Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đánh giá tình hình thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ và tìm hiểu những yếu tố liên quan tại 4 xã huyện nam đông thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 64 trang )

1
B GIO DC V O TO B Y T
I HC HU
TRNG I HC Y - DC
NGUYN ANH TEM
ĐáNH GIá TìNH HìNH THIếU MáU ở PHụ Nữ
TRONG Độ TUổI SINH Đẻ Và TìM HIểU NHữNG
YếU Tố LIÊN QUAN TạI 4 Xã, HUYệN NAM ĐÔNG
TỉNH THừA THIÊN HUế NĂM 2009
LUN VN BC S CHUYấN KHOA CP I
Chuyờn ngnh: Y T CễNG CNG
M S : CKI 60. 72. 76.
Ngi hng dn khoa hc:
TS. Vế VN THNG
HU, 2010
Li cm n
2
Để hoàn thành được luận văn này tôi
xin trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô Ban
giám hiệu, Phòng Giáo vụ, Phòng Đào tạo
sau đại học, Khoa Y tế Công cộng Trường
Đại học Y Dược Huế đã tận tình giúp đỡ,
giảng dạy truyền thụ những kiến thức quý
báu trong quá trình học tập.
Đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn TS. VÕ VĂN
THẮNG, Trưởng Khoa Y tế Công cộng, Trường
Đại học Y Dược Huế đã trực tiếp hướng dẫn
cho tôi nhưng kinh nghiêm quý báu trong quá
trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các bộ
môn, các thầy cô của Trường Đại học Y


Dược Huế đã tận tình giảng dạy cho tôi
những kiến thức và những kinh nghiêm
quý báu trong quá trình học tập và thực
hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Uỷ Ban Nhân
Dân huyện Nam Đông bạn bè đồng
nghiệp, các anh chị em lớp Chuyên khoa I
Y Tế Công Cộng Thừa Thiên Huế đã tạo
điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập, quá trình điêù tra cung
cấp,thu thập số liệu và làm luận văn tốt
nghiệp.
Huế Tháng 10 Năm
2010
3
Nguyễn Anh
Tem

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai trái tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Anh Tem
4
KÝ HIỆU VIẾT TẮT


HC : Hồng cầu
Hb : Hemoglobin
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
WHO: Tổ chức Y tế thế giới
(World Health Organization)
5
6
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Định nghĩa thiếu máu 4
1.2. Cơ chế và nguyên nhân thiếu máu 4
1.3. Phân loại thiếu máu 11
1.4. Tầm quan trọng của vấn đề thiếu máu 12
1.5. Đối tượng nguy cơ 14
1.6. Triệu chứng, dấu hiệu lâm sàng và chẩn đoán của thiếu máu 15
1.7. Phòng chống thiếu máu 16
1.8. Các nghiên cứu trong nước và nước ngoài về thiếu máu 18
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.2. Phương pháp nghiên cứu 21
2.3. Đánh giá kết quả 24
2.4. Xử lý số liệu 25
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
3.1. Tình hình, mức độ thiếu máu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại 4 xã
huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế 27
3.2. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu 33
Chương 4. BÀN LUẬN 39

4.1. Tình hình, mức độ thiếu máu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại 4 xã
huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế 39
4.2. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu 43
KẾT LUẬN 48
KIẾN NGHỊ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Ngưỡng Hb chỉ định thiếu máu theo HO………………………….3
Bảng 1.2. Cơ chế và nguyên nhân gây áu…………………………………….4
Bảng 1.3. Tỷ lệ % bị thiếu máu trên thế
iới………………………………….13
Bảng 1.4. Các loại viên sắt thường ùng………………………………… …17
Bảng 3.1. Số phụ nữ nghiên cứu ở 4 xã theo dân tộc…………………….…27
Bảng 3.2. Tuổi của phụ nữ được nghiên cứu 28
Bảng 3.3. Trình độ văn hóa 29
Bảng 3.4. Tình trạng hôn nhân 29
Bảng 3.5. Số con hiện có 30
Bảng 3.6. Nghề nghiệp chính 30
Bảng 3.7. Tỷ lệ thiếu máu 31
Bảng 3.8. Mức độ thiếu máu 31
Bảng 3.9. Phân loại thiếu máu do thiếu sắt 32
Bảng 3.10. Tỷ lệ thiếu máu phân bố theo xã 33
Bảng 3.11. Tỷ lệ thiếu máu theo nhóm tuổi 34
Bảng 3.12. Tỷ lệ thiếu máu theo TĐVH 34
Bảng 3.13. Tỷ lệ thiếu máu theo nghề nghiệp 35
Bảng 3.14. Tỷ lệ thiếu máu theo dân tộc 35
Bảng 3.15. Tỷ lệ thiếu máu theo số con 36

