Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

skkn đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.06 KB, 10 trang )










SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM
TRA ĐÁNH GIÁ

*****************
I. PHẦN MỞ ĐẦU

Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân
lực trong giai đoạn mới. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ
một nước công nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội nhập với
cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi cho công cuộc CNH,HĐH
và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn lực người Việt Nam được phát
triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao.
Việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông mà trước hết phải bắt đầu
từ mục tiêu đào tạo như là xác định những gì cần đạt được (đối với người
học) sau một quá trình đào tạo. Nói chung phẩm chất và năng lực được hình
thành trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng đủ và chắc chắn.
Do có sự thay đổi trong đối tượng giáo dục, cùng với xu thế hội nhập trên
thế giới hiện nay. Hoà chung với xu thế đổi mới tiến bộ trên thế giới trong
lĩnh vực chương trình, SGK cũng là một trong những yêu cầu cần thiết…


Căn cứ vào những yêu cầu vừa nêu để xem xét chương trình phổ thông
hiện hành thì rõ ràng là phải tổ chức, xây dựng lại chương trình, SGK mới
cho tất cả các cấp bậc học phổ thông ở nước ta. Sự thay đổi này mang tính
chất đồng bộ. Trong đó việc đổi mới phương pháp kiểm tra , đánh giá là hết
sức cần thiết…
Đánh giá là một khâu, một công cụ quan trọng không thể thiếu được
trong quá trình giáo dục; có chức năng, khả năng điều chỉnh quá trình dạy và
học, là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện , nâng
cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục
- Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về
trình độ khả năng thực hiện mục tiêu học tập của về tác động và
nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định
sư phạm của GV và nhà trường, cho bản thân HS để HS học tập ngày
một tiến bộ hơn. Phương tiện và hình thức quan trọng của đánh giá là
kiểm tra. Đổi mới PPDH được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu
mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh
theo hướng phát triển tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của HS,
khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào
những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của HS
trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng
đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học
tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Trong cách kiểm tra, đánh giá cũ, có những ưu điểm nhưng đồng thời
cũng có nhiều nhược điểm. Ví dụ như trường hợp các thầy, cô giáo trong quá
trình chuẩn bị kiến thức cho học sinh, khi tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả
thông qua các bài kiểm tra thường xuyên, định kì, bài thi,…chủ yếu dùng
câu hỏi tự luận. Loại câu hỏi này có nhiều ưu điểm như:
Việc thiết kế không quá khó khăn.
* Có thể kiểm tra được những năng lực nhận thức cấp cao:
vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá trong khi một vài

phương pháp kiểm tra khác không làm được.
* Kích thích và phát triển năng lực suy nghĩ và khả năng giải quyết
vấn đề cho học sinh. Tạo điều kiện cho học sinh kết hợp và áp dụng các
năng lực cấp cao đó vào quá trình giải quyết vấn đề.
* Tạo cơ hội cho học sinh áp dụng các ý tưởng sáng tạo vào việc giải
quyết vấn đề.
Nhưng đồng thời cũng có nhiều nhược điểm:
* Bài kiểm tra, bài thi chỉ đo được những kiến thức học sinh nhớ
trong sách giáo khoa, tài liệu, chưa quan tâm đến các kết quả học tập
quan trọng khác.
* Bài kiểm tra, thi chưa thể hiện được tất cả các kiến thức mà các em
đã được học trong nhà trường. Đánh giá chỉ dựa trên chỉ tiêu điểm số
của học sinh có thể làm lệch lạc mục tiêu đào tạo con người toàn diện.
* Học sinh không phải lo lắng về những kết quả học tập quan trọng
khác vì hnững kết quả này không được kiểm tra.
* Giáo viên chấm điểm không thống nhất và các giáo viên khác
nhau chấm điểm khác nhau.
* Trong nhiều trường hợp, học sinh phải làm quá nhiều bài kiểm tra
và các em ít có cơ hội học tập và phát triển toàn diện. Việc đánh giá
bằng điểm số này được thực hiện thường xuyên và công khai. HS
được hệ thống giáo dục và gia đình theo dõi liên tục cả ngày, không
có thời gian và không gian riêng tư.
* Học sinh chỉ học những gì sẽ kiểm tra, thi. Nếu các em biết chỉ
kiểm tra một lượng kiến thức nhất định thì các em sẽ không quan tâm
đến những nội dung khác mà chúng ta mong muốn các em học. HS
được đánh giá về năng lực học tập theo điểm so GV cho. Vì vậy
không thấy được tầm nhìn về hành vi tương lai. Điểm số chỉ là công
cụ để đánh giá mức thuộc bài, không đánh giá được tìm năng, năng
lực con người.
- Đánh giá có hai chức năng cơ bản la xác nhận và điều khiển. Xác nhận

đòi hỏi độ tin cậy , điều khiển đòi hỏi tính hiệu lực. Thực hiện tốt đồng thời
cả hai chức năng sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đánh giá chất
lượng giáo dục gồm nhiều vấn đề, trong đó hai vấn đề cơ bản nhất là đánh
giá chất lượng dạy của thầy và đánh giá chất lượng học của trò. Đánh giá
thực chất sẽ tạo được động lực nâng cao chất lượng dạy và học.

- Tham gia vào quá trình học tập, HS có mục đích chiếm lĩnh những tri
thức của môn học mà những tri thức này được mục tiêu của mỗi môn học
định ra và yêu cầu HS phải đạt được. Mức độ đạt được các tri thức đó so với
những yêu cầu tạo nên những giá trị của sản phẩm mà quá trình dạy học đạt
được. Mục tiêu môn học đặt ra các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ “
Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng, yêu cầu thái độ” thể hiện trong chương
trình giáo dục phổ thông và thể hiện cụ thể qua SGK. Trong quá trình dạy
học, GV phải đặt ra những kế hoạch để kiểm tra mức độ đạt được yêu cầu
so với mục tiêu đề ra. Kiểm tra xem HS đạt được những yêu cầu về các mặt
ở mức độ nào, so với mục tiêu môn học đề ra hoàn thành được đến đâu.
- Hoạt động dạy và học luôn cần có những thông tin phản hồi để điều
chỉnh kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở mức độ cao nhất thể hiện ở chất lượng
học tập của HS. Dạy học căn cứ kết quả đầu ra cần thông tin phản hồi đa
dạng. Về phương diện này chất lượng học tập được xem như chất lượng của
một sản phẩm đang trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Sự điều chỉnh
bổ sung những kiến thức, kĩ năng thái độ còn chưa hoàn thiện giúp cho chất
lượng học tập trở thành những tri thức bền vững cho mỗi HS. Việc kiểm tra
chất lượng học tập sẽ giúp cho các nhà quản lí giáo dục, các GV và bản thân
HS có những thông tin xác thực, tin cậy để có những tác động kịp thời nhằm
điều chỉnh và bổ sung để hoàn thiện sản phẩm trong quá trình dạy học.
- Đổi mới phương pháp dạy học là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới
đánh giá kết quả dạy học. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo
hướng pháp huy tính tích cực, chủ động
II. NỘI DUNG:

1. Các hình thức kiểm tra, đánh giá định kì:
Hình thức ra đề kiểm tra:
Việc thu thập thông tin về kết quả học tập của HS thông qua các bài kiểm tra định
kì ( 1 tiết, trên 1 tiết) được tiến hành thường thông qua dưới hình thức viết mà
dụng cụ đánh giá có thể là :
* Trắc nghiệm tự luận
* Trắc nghiệm khách quan
* Phối hợp TNKQ và tự luận.
- Đối với lớp 10 và lớp 11 thường được kiểm tra dưới dạng phối hợp TNKQ và tự
luận.
- Đối với lớp 12 thường được kiểm tra dưới dạng TNKQ
1.2- Qui trình xây dựng đề kiểm tra:
Thiết kế đề kiểm tra để đánh giá HS, theo định hướng đổi mới đánh giá, thông
thường được thực hiện theo qui trình sau:
a) Xác định mục đích, yêu cầu của đề kiểm tra
Đề kiểm tra là phương tiện chủ yếu đánh giá kết quả học tập của HS sau khi học
xong một nội dung, một chủ đề, một chương, một học kì hay toàn bộ chương trình
một lớp học,…
b) Xác định mục tiêu dạy học
Xác định đầy đủ, chi tiết các mục tiêu giảng dạy thể hiện ở năng lực hành vi hay
năng lực cần phát triển ở HS như là kết quả của việc dạy học ( xác định rõ chuẩn
kiến thức, kĩ năng và yêu cầu thái độ trong chương trình môn học, cấp học của
chương trình giáo dục phổ thông)
c) Thiết lập một ma trận hai chiều
+ Thiết lập một ma trận hai chiều, một chiều thông thường là nội dung hay mạch
kiến thức cần đánh giá, một chiều là các mức độ nhận thức của HS. Thông thường
ở ba mức độ :
- Mức độ nhận biết (B): Đây là yêu cầu nắm kiến thức và kĩ năng ở trình
độ thấp, HS chỉ cần nhớ và nhận ra.
- Mức độ thông hiểu (H): ): Đây là yêu cầu nắm kiến thức và kĩ năng ở

trình độ cao hơn, HS phải giải thích, so sánh, minh hoạ, tìm ví dụ…
- Mức độ vận dụng (V): ): Đây là yêu cầu nắm kiến thức và kĩ năng ở trình
độ ở trình độ cao nhất, HS phải vận dụng kiến thức và kĩ năng vào những
tình huống mới.
+ Khi thiết kế ma trận đề kiểm tra, cần thiết kế theo các bước sau:
- Xác định số lượng câu hỏi, bài tập sẽ đưa ra trong đề kiểm tra.
- Xác định số lượng câu hỏi, bài tập của mỗi loại hình đưa vào đề kiểm
tra: câu hỏi tự luận, câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Xu hướng hiện nay
trong việc kiểm tra là sử dụng “ câu nhiều lựa chọn” với bốn phương án
lựa chọn.
+ Hình thành ma trận: Hàng dọc của ma trận ghi lĩnh vực kiến thức cần kiểm tra,
hàng ngang ghi trình độ yêu cầu kiểm tra, trong các ô ghi số lượng các câu.
d) Thiết kế câu hỏi, bài tập theo ma trận.
e) Thiết kế đáp án, biểu điểm.
1.3- Cấu trúc đề kiểm tra:
Khi đã xác định xong các nhóm mục tiêu của bài kiểm tra, công việc kế tiếp là xây
dựng một bảng hai chiều về cấu trúc bài kiểm tra. Bảng cấu trúc này kết hợp hai
nhóm mục tiêu lại với nhau đồng thời cũng xác định “ trọng lượng” của từng “
vùng” trong cấu trúc bài kiểm tra. “ Trọng lượng” xác định tỷ lệ câu hỏi sẽ được
viết cho vùng đó.
Ví dụ: Đối với một đề kiểm tra một tiết Vật lí 10,11 tỉ lệ sau đây có thể chấp
nhận được:
* Từ 10 đến 20 câu TNKQ.
* Từ 2 đến 3 câu TNTL.
Đối với một đề kiểm tra một tiết Vật lí 12 cho 100% là TNKQ thì khoảng 28
câu là vừa
- Thiết lập ma trận với đầy đủ số liệu, thông tin đã định.
2. Biện pháp tổ chức kiểm tra, đánh giá:
Phương pháp TNKQ có thể tiến hành với một lượng thí sinh lớn ( toàn khối,
toàn trường,…). Để triển khai kì kiểm tra với qui mô lớn cần phải chuẩn bị hết sức

cẩn thận về đề kiểm tra, các bước tiến hành, cách thức chấm điểm, công bố kết
quả,…Kì kiểm tra được chuẩn bị công phu, theo một qui trình chặt chẽ:
2.1- Tổ chức kiểm tra:
a) Họp tổ xác định lĩnh vực cần trắc nghiệm,thống nhất ma trận hai chiều.
- Tiến hành viết trắc nghiệm: Tổ trưởng phân công cho từng cá nhân tập trung,
đầu tư viết trắc nghiệm , các câu trắc nghiệm cần tuân thủ những yêu cầu về nội
dung cũng như kĩ thuật viết trắc nghiệm . Sau khi viết xong sẽ được trao đổi, sửa
chữa và góp ý thống nhất ở tổ. Sau đó, đưa vào ngân hàng câu trắc nghiệm được
quản lí bằng ngân hàng câu trắc nghiệm và lưu trong máy tính.
- Căn cứ vào bảng đặc trưng. Chọn ngẫu nhiên các câu hỏi đưa vào đề thi từ ngân
hàng câu trắc nghiệm bằng sử dụng phần mềm tin học có thể tạo ra các đề thi
tương đương có cùng nội dung nhưng khác nhau về hình thức bằng cách đảo thứ
tự các câu hỏi và các phương án trả lời
- Tổ chức thi: đề kiểm tra và phiếu trả lời được in và nhân bản theo số lượng thí
sinh của các lớp
- Chọn thời điểm thích hợp để tổ chức gần như hàng loạt cho các lớp. Thu phiếu
làm bài của học sinh để chấm.
b) Chấm và phân tích kết quả thi:
- GV soạn ra các bài kiểm tra theo từng loại, chấm bài theo đáp án của từng loại.
Khi chấm, GV có đánh dấu các đáp án đúng trong phiếu trả lời của HS.
- Khi chấm xong, GV vào điểm và thống kê, phân tích tỉ mỉ về chất lượng các câu
trắc nghiệm cũng như các yếu tố có liên quan đến bài làm của thí sinh
c) Trả bài kiểm tra: Đây là bước cuối cùng của kì kiểm tra. Khi trả bài kiểm tra
cho HS, GV yêu cầu HS về xem lại bài kiểm tra của mình, so sánh với đáp án mà
GV đã sửa,HS rút kinh nghiệm.
3. Tổ chức thực nghiệm:
Được tiến hành ở khối lớp 12, bài kiểm tra định kỳ lần 1 học kỳ II

Loạ
i



Lớp
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
KT
HKI
KT
ĐK
KT
HKI
KT
ĐK
KT
HKI
KT
ĐK
KT
HKI
KT
ĐK
KT
HKI
KT
ĐK
12

H
46,5
%
62,8

%
32,5
%
18,6
%
16,5
%
16,3
%
4,7% 2,3% 0% 0%
12 I 19,0
%
28,6
%
33,3
%
23,8
%
40,5
%
40,5
%
4,8% 7,1% 2,4
%
0%
12
M
7,0% 4,7% 18,6
%
16,3

%
41,9
%
53,4
%
25,5
%
16,3
%
7,0
%
9,3
%

(KT HKI:điểm kiểm tra học kỳ I, KT ĐK: điểm kiểm tra định kỳ lần I, học kỳ II )
Việc tổ chức hình thức kiểm tra trắc nghiệm,và biện pháp tổ chức kiểm
tra như đã nêu trên dã thực sự bảo đảm tính khách quan.
+ Tỉ lệ trả lời sai từng câu trong đề kiểm tra định kỳ lần 1 học kỳII ( Đề
kiểm tra có kèm theo) của cả khối lớp 12

Câu
01
53,9%

Câu
07
46,9% Câu
13
46,9% Câu
19

45,2% Câu
25
45,2%
Câu
02
42,6% Câu
08
46,9% Câu
14
45,2% Câu
20
42,6% Câu
26
53,9%
Câu
03
59,6% Câu
09
50,4% Câu
15
48,6% Câu
21
52,1% Câu
27
52,1%
Câu
04
48,7% Câu
10
60,0% Câu

16
54,8% Câu
22
43,5% Câu
28
54,7%
Câu
05
55,6% Câu
11
33,9% Câu
17
46,9% Câu
23
48,7% Câu
29
46,1%
Câu
06
53,9% Câu
12
62,6% Câu
18
47,8% Câu
24
40,8% Câu
30
51,3%

Nhận xét: Qua bảng thống kể trên:tỉ lệ sai ở các câu 03, câu 10, câu 12 cao

có thể rút ra một số kết luận sau:
- Đối với câu 03: học sinh khi làm bài tập quang hình học chưa thật sự
lưu ý đến tính chất của ảnh
- Đối với câu 10: học sinh chưa lưu ý đến việc sử dụng từ ngữ" tia tới đi
qua – tia tới có đường kéo dài đi qua"
- Đối với câu 12: học sinh chưa lưu ý đến từ ngữ "góc khúc xạ tỉ lệ
thuận góc tới"
Lớp

Câu
12 H

%
12 I

%
12 M

%
Lớp

Câu
12 H

%
12 I

%
12 M


%
1 18,2 27,3 44,4 16 54,5 36,4 95,0
2 36,4 27,3 44,4 17 27,3 45,5 44,4
3 27,3 63,6 66,7 18 0,0 9,1 44,4
4 27,3 54,5 33,3 19 72,7 63,6 33,3
5 54,4 54,5 88,9 20 9,1 45,5 22,2
6 0,0 18,2 55,6 21 18,2 18,2 33,3
7 18,2 9,1 66,7 22 9,1 9,1 44,4
8 54,5 9,1 22,2 23 18,2 27,3 44,4
9 18,2 18,2 55,6 24 9,1 9,1 22,2
10 45,5 45,5 66,7 25 9,1 45,5 66,7
11 9,1 27,3 33,3 26 36,4 54,5 55,6
12 63,6 90,9 66,7 27 27,3 27,3 55,6
13 0,0 18,2 44,4 28 27,3 27,3 33,3
14 0,0 0,0 33,3 29 27,3 45,5 55,6
15 9,1 27,3 44,4 30 36,4 27,3 55,6

* Từ bảng thống kê trên ta có những kết luận sau
- Đối với lớp 12 H:
+ Tỉ lệ sai ở các câu vận dụng rất thấp
+ Tỉ lệ sai ở các câu 5, 8, 12, 16, 19 tương đối cao, chứng tỏ học sinh
ở lớp này chưa nắm lý thuyết
- Đối với lớp 12 I:
+ Tỉ lệ sai ở các câu vận dụng rất thấp, riêng câu 3 tỉ lệ sai tương đối
cao, điều đó chứng tỏ học sinh chưa lưu ý đến tính chất của ảnh khi giải bài tập
+ Tỉ lệ sai ở các câu 5, 12, 19, 26 tương đối cao, chứng tỏ học sinh
chưa nắm vững lý thuyết, nhất là lý thuyết về mắt và các tật của mắt
- Đối với lớp 12 M:
+ Tỉ lệ sai ở các câu vận dụng câu 3, 7, 16, 25 cao, chứng tỏ khả năng
vận dụng của học sinh còn tương đối yếu, nhất là các phần mắt và các tật của mắt,

hiện tượng phản xạ toàn phần, chưa lưu ý đến tính chất của ảnh, đặc biệt hầu như
cả lớp chưa làm được bài tập về lăng kính (Câu 16 tỉ lệ sai 95%)

III. KẾT LUẬN:
1. Những bài học kinh nghiệm:
Trên đây là những quan điểm về vấn đề kiểm tra, đánh giá mà trường chúng
ta đang theo đuổi và thực hiện. Tuy nhiên, việc kiểm tra, đánh giá là một hoạt động
giáo dục có nhiều quan điểm khác nhau. Đó là tình hình chung của của các nền
giáo dục của tất cả các nước. Khó có thể tìm sự giống nhau hoàn toìan về quan
điểm và cách tổ chức kiểm tra, đánh giá ở các nền giáo dục khác nhau. Sau đây là
những bài học kinh nghiệm.
1. Ta đã nói giáo dục có 3 chức năng: chức năng kiểm tra, chức năng dạy
học và chức năng điều kiển.
Cần nhấn mạnh chức năng dạy học cũng là một chức năng không kém phần
quan trọng so với chức năng kiểm tra. Nhưng trong thực tế, ở nơi nào cũng có tình
hình là chức năng dạy học thường bị coi nhẹ hơn chức năng kiểm tra. Thầy giáo ra
bài kiểm tra cho học sinh, chấm bài và trả bài xong là coi như công việc đã hoàn
thành. Rất ít khi và rất ít thầy giáo qua các bài kiểm tra tự đánh giá tính hiệu quả
của các phương pháp sư phạm mình đã sử dụng.
Chức năng điều khiển là một chức năng có vai trò đặc biệt. