta thường sử dụng 2 loại chỉ số: con số và

đại lượng. Có những Lượng được xác định bằng con số chính xác, nhưng có những
Lượng chỉ xác định được bằng một đại lượng tương đối (trên đầu ta có rất nhiều
tóc – không thể đếm cụ thể là bao nhiêu; cô ta rất đẹp; bà ấy rất ghen ).
Lượng cũng có tính khách quan và sự phân biệt giữa Chất và Lượng cũng chỉ là
tương đối vì cùng một cái xét trong quan hệ này có thể là Chất, nhưng xét trong
một quan hệ khác lại là Lượng. Ví dụ: xét con số 16 có nhiều cách xác định khác
nhau: tích của 2 và 8, bình phương của 4, tứ thừa của 2, 16 tổng khác nhau
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất: (diễn biến
của quy luật)
- Chất và Lượng luôn luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau bởi vì mỗi sự
vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về Chất lại vừa vừa có tính quy định
về Lượng, nên không có Chất thiếu Lượng và ngược lại.
- Lượng có xu hướng biến đổi liên tục, nó được tích lũy dần dần. Còn Chất có xu
hướng ổn định, ít thay đổi. Do đó không phải mọi sự thay đổi về Lượng đều làm
cho Chất thay đổi. Khi Lượng biến đổi trong một giới hạn nhất định nào đó thì
Chất của sự vật về cơ bản vẫn giữ nguyên. Giới hạn đó gọi là độ. Ví dụ: nước ở
điều kiện thường ở 0
0
C ->100
0
C nó là chất lỏng (trạng thái lỏng) (có có độ cụ
thể, có độ tương đối) Như vậy độ là như là một khoảng giới hạn mà trong đó
những thay đổi về Lượng chưa dẫn đến những biến đổi căn bản về Chất.
- Trong quá trình phát triển của sự vật thì Lượng phát triển trước. Sự tích lũy dần
dần về lượng đến một lúc nào đó sẽ vượt quá độ cho phép, khi đó chất của sự vật
sẽ thay đổi theo. Như vậy phải có sự tích lũy đủ về Lượng thì mới dẫn đến sự biến
đổi về Chất. Điểm giới hạn mà tại đó diễn ra sự biến đổi về Chất của sự vật được
gọi là điểm nút.

15

- Khi Lượng biến đổi đạt đến đến điểm nút thì quá trình biến đổi về chất sẽ diễn
ra, nhưng không diễn ra tức thời, mà nó được thực hiện thông qua một giai đoạn
được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là giai đoạn biến đổi Chất của sự vật do những
thay đổi về Lượng của chất đó gây nên. Các bước nhảy diễn ra theo những quy mô
và nhịp điệu khác nhau.
+ Theo quy mô: thì có bước nhảy cục bộ (quy mô nhỏ), bước nhảy toàn bộ (bước
nhảy quy mô lớn).
+ Theo nhịp điệu: có bước nhảy đột biến (bùng nổ - diễn ra nhanh. Ví dụ phản
ứng Hóa học ), bước nhảy dần dần (thời gian tương đối dài, diễn ra rất chậm. Ví
dụ hạt thóc nảy mầm, trứng nở thành gà, cải cách xã hội, thực hiện một cuộc cách
mạng, sự tiến hóa của loài người).
- Sau khi chất mới ra đời thay thế cho chất cũ thì nó sẽ tác động trở lại sẽ làm
cho Lượng thay đổi theo. Bởi vì tương ứng với chất mới phải là một lượng mới,
lượng nãy sẽ biến đổi với một quy mô, một tốc độ mới (quá trình học tập của trẻ từ
tiểu học đến bậc cao hơn). Đây là nói sự tác động trở lại của Chất đối với Lượng.
Như vậy cứ mỗi khi Chất thay đổi thì nó đòi hỏi Lượng cũng phải thay đổi theo.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật Lượng – Chất:
- Phải có sự tích lũy đủ về lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Do đó
chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng tả khuynh, tức là tư tưởng chủ
quan, duy ý chí, nóng vội khi chưa có sự chuẩn bị về Lượng đã muốn làm thay đổi
về Chất (theo xu hướng này không thể thành công được, trái quy luật, mang tính
duy tâm, duy ý chí).
- Khi Lượng đã tích lũy đủ thì phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, do đó
cũng phải đấu tranh để khắc phục tư tưởng hữu khuynh, tức là tư tưởng bảo thủ, trì
trệ, ỷ lại, trông chờ vào thực tế, bằng lòng với sự tích lũy thuần túy về Lượng mà
không chịu tác động để làm thay đổi về Chất.
- Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy khác nhau, biết kết hợp
bước nhảy cục bộ với bước nhảy toàn bộ, bước nhảy đột biến với bước nhảy dần
dần.



16


17
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI
LẬP

Quy luật này được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi vì nó nghiên
cứu về nguồn gốc chung của quá trình vận động và phát triển đó chính là mâu
thuẫn.
1. Các khái niệm cơ bản của quy luật:
- Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ
biến trong hiện thực. VD: trong một nguyên tử có điện tích âm >< điện tích dương;
trong cơ thể sống có quá trình đồng hóa >< dị hóa; trong xã hội có giai cấp: g/c
thống trị >< g/c bị trị; tư tưởng con người: đổi mới >< bảo thủ. Các mặt đối lập này
phải có liên hệ với nhau, nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập (xét
trong một chỉnh thể).
- Khái niệm sự thống nhất giữa các mặt đối lập: là tính quy định ràng buộc lẫn
nhau, nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó
nếu không có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự
thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có
điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau.
- Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: đó là sự tương tác qua lại theo xu
hướng phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm mâu thuẫn: mâu thuẫn là sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Như vậy mỗi một mâu thuẫn cũng phải bao gồm hai mặt đối lập, hai mặt
này vừa thống nhất với nhau đồng thời hai mặt đó đấu tranh qua lại với nhau.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc chung của sự phát triển: (diễn biến của quy luật

mâu thuẫn)
- Mâu thuẫn trước hết là một hiện tượng khách quan và phổ biến, bởi vì trong
mọi sự vật hiện tượng đều có chứa đựng các mặt đối lập, những mặt này tương tác
qua lại lẫn nhau, từ đó tạo ra các mâu thuẫn, nên những mâu thuẫn ấy tồn tại khách
quan trong sự vật, không phụ thuộc ý thức con người, đồng thời nó là một hiện

18
tượng phổ biến của tự nhiên, xã hội và trong tư duy. Do đó nếu có một mâu thuẫn
nào đó trong sự vật được giải quyết mất đi, thì tất yêu lại nảy sinh những mâu
thuẫn mới thay thế làm cho sự vật không lúc nào là không chứa đựng mâu thuẫn.
- Khi một sự vật nào đó đang tồn tại một cách ổn định nó vẫn còn là nó, nó chưa
chuyển hóa thành một cái khác thì trong lòng nó các mặt đối lập là đang thống nhất
với nhau, nên sự thống nhất giữa các mặt đối lập là nhân tố quy định tính ổn định
tương đối của các sự vật. Tuy vậy, sự thống nhất này chỉ là tạm thời, tương đối (chỉ
trong giới hạn nào đó).
- Trong sự vật các mặt đối lập đồng thời đấu tranh qua lại với nhau, nhờ cuộc
đấu tranh này mà sự vật dần dần biến đổi phát triển. Do đó, đấu tranh giữa các mặt
đối lập mới là nguồn gốc đích thực của sự phát triển và đấu tranh giữa các mặt đối
lập mới là vĩnh viễn, tuyệt đối.
- Thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập ấy chuyển
hóa vào nhau, nhờ đó mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra
đời thay thế. Trong cái mới lại dẫn dần hình thành những mâu thuẫn mới, lúc đầu
chỉ là sự khác biệt giữa các mặt, sau đó chuyển thành đối lập để tạo nên mâu thuẫn.
Sau khi hình thành thì mâu thuẫn sẽ phát triển và đến một lúc nào đó lại đòi hỏi
phải được giải quyết. Mỗi sự vật có thể đồng thời tham gia vào nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài: trong đó mâu thuẫn bên trong
đóng vai trò quyết định.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: mâu thuẫn cơ bản quy định bản
chất;

+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải
được giải quyết ngay.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng: mâu thuẫn đối khảng phải được giải
quyết bằng con đường bạo lực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật:
- Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật: đó là
thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát

19
từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi
tiết cụ thể
- Phải nắm vững phương pháp giải quyết mẫu thuẫn đó là thông qua đấu tranh
giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên
phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
- Phải biết vận dung linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình
thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa
(đồng hóa) vào mặt còn lại (chuyển hóa giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản), hoặc
mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình mới
của mình (VD: giải quyết mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị: cải tạo nông thôn
thành nông thôn mới, làm ranh giới, sự khác biệt giảm dần)

20
Sáng thứ 7, ngày 22 tháng 01 năm 2011
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật này nghiên cứu về khuynh hướng chung của quá trình phát triển, đó là
một đường xoáy trôn ốc (phát triển không đi theo con đường thẳng đứng)
1. Khái niệm phủ định biện chứng:
Khái niệm phủ định nói chung nói lên sự thay thế một sự vật, hiện tượng này
bằng một sự vật hiện tượng khác trong quá trình vận động, phát triển. Sự phủ định
có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng khác nhau là phủ định sạch trơn và phủ định

biện chứng. Phủ định sạch trơn là sự phủ định được gán ghép từ bên ngoài sự vật
làm cho sự vật ấy bị tiêu vong cho nên không còn khả năng phát triển tiếp (cái cây
bị chặt => không còn khả năng sinh trưởng); Phủ định biện chứng là sự phủ định
có tạo ra những tiền đề cần thiết cho quá trình phát triển tiếp theo của sự vật (Hạt
thóc nảy mầm=> Lúa)
Phủ định biện chứng phải có đủ 2 đặc trưng cơ bản sau:
- Tính khách quan: Đây là kết quả của việc giải quyết các >< nọi tại bên trong
cho nên nó diễn ra một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người và là
một khâu tất yếu của quá trình phát triển. Cho nên Mác khẳng định: Ko có một sự
vật nào trong hiện thực lại có thể phát triển được nếu như nó không biết tự phủ
định đi những hình thức tồn tại trước đó của mình.
- Tính kế thừa: Trong quá trình phủ định biện chứng cái cũ bị phủ định nhưng
không mất đi hoàn toàn bởi vì có nhiều yếu tố của nó vẫn tiếp tục được kế thừa
trong lòng cái mới. Cho nên sự kế thừa phải đảm bảo tính chọn lọc, tức là phải biết
kế thừa cái tích cực, cái tiến bộ, cái hợp quy luật đồng thời kiên quyết loại bỏ cái
cũ, cái lỗi thời, lạc hậu, phản động.
2. Sự phủ định của phủ định (diễn biến của quy luật)
- Trong quá trình vận động, phát triển thông qua sự phủ định mà cái mới sẽ ra
đời thay thế cho cái cũ, cái mới phải là cái tiến bộ so với cái cũ. Cái mới này trong
quá trình phát triển tiếp theo lại dần dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định
bởi 1 cái mới cao hơn… Cứ như vậy thông qua vô số những lần phủ định kế tiếp
nhau mà sự vật sẽ phát triển không ngừng.

21
- Tuy những sự vật phát triển không diễn ra theo một đường thẳng đứng mà nó
được thực hiện thông qua những chu kỳ kế tiếp nhau. Trong mỗi một chu kỳ phát
triển, thông qua lần phủ định thứ nhất nếu nó được thực hiện một cách căn bản thì
sự vật sẽ chuyển hoá thành cái đối lập với nó (cây lúa đối lập với hạt thóc), sau đó
qua lần phủ định thứ 2 hay gọi là phủ định của phủ định nếu nó cũng được thực
hiện một cách căn bản thì cái đối lập ấy lại chuyển hoá thành cái đối lập với nó mà

thực chất là quay trở về với cái ban đầu. Khi đó sẽ kết thúc một chu kỳ phát triển
để chuyển sang một chu kỳ mới.
- Sự phủ định của phủ định làm cho sự vật có khuynh hướng vòng quay trở lại
dường như là cái ban đầu nhưng với 1 trình độ phát triển cao hơn.
- Chúng ta không nên hiểu một cách mày móc là cứ qua 2 lần phủ định thì kết
thúc một chu kỳ phát triển. Trong thực tế chu kỳ phát triển có thể phải thông qua
nhiều lần phủ định mới hoàn thành.
VD: Chu kỳ phát triển của loài côn trùng qua 4 lần phủ định: Trứng => Tằm =>
Kén => Sâu
Quy luật này cho kết quả nên một khuynh hướng chung của quá trình phát triển
mà Lênin gọi là đường xoáy trôn ốc. Khuynh hướng này không phải do sự phủ
định tạo ra mà do sự phủ định của phủ định tạo ra.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Quy luật này giúp ta hiểu rõ hơn về cái mới, cái mới không phải là cái có sau
mà cái mới phải là cái tích cực, tiến bộ, hợp quy luật. Cái mới ra đời trong cuộc
đấu tranh với cái cũ nên râtý khó có thể tự bảo vệ được mình nên chúng ta phải
biết phát hiện cái mới, trân trọng cái mới, bảo về cái mới.
- Quy luật này khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cái mới, tuy nhiên nó cũng chỉ
ra rằng sự phát triển không diễn ra một cách bằng phẳng mà chứa đựng những rích
rắc, mâu thuẫn, đôi khi có cả những bước thụt lùi tạm thời nhưng khuynh hướng
tất yếu cuối cùng phải là tiến lên. Do đó nó góp phần củng cố tinh thần lạc quan
CM.
- Cần phải quán triệt quan điểm kế thừa có chọn lọc, kiên quyết đấu tranh khắc
phục 2 thái cực là phủ định sạch trơn và kế thừa nguyên xi.

22
CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
1. Định nghĩa:
- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng, một quá
trình riêng biệt nào đó. Chẳng hạn là cái bàn này, cái cây nọ, hành tinh kia. Như

vậy cái riêng là một chỉnh thể, nó có thể tồn tại tương đối độc lập trước nhiều cái
khác.
- Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung cho nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn màu
trắng, tư duy…Như vậy cái chung là cái bộ phận nhưng có sự lặp lại nhiều lần.
Ngoài cái chung và cái riêng còn có cái đơn nhất đó là những mặt, những thuộc
tính chỉ xuất hiện ở sự vật duy nhất nào đó, không lặp lại ở những sự vật khác.
Tóm lại cái riêng là chỉnh thể thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng bởi vì mỗi một
cái chung chỉ là một mặt, một bộ phận của những cái riêng nên nó không thể tách
riêng bởi cái riêng. VD: Tư duy không thể tách rời con người, nó là bộ phận tồn tại
trong mỗi con người, lợi ích chung cũng là lợi ích riêng của từng người; Màu trắng
được biểu hiện thông qua cái áo…
- Cái riêng tuy tồn tại độc lập nhưng không hoàn toàn cô lập mà mỗi cái riêng
đều phải tồn tại trong mối liên hệ để dần đến cái chung.
- Cái chung thì bền vững sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó bao gồm những mặt,
những thuộc tính bên trong lặp đi lặp lại nên cái chung bao hàm 1 cách đại khái cái
riêng. Ngược lại cái riêng thì phong phú, đa dạng hơn cái chung bởi vì trong cái
riêng ngoài những cái riêng còn có cái đặc thù và đơn nhất. Cho nên cái riêng
không ra nhập hết vào cái chung.
- Trong quá trình vận động và phát triển cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển
hoá vào nhau, từ một cái đơn nhất ban đầu có thể dần dần chuyển hoá thành cái
chung, chẳng hạn sự xuất hiện cái mới… Ngược lại từ cái chung có thể chuyến hoá
thành cái đơn nhất, chẳng hạn sự mất đi của một cái cũ
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:

23
- Quá trình nhận thức của con người phải đi từ cái riêng đến cái chung.
- Phải biết vận dụng cái chung vào để cải tạo cái riêng nhưng đồng thời phải tính

đến những điều kiện đặc thù riêng có của từng cái riêng cho phù hợp.
- Phải biết vận dụng mối quan hệ chuyển hoá giữa cái chung và cái đơn nhất qua
đó thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật.

24
CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
1. Định nghĩa:
- Nguyên nhân: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ tương tác giữa những mặt
trong sự vật, hiện tượng hay gữa các sự vật hiện tượng với nhau gây nên 1 biến đổi
nhất định nào đó chẳng hạn sự tác động của dòng điện lên bóng đèn => sáng.
- Kết quả: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi được gây nên
bởi tương tác giữa những mặt trong sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật hiện
tượng với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, cho nên nguyên nhân có trước, kết quả có
sau. Tuy nhiên không phải mọi sự vật hiện tượng đều xảy ra theo trình tự trước
sau, đều có quan hệ nhân quả với nhau.
Để nguyên nhân sinh ra kết quả cần có những điều kiện khách quan cho nó, tổng
hợp những điều kiện ấy gọi là hoàn cảnh. Tuy nhiên hoàn cảnh khác nguyên nhân
vì nó không sinh ra kết quả. Ngoài ra, nguyên nhân còn được phân biệt với nguyên
cớ, nguyên cớ chỉ là lý do chủ quan mà con người đưa ra để biện hộ cho một hành
vi nào đó.
- Cùng là một nguyên nhân có thể đồng thời có thể sản sinh ra nhiều kết quả
khác nhau (chẳng hạn sự tác động của dây tóc lên bóng đèn ngoài tác dụng gây
sáng còn toả nhiệt), và ngược lại cùng một kết quả lại có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau tác động đồng thời hoặc riêng rẽ gây nên. VD: Sự khủng hoảng kinh tế
VN năn 80 xuất phát từ nguyên nhân khách quan, chủ quan.
- Mọi hiện tượng xảy ra đều phải có nguyên nhân của nó, không một hiện tượng
nào là không có nguyên nhân. Do đó mỗi 1 hiện tượng đều phải nằm trong một
chuỗi dài vô tận các mối quan hệ nhân quả mà trong đó nó vừa là kết quả lại vừa là

nguyên nhân.
- Kết quả sau khi được sinh ra nếu tồn tại tương đối độc lập trước nguyên nhân
đã sinh ra nó thì nó có thể tác động trở lại lên nguyên nhân ấy theo hướng thúc đẩy
hoặc kìm hãm nguyên nhân.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:

×