Bảng 3.16. Tỷ lệ thiếu máu theo phân loại BMI 36
Bảng 3.17. Thiếu máu liên quan đến giun móc 37
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa thiếu máu và chăm sóc, nuôi dưỡng con nhỏ 37
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa thiếu máu và dinh dưỡng 38
8
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Tình hình mắc bệnh thiếu máu 6
Biểu đồ 1.2. Số người đang mang thai bị thiếu máu ở một số khu vực
trong năm 1995 và năm 2000 6
Biểu đồ 3.1. Số phụ nữ nghiên cứu ở 4 xã 27
Biểu đồ 3.2. Phân bố theo tuổi 28
Biểu đồ 3.3. Trình độ văn hóa 29
Biểu đồ 3.4. Số con hiện có 30
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ thiếu máu 31
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ thiếu máu do sắt 32
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ thiếu máu phân bố theo xã 33
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu là sự mất quân bình sinh lý giữa mất máu và bù đắp máu
của cơ thể. Thiếu máu thường không phải là một bệnh mà là triệu chứng của
một bệnh hoặc một rối loạn nào đó [2], [3], [6]. Thiếu máu có thể gây ra do
nhiều nguyên nhân khác nhau: do nhiễm ký sinh trùng (giun sán sốt rét), do
mất máu, do bệnh lý về huyết sắc tố (Hb), hay do thiếu dinh dưỡng. Về ý
nghĩa sức khoẻ cộng đồng thì thiếu máu do thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu
sắt, thiếu acid folic thiếu vitamin B12 là phổ biến hơn cả.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và trẻ em nằm trong nhóm có nguy cơ dễ
mắc bệnh [4]. Nguyên nhân chủ yếu là do ăn thiếu các thực phẩm giàu chất
sắt, đặc biệt là sản phẩm có nguồn gốc từ động vật. Thiếu máu do thiếu sắt
thường là các chảy máu mãn tính bệnh nhân không biết, bỏ qua không chú ý.
Thiếu máu thiếu sắt gặp khoảng 90% các trường hợp thiếu máu [3], [5]. Nữ

gặp nhiều hơn nam [3]. Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ mang thai trên
toàn quốc năm 2000 là 32,2% [1].
Tình hình thiếu máu ở các nước đang phát triển chiếm tỷ lệ cao khoảng
36%, so với các nước phát triển chỉ chiếm 8%. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất gặp ở
Nam Phi, Nam Á, Mỹ La Tinh. Thiếu máu gặp 50% ở phụ nữ có thai, rồi đến
43% ở trẻ em, còn nam giới trưởng thành thấp hơn cả, chiếm 18% [29]. Một
trong những nguyên nhân gây thiếu máu hay gặp ở Việt Nam là nhiễm giun
móc và vấn đề dinh dưỡng. Thừa glucid, thiếu protid, đặc biệt là Protid động
vật là thành phần cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và vi chất; hiện tượng đẻ
dày, đẻ nhiều con phổ biến ở nông thôn; các phong tục tập quán lạc hậu về
thực hành dinh dưỡng còn tồn tại một số vùng, Tất cả những điều đó làm
cho tình trạng thiếu máu ngày càng trở nên phổ biến ở nước ta [18]. Hậu quả
của thiếu máu, đặc biệt là thiếu máu nặng ảnh hưởng nặng nề đến sức khoẻ,
10
giảm khả năng lao động và học tập [18], [22], giảm khả năng đề kháng bệnh
tật [4].
Một trong những đối tượng dễ mắc thiếu máu rất đáng chú ý là phụ nữ,
đặc biệt là phụ nữ mang thai. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), tỷ lệ thiếu máu phụ nữ nói chung là 33%, ở phụ nữ mang thai là
50%. Ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 56%, các nước phát triển là 15%
[22], [23]. Ở Việt Nam, theo điều tra của Viện Dinh Dưỡng năm 1995, có
40,2% phụ nữ không mang thai và 52,7% phụ nữ mang thai bị thiếu máu [29].
Nam Đông nằm phía Tây Nam của tỉnh Thừa Thiên Huế, là một huyện
miền núi với tỷ lệ người dân tộc Katu chiếm 40%. Huyện có 11 xã và thị trấn,
trong đó có 7 xã nghèo theo phân loại của huyện. Trong 7 xã nghèo này người
dân tộc Katu chiếm 68,7%. Đời sống chủ yếu sống dựa vào nương rẫy. Ở đây
đời sống người dân vẫn còn nghèo nàn, tồn tại nhiều phong tục tập quán lạc
hậu cũng như phải đối mặt với nhiều nguy cơ mắc bệnh thiếu máu.
Trong nhiều năm vừa qua, Trung tâm y tế huyện đã cố gắng thực hiện
nhiều chương trình y tế để cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân dân như:

tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi, chương trình làm mẹ an toàn, đặc
biệt chương trình chăm sóc tình trạng thiếu máu ở phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ,
nhưng do thiếu hụt về nguồn lực và các bằng chứng về nguyên nhân thiếu
máu ở đối tượng trên nên việc thực hiện các can thiệp sức khỏe vẫn còn nhiều
hạn chế. Xuất phát từ ý nghĩa và mục đích trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
"Đánh giá tình hình thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ và tìm hiểu những
yếu tố liên quan tại 4 xã huyện Nam Đông -Thừa Thiên Huế" với mục tiêu
sau:
1. Xác định tỷ lệ thiếu máu, mức độ thiếu máu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
tại huyện miền núi Nam Đông, Thừa Thiên Huế
2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến thiếu máu ở đối tượng nghiên cứu.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.2. ĐỊNH NGHĨA THIẾU MÁU
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) [14], thiếu máu là
khi giảm rõ rệt khối lượng hồng cầu (HC) và giảm tương ứng khả năng vận
chuyển oxy của máu. Bình thường khối lượng máu được duy trì ở mức độ gần
như hằng định, do đó thiếu máu là tình trạng giảm số lượng HC hay giảm
Hemoglobin (Hb) ngoại biên.
Cũng theo WHO, người ta phân mức độ thiếu máu chủ yếu dựa và
nồng độ Hb máu.
Hàm lượng Hb bình thường thay đổi theo tuổi, giới, tình trạng sinh lý,
độ cao so với mặt biển và ít khác nhau theo chủng tộc nên WHO đã đề nghị
coi là thiếu máu do thiếu sắt khi hàm lượng Hb ở dưới các ngưỡng sau đây:
Bảng 1.1. Ngưỡng Hb chỉ định thiếu máu theo WHO[41]
Nhóm tuổi Ngưỡng Hemoglobin (g/100ml)
Trẻ em từ 6 tháng - 6 tuổi
Trẻ em từ 6 tuổi - 14 tuổi
Nam trưởng thành

Nữ trưởng thành
Nữ có thai
11
12
13
12
11
Có những người có lượng Hb thấp hơn các giới hạn trên nhưng không
bị thiếu máu (nghĩa là thêm các chất dinh dưỡng tạo máu vào mà lượng Hb
vẫn không tăng), tuy vậy, trong một quần thể dân cư tỷ lệ số người có lượng
Hb thấp hơn các “ngưỡng” trên càng cao thì vấn đề thiếu máu càng lớn.
1.2. CƠ CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY THIẾU MÁU
Bảng 1.2. Cơ chế và nguyên nhân gây máu[6]
12
Cơ chế thiếu máu Các nguyên nhân chính
Ngoại biên:
- Chảy máu cấp tính và mạn
- Tan máu do:
+ Tại HC:
+ Ngoài HC
Trung ương
Rối loạn yếu tố tạo máu
Rối loạn sinh sản.
- Tổn thương
- Rối loạn quá trình cầm máu
- HC nhỏ hình cầu, hình thoi
- Bệnh Hb: Thalasemi, bệnh Hb
khác.
- Thiếu máu enzym ở HC: G6PD*,
pyruvatkinase

- Miễn dịch: bất đồng Rh, ABO, tự
miễn. Nhiễm khuẩn, sốt khuẩn,
nhiễm độc.
- Thiếu máu thiếu sắt
- Thiếu acid folic, vitamin B12.
- Không sử dụng được sắt.
- Giảm sinh HC non đơn thuần.
- Suy tủy toàn bộ Fanconi, mắc phải.
- Thâm nhiễm tủy: bệnh bạch cầu,
ung thư khác.
* G6PD: gluco - 6 phosphat - dehydrogenase.
Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra thiếu máu trong đó đứng về
phương diện sức khỏe cộng đồng 3 loại sau đây quan trọng hơn cả [1], [2], [3]
[5], [14]:
- Thiếu máu dinh dưỡng.
- Thiếu máu liên quan với nhiễm trùng và ký sinh trùng kinh niên.
- Thiếu máu liên quan tới các tật di truyền của các phân tử Hemoglobin
(kể cả các bệnh Thalassemia).
13
Ba loại này không tách biệt mà nhiều khi lồng vào nhau, ví dụ một số
nhiễm ký sinh trùng như giun móc chẳng hạn làm tăng nhu cầu các yếu tố tạo
máu và thúc đẩy phát sinh thiếu máu dinh dưỡng. Hơn nữa, trong một quần
thể có tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng cao, đồng thời cũng có thể có nhiều người
bị thiếu máu do bệnh của Hemoglobin.
1.2.1.Thiếu máu sinh lý trong thời kỳ mang thai
Trong trạng thái không có thai, nước chiếm 72% trọng lượng cơ thể,
trong số này 5% trong mạch máu, 70% ở trong nội bào và 25% ở dịch gian
bào. Khi có thai dịch nội bào không thay đổi song dịch nội mạch và dịch kẽ
đều tăng. Thể tích huyết tương bắt đầu tăng lên khi bắt đầu mang thai, tăng rõ
từ tuần lễ thứ 2, đạt tới mức cao nhất xung quanh tuần lễ thứ 32, duy trì cho

tới gần đủ tháng mới có trình trạng giảm nhẹ. Khi bắt đầu có thai thể tích
huyết tương từ 2.150ml sẽ tăng dần lên 3.350ml vào đầu tháng thứ 9 tức là
tăng 1.400ml. Trong khi đó thể tích huyết cầu chỉ tăng 300ml, như vậy thể
tích huyết tương tăng nhiều hơn thể tích huyết cầu, điều đó giải thích huyết
tương tăng nhiều hơn thể tích huyết cầu, đây là hiện tượng máu bị pha loãng,
giảm độ quánh, tỉ lệ Hb giảm độ 2-3g/dl .
Do giảm dần 200ml của thể tích HC trong tháng 2 đầu thai nghén, đó
là sự thiếu máu thật sự, mặc dù sự giảm thể tích HC này chưa giải thích được,
dần dần nó được điều chỉnh lại và thể tích HC tăng dần. Cuối cùng cả hai hiện
tượng: tăng thể tích huyết tương và giảm thể tích HC trộn lẫn để dẫn tới sự
giảm nhẹ thể tích máu toàn bộ trong 2 tháng đầu thai nghén .
14
Biểu đồ 1.1. Tình hình mắc bệnh thiếu máu (điều tra năm 1995 và 2000)
Nguồn: NIN, 2000 [22]
Biểu đồ 1.2. Số người đang mang thai bị thiếu máu ở một số khu vực trong
năm 1995 và năm 2000 [22]
Trong 2 quý cuối của thai kỳ có sự tăng thể tích máu toàn bộ với sự pha
loãng HC, sự thiếu máu này là tương đối, một số tác giả gọi là hiện tượng
thiếu máu giả hay là thiếu máu sinh lý. Sự thiếu máu này không cần phải điều
trị, sẽ hồi phục nhanh chóng sau sinh, nếu không có sự mất máu trong và sau
đẻ. Tuy nhiên tình trạng thiếu máu sinh lý này sẽ làm nặng thêm tình trạng
thiếu máu thực sự.
15
1.2.2. Thiếu máu do thiếu sắt
Ơ những người trẻ, sự cân bằng chuyển hoá sắt vốn đã bấp bênh, 30%
người này tuy có lượng Hb bình thường, nhưng dự trữ sắt của họ hầu như con
số không, sự bấp bênh này là do kinh nguyệt. Mỗi chu kỳ kinh mất đi khoảng
30-50ml máu, mỗi ml máu chứa 0,8-1mg sắt như vậy mỗi chu kỳ kinh mất đi
khoảng 30mg sắt.
Người ta tính rằng sự hiện diện của sắt trong cơ thể với 1 lượng rất nhỏ

4gr ở nam và 2,5gr ở nữ, mỗi ngày lượng sắt mất đi rất ít khoảng 0,8-
1mg/ngày cộng với lượng sắt mất đi do kinh nguyệt nếu không được bù trừ
hoặc bù đắp không đủ dần dần sẽ dẫn đến sự thiếu hụt sắt.
Trong khi có thai nhu cầu về sắt tăng rõ rệt: 200ml để tăng khối lượng
huyết cầu, 75mg sắt cho 1kg trọng lượng thai, 75mg sắt cho sự phát triển của
bánh nhau, 200mg sắt cho mất máu khi đẻ, 300mg sắt cho cơ thể mẹ, tổng
cộng mất đi 700mg sắt cho thai nghén và sinh đẻ, tương đương 4,0mg
sắt/ngày, vào cuối kỳ thai nghén đến 6,3mg/ngày.
Theo GS. Leiserowitz nhu cầu này còn lớn hơn khoảng 1.120mg sắt,
trong đó 500mg sắt cho phát triển HC, 300mg sắt cho thai, 90mg sắt cho
chuyển hoá cơ bản, 230mg sắt cho mất máu lúc sinh. Lượng sắt này lớn hơn
rất nhiều so với lượng sắt đưa vào ngay với cả một chế độ ăn tốt nhất. Người
bình thường hấp thu 10% lượng sắt đưa vào. Với chế độ ăn đầy đủ cũng
không đáp ứng đủ nhu cầu về sắt khi mang thai, đòi hỏi phải huy động lượng
sắt dự trữ và gia tăng hấp thu sắt ở ruột non. Nếu mức dự trữ sắt trong cơ thể
trước khi có thai thấp hoặc không có, kết hợp tình trạng dinh dưỡng không
đầy đủ thì tình trạng thiếu máu thiếu sắt nặng nề là không tránh khỏi. Theo
W.Robert, T.Olay và Beecham mặc dù trong quá trình thai nghén sắt được
hấp thu nhanh hơn ở đường tiêu hoá 1-2mg/ngày, nhưng theo ước tính vẫn
còn thiếu khoảng 400mg.
16
Sắt có nguồn gốc từ thực phẩm, có 2 loại sắt hem và non- hem. Sắt hem
được tìm thấy ở thức ăn nguồn gốc thực vật đặc biệt trong hạt ngũ cốc, rau củ
và cây họ đậu. Lợi ích sinh học của nó thấp hơn và được hấp thu bởi sự có
mặt của yếu tố nâng cao vitamin C và kìm hãm là tanin.
Vitamin C có trong thức ăn có thể tăng gấp đôi sự thu hút sắt do kích
thích quá trình biến đổi Fe
3
=> Fe
2

mà sắt trong thực phẩm chủ yếu là Fe
3
.
Thức ăn nguồn gốc thực vật và có chứa Tanin ức chế hấp thu sắt. Tanin có
nhiều trong trà và có ít hơn trong cà phê. Có thể tìm thấy Tanin trong nhân và
hạt một số cây họ đậu. Sự ức chế của Tanin có thể bị chống lại sự có mặt của
Vitamin C trong thức ăn. Chế độ ăn ở các nước chậm phát triển ít thức ăn
nguồn động vật, ít vitamin C, ngược lại giàu ngũ cốc góp phần vào sự thiếu
hụt sắt.
1.2.3. Thiếu máu do Axít Folic và Vitamin B12
Hai chất có đặc tính chống nguyên HC khổng lồ và axit foli và Vitamin
B12 tác động lên Thymin ở giai đoạn sau để biến nó thành thymidin, thành
phần chủ yếu của Axit Desoxyribonucleic. Các axit này rất cần thiết cho sự
phân chia các nhân. Như vậy, sự thiếu axit folic và Vitamin B12 sẽ có ảnh
hưởng nhanh chóng lên tất cả các tổ chức đang có sự phân chia tế bào tích
cực, đặc biệt ở tuỷ xương. Nó biểu hiện bằng sự ngưng trệ phân bào trưởng
thành, các tế bào non không thể phân chia được phải chịu gánh nặng về huyết
sắc tố và được giải phóng vào tuần hoàn thay cho các HC bình thường đó là
đại HC.
Cơ thể người không tự tổng hợp được folat, vì vậy đòi hỏi folat từ chế
độ ăn. Folat hiện diện trong tất cả các loai thức ăn nhưng có nhiều trong gan,
rau lá xanh đậm, khoai lang, khoai tây, lòng đỏ trứng, chuối, mãng cầu. Nhiều
loại thực phẩm chính quan trọng ở các nước chậm phát triển thì nghèo folat
như: gạo, kê, bắp.
17
Folat đòi hỏi gấp đôi trong thai kỳ, đặc biệt quý 3 và thời kỳ hậu sản nhu cầu
bình thường là 30-50ug/ngày .
Người ta thấy rằng nếu bổ sung folat trong thời kỳ mang thai sẽ làm
giảm được khiếm khuyết về thần kinh ở trẻ sơ sinh. Vitamin B12 được tổng
hợp bởi các vi sinh vật và bởi thịt của động vật nhai lại, nó không có ở rau và

quả. Nhu cầu 7-30Mg /ngày và không bị ảnh hưởng bởi đun nấu. Vitamin
B12 được hấp thu do liên kết với yếu tố nội (Glycoprotein) được sản xuất bởi
tế bào thành dạ dày, những người bị thiếu yếu tố nội bẩm sinh, phẫu thuật cắt
dạ dày, bệnh đường ruột hoặc chế độ ăn nghèo Vitamin B12 dễ bị thiếu máu
HC khổng lồ.
1.2.4. Thiếu máu và giun móc
Nhiễm giun móc là một trong những nguyên nhân cơ bản của thiếu
máu ở các nước chậm phát triển. Khoảng 25% dân số Thế giới có nhiễm giun
móc. Tỷ lệ bệnh phân bố tập trung ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi
có môi trường bị ô nhiễm phân và chủ yếu mắc phải do tiếp xúc với đất bị ô
nhiễm hoặc có ăn rau sống có trứng giun. Giun móc là loại giun hút máu, có
hai loại giun móc, cả hai loại này đều có ở Việt Nam. Necator americanus
tiêu thụ khoảng 0,2 ml máu/ngày, trong khi đó loại Ancylostoma americanus
tiêu thụ gấp 10 lần. Số lượng giun móc có thể từ vài con đến vài ngàn con.
Giun móc trưởng thành sống ở tá tràng và ruột non, bám vào niêm mạc
ruột và hút máu, đó là nguyên nhân gây mất máu mạn, thậm chí trong một
thời gian ngắn số lượng nhiều giun móc cũng có thể là nguyên nhân gây mất
máu và đủ dẫn tới sự cạn kiệt sắt của cơ thể. Giun móc không chỉ hút máu mà
còn làm viêm tá tràng, làm cho tá tràng không hấp thu được sắt (tá tràng là
nơi hấp thu nhiều sắt nhất). Ngoài ra sau khi hút no máu, miệng giun móc còn
tiết ra chất chống đông làm cho vết thương vẫn tiếp tục chảy máu. Độc tố
18
giun còn gây hiện tượng kích thích mất ngủ, đau thượng vị, rối loạn tiêu hoá
và chán ăn, tất cả sẽ dẫn đến tình trạng thiếu máu, suy dinh dưỡng .
Giun trưởng thành
Hình 1.1. Chu trình phát triển của gian móc [3]
1.2.5. Giun đũa và thiếu máu
Giun đũa cũng là loại ký sinh trùng hay gặp, chúng ký sinh ở ruột non
với số lượng lớn, ăn chất dinh dưỡng gây nên tình trạng suy kiệt cơ thể, số
lượng lớn còn gây tắc ruột, vào ruột thừa gây viêm ruột thừa cấp. Độc tố giun

đũa gây tình trạng kích thích, chán ăn, viêm ruột điều đó cũng sẽ dẫn đến
thiếu máu.
19
1.2.6. Ký sinh trùng sốt rét và thiếu máu
Bệnh sốt rét có thể coi là một bệnh có ảnh hưởng nhiều nhất đến quá
trnh phât triển của lịch sử loăi người. Khi vào máu, ký sinh trùng sốt rét gây
nên những biến đổi lớn về máu. Trong trường hợp thông thường có khoảng
10-20% HC bị ký sinh trùng sốt rét xâm nhập, làm vỡ HC, trung tâm sinh
huyết bị ức chế nên số lượng HC giảm xuống nhiều, huyết cầu tố cũng giảm
xuống đến 60-65%. Một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng bảo vệ chống lại sốt rét
góp phần ngăn ngừa thiếu máu ở phụ nữ mang thai .
Phần lớn trẻ sơ sinh có trọng lượng thấp có liên quan đến bà mẹ có
nhiều Plasmodium falciparum. 46. sốt rét được kết hợp với trẻ sơ sinh có
trọng lượng sinh ra thấp, sinh non và thai chết lưu. ảnh hưởng bất lợi của sốt
rét lên bà mẹ và thai nhi phần lớn liên quan đến tnh trạng thiếu máu nghiêm
trọng. Tuy nhiên ảnh hưởng trực tiếp của thuốc sốt rét lên thai nhi là không
thể loại trừ .
1.2.7. Thiếu máu do viêm nhiễm
Dạng thiếu máu này cũng xảy ra thường liên quan đến ba hiện tượng:
- Sự thiếu hụt chuyển hóa sắt: Trong quá trình viêm nhiễm sắt bị giữ lại
trong Đại thực bào thay vì sắt được giải phóng sau khi có hiện tượng tan máu
sinh lý.
- Tăng sự tan máu âm thầm.
- Suy tuỷ do quá trình tổng hợp chất tạo máu (Erythropoetin) kém và
quá trình sản xuất HC bị nhiễm độc bởi một vài cytokin được giải phóng
trong quá trình viêm.
1.3. PHÂN LOẠI THIẾU MÁU [5]
1.3.1. Phân loại theo nguyên nhân thiếu máu
1.3.1.1. Thiếu máu do giảm sinh
- Thiếu máu do yếu tố cấu tạo máu: Thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu

thiếu acid folic, vitamin B
12
, thiếu máu thiếu protein.
20
- Thiếu máu do giảm sản và bất sản tủy: Suy tủy xương mắc phải và
bẩm sinh (bệnh Fanconi), giảm sinh nguyên HC đớn thuần, thân nhiễm tủy,
bệnh leucemie và các di căn khác vào tủy, một số nguyên nhân khác: Suy thận
mạn, thiểu năng tuyến giáp, bệnh collagen, nhiễm khuẩn mạn.
1.3.1.2. Thiếu máu do tan máu
- Tan máu do nguyên nhân tại HC, di truyền: Bệnh về Hb: Thalasemi,
β - thalasemi, bệnh HbE, HbS, HbC, HbD Bệnh ở màng HC: HC nhỏ hình
cầu, HC hình thoi. Bệnh về men HC: thiếu G6PD, thiếu Glutathion reductase
pyruvatkinase.
- Tan máu do nguyên nhân ngoài HC, mắc phải: Tan máu miễn dịch:
Bất đồng nhóm máu mẹ - con Rh, ABO, tự miễn. Nhiễm khuẩn, nhiễm độc,
cường lách, hội chứng huyết tán tăng urê máu.
1.3.1.3. Thiếu máu do chảy máu
Chảy máu cấp: Chấn thương, dãn tĩnh mạch thực quản, rối loạn quá
trình cầm máu.
Chảy máu mạn: giun móc, loét dạ dày - tá tràng, trĩ, sa trực tràng.
1.3.2. Phân loại theo huyết học
- Thiếu máu nhược sắc, HC nhỏ:Sắt huyết thanh giảm, sắt huyết thanh tăng.
- Thiếu máu đẳng sắc, HC bình thường.
-Thiếu máu ưu sắc HC to.
1.4. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ THIẾU MÁU
Thiếu máu sẽ dẫn đến hậu quả sau:
1.4.1. Ảnh hưởng đến khả năng lao động
Thiếu máu do bất kỳ nguyên nhân nào cũng gây ra tình trạng thiếu Oxy
ở các mô, đặc biệt ở một số cơ quan như tim, não. Thiếu máu ảnh hưởng tới
các hoạt động cần tiêu hao năng lượng. Nghiên cứu nhiều nơi cho thấy năng

suất lao động của người thiếu máu thấp hơn những người bình thường. Người
ta còn nhận thấy tình trạng thiếu sắt (chưa bộc lộ thiếu máu) cũng làm giảm
khả năng lao động.
21
1.4.2. Ảnh hưởng đến trí tuệ
Theo Seshadri và cs nhận thấy các hiểu biết mất ngủ, mệt mỏi, kém chú
ý, kém tập trung dễ bị kích thích hay gặp ở những người thiếu máu. Những trẻ
thiếu máu có it năng lượng hoạt động và học tập, vì vậy trẻ này có thể phát
triển chậm hơn trẻ khoẻ mạnh.
1.4.3. Ảnh hưởng tới thai sản
Từ lâu người ta đã biết thiếu máu tăng nguy cơ đẻ non, đẻ con nhẹ cân
dễ bị chảy máu sau đẻ, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con. Người
mẹ có dinh dưỡng tốt trong quá trình mang thai và tăng được khoảng 10 kg và
dinh dưỡng hằng ngày trong suốt thời kỳ mang thai có hàm lượng sắt ít nhất
28mg thì đứa trẻ khi sinh ra có cân nặng khoảng 3kg và không bị thiếu máu
dinh dưỡng.
1.4.4. Ý nghĩa sức khỏe cộng đồng
Tỷ lệ mắc bệnh: Dựa theo các giới hạn “ngưỡng” đề nghị ở trên và số
liệu nhiều cuộc điều tra, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính có khoảng 30% dân
số thế giới bị thiếu máu.
Bảng 1.3. Tỷ lệ % bị thiếu máu trên thế giới[33]
Vùng
Trẻ em
0-4 tuổi
Trẻ em
5-12 tuổi
Nam
trưởng
thành
Phụ nữ 15-49 tuổi

Có thai Chung
Các nước phát triển 12 7 3 14 11
Các nước đang phát triển 51 46 26 59 47
Chung 43 37 18 51 35
Thiếu máu hay gặp ở các nước đang phát triển (36%) so với các nước
phát triển (8%). Tỷ lệ máu cao nhất ở Nam Phi, Nam Á rồi đến Mỹ La Tinh, còn
các vùng khác thấp hơn. Thiếu máu hay gặp nhất ở phụ nữ có thai (51%) đến trẻ
em (43%), học sinh (37%), còn ở nam giới trưởng thành thấp hơn cả (18%).
Người ta ước tình trên toàn thế giới có khoảng 1.300 triệu người thiếu
22
máu do thiếu sắt. Cần chú ý thêm rằng cần thiếu máu chỉ là giai đoạn cuối
cùng của một quá trình thiếu sắt tương đối dài và nhiều ảnh hưởng bất lợi với
sức khỏe và thể lực và số người bị thiếu sắt nhưng chưa bộc lộ thiếu máu cao
hơn nhiều so với số người bị thiếu máu thật sự.
1.5. ĐỐI TƯỢNG NGUY CƠ
Trẻ 6 tháng đầu: Một đứa trẻ khi sinh có dự trữ sắt từ bà mẹ truyền
cho đồng thời có lượng sắt: trong sữa mẹ là nguồn cung cấp sắt rất tốt cho trẻ.
Do đó khi người mẹ trong thời gian mang thai bị thiếu máu hoặc không cho
con bú mẹ trong 6 tháng đầu thì khả năng thiếu máu của đứa trẻ rất cao.
Trẻ có cân nặng thấp: Trẻ nhỏ có dự trữ sắt ít hơn trẻ lớn. Trẻ được
sinh quá sớm không có thời gian tích luỹ được lượng sắt dự trữ trước khi sinh.
Trẻ có cân nặng sơ sinh thấp có thể trở nên thiếu săt trong 2-3 tháng sau sinh.
Trẻ không được bú mẹ: Sắt từ thức ăn nhân tạo không hấp thu tốt như
sắt trong sữa mẹ. Trẻ được bú sữa ngoài mặc dầu có thêm sắt cũng không đủ
để phòng tránh tình trạng thiếu sắt. Trẻ chỉ bú sữa động vật thường bị thiếu
máu trong 4 tháng đầu sau sinh.
Trẻ từ 6 tháng đến 3 tuổi: Từ 6 tháng tuổi trẻ lớn nhanh và lượng sắt
cần thiết cũng tăng theo. Trẻ sử dụng lượng sắt dự trữ khi sinh ra và lượng sắt
khi được bú mẹ. Trẻ phái bắt đầu có thêm lượng sắt từ các thức ăn khác.
Nhiều trẻ trở nên thiếu sắt từ 6 tháng đến 3 tuổi vì thức ăn bổ sung bao

gồm thực phẩm chính khó hấp thu đủ sắt, nhiễm trùng không thường ở lứa
tuổi này gây trở ngại cho việc hấp thu, dự trữ và sử dung sắt, cuing như giảm
lượng thức ăn ăn vào.
Trẻ suy dinh dưỡng: Hầu hết trẻ suy dinh dưỡng thiếu sắt đưa đến
thiếu máu. Khi trẻ suy dinh dưỡng nặng, thiếu sắt có thể trở nên trầm trọng.
Trẻ lớn: Trẻ lớn cũng cần sắt để phát triển. Tuy nhiên, nhu cầu sắt cho
1 kg trọng lượng cơ thể giảm theo độ tuổi, và trẻ lớn ít có nguy cơ thiếu máu
23
hơn trẻ nhỏ. Vì vậy, trẻ lớn có thiếu máu nhẹ nhưng chúng có thể trở nên
thiếu máu trầm trọng nếu chúng bị nhiễm giun móc chẳng hạn.
Trẻ thiếu máu do bị bệnh hồng cầu liềm hay Thalassemia: Những
trẻ này tạo ra hồng cầu mới nhanh hơn bình thường. Chúng thường không
thiếu sắt nhưng thường thiếu acid folic.
Trẻ vị thành niên: Trước khi đến tuổi dậy thì, trẻ lớn rất nhanh trong
năm đầu và nhu cầu sắt tăng lên. Cả nữ giới lẫn nam giới đều cần thêm sắt
nhưng nữ giới trở nên dễ thiếu máu hơn vì bắt đầu xuất hiện kinh nguyệt. Đó
là điều quan trọng cho phái nữ có dữ trự sắt trước khi bắt đầu mang thai.
1.6. TRIỆU CHỨNG, DẤU HIỆU LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN CỦA
THIẾU MÁU
Da, niêm mạc nhợt nhạt: Thường biểu hiện ở lưỡi và phía ngoài mô.
Mệt mỏi: Người bị thiếu máu thường thấy mệt mỏi và thờ ơ, hoa mắt,
nhức đầu, mất cảm giác ngon miệng hoặc có cảm giác buồn nôn.
Khó thở: Người bị thiếu máu có thể cảm thấy khó thở, tim đập nhanh,
phù.
Chẩn đoán trong các điều tra sàng lọc:
Ở cộng đồng, các xét nghiệm dùng để chẩn đoán thiếu máu là định
lượng Hemoglobin và Hematocrit. Nhận định về tình trạng thiếu máu theo
ngưỡng đề nghị Tổ chức Y tế Thế giới, có thể chia ra mức độ nhẹ, vừa và
nặng ở các mốc 10g/100ml, 7-10g/100ml và 7g/100ml. Ở các nước phát triển,
thiếu máu thường là nguyên nhân chính của thiếu máu dinh dưỡng, còn ở các

nước đang phát triển, thiếu một số chất dinh dưỡng khác cùng với bệnh sốt
rét, giun sán làm cho chẩn đoán thiếu máu phức tạp hơn. Trong trường hợp
đó, người ta cần quan tâm đến dải phân bố của Hb ở phụ nữ, trẻ em và nam
giới hoặc theo dõi kết quả điều trị thử bằng các chất dinh dưỡng.
Các xét nghiệm:
24
Khi điều kiện cho phép có thể tiến hành các xét nghiệm sau đây:
- Ferritin huyết thanh: Mức Ferritin trong huyết thanh phản ánh dự
trữ sắt trong cơ thể. Ơ người bình thường hàm lượng Ferritin huyết thanh là
70mcg/l ở nam và 35mcg/l ở nữ, khi dưới 12mcg/l coi là thiếu dự trữ sắt.
Định lượng Ferritin là xét nghiệm có giá trị nhất vì hàm lượng Ferritin thấp
phản ánh giai đoạn sớm của thiếu sắt và xét nghiệm này cũng đặc hiệu nhất
cho thiếu sắt của cơ thể.
- Mức bão hoà Transferrin: Hầu hết sắt trong huyết thanh đều gắn với
Protein gắn sắt là Transferrin. Khi dự trữ sắt đã cạn mà tiếp tục thiếu sắt thì tỷ
lệ Transferrin bão hoà với sắt giảm xuống từ 30% xuống thấp hơn 15%.
- Protoporphyrin trong hồng cầu: Do thiếu sắt, Protoporphyrin không
tham gia tạo Hem nên hàm lượng Protoporphyrin tự do của hồng cầu lên cao
hơn 70mcg/100ml.
Như vậy trong một quần thể dân cư có khả năng mắc bệnh thiếu máu
cao, định lượng Hemoglobin và Hematocrit là xét nghiệm nhạy nhất. Khi
bệnh này không nhiều lắm, định lượng Ferritin có giá trị gợi ý hơn. Các xét
nghiệm Transferrin và Protoporphyrin có giá trị hỗ trợ.
1.7. PHÒNG CHỐNG THIẾU MÁU
Có 4 hướng chính để phòng chống thiếu máu:
1.7.1. Bằng bổ sung viên sắt
Ưu điểm của phương pháp này là cải tạo nhanh tình trạng thiếu máu
của các đối tượng bị đe dọa, tuy vậy đòi hỏi một hệ thống phân bố và theo dõi
tốt. Trong điều kiện nguồn thuốc và cán bộ hạn chế nên dành ưu tiên các đối
tượng có tỷ lệ mắc bệnh cao như người mẹ có thai, trẻ em, học sinh và lao

động một số ngành nghề.
Các tác dụng của sắt là: khó chịu ở thượng vị, buồn, nôn, táo bón, ỉa
lỏng nên dùng viên sắt sau khi ăn thì dễ chịu hơn khi đói. Cần chú ý có thể
25
do tác dụng phụ này mà các đối tượng ngừng thuốc, phần lớn phụ nữ có thai
đều bị thiếu máu, vì vậy nên tổ chức uống đại trà cho đối tượng này. Đối với
những người không thiếu sắt, việc uống viên sắt không ra tác hại gì.
Bảng 1.4. Các loại viên sắt thường dùng[19]
Loại
Hợp chất sắt
(mg/viên)
Sắt nguyên tố
(mg/viên)
% sắt
Ferơ sunfat (7H
2
O) 300 60 20
Ferơ sunfat (anhydrit) 200 74 37
Ferơ sunfat (khô, 1H
2
O) 200 60 30
Ferơ gluconat 300 36 12
Ferơ fumarat 200 66 33
Liều dùng:
- Phụ nữ có thai: Nên cho uống 2 viên có 60mg sắt nguyên tố cộng
200mcg folat/ngày vào kỳ 2 của thời kỳ có thai, nghĩa là tổng liều khoảng 250
viên. Có thể ban đầu uống liều thấp hơn để mọi người dễ thực hiện. Tuy vậy
vấn đề chính vẫn là giải thích cho bà mẹ hiểu rằng họ thiếu sắt trong thời kỳ
có thai để tự nguyện uống đủ liều.
- Trẻ em trước tuổi đi học: Nên thành đợt ngắn 2-3 tuần, mỗi ngày

30mg sắt nguyên tố dạng viên (hoặc dạng nước) vài ba năm một lần.
- Học sinh: Thông thường, tỷ lệ thiếu máu ở lứa tuổi này thấp hơn
người mẹ có thai và trẻ em trước tuổi đi học. Nên cho theo đợt ngắn, liều
hằng ngày từ 30-60mg sắt nguyên tố tuỳ theo tuổi và trọng lượng.
Đối với trẻ em dưới 1 tuổi chủ yếu dựa vào sắt trong sữa mẹ và thức ăn
bổ sung hợp lý (có nhiều sắt và vitamin C).
1.7.2. Cải thiện chế độ ăn
Trước hết, chế độ ăn cần cung cấp đủ năng lượng và các thực phẩm
giàu sắt (thức ăn động vật, đậu đỗ). Đồng thời cần tăng cường khả năng hấp
thu sắt nhờ tăng vitamin C từ rau quả (ô dinh dưỡng, vườn rau gia đình). Tỷ lệ

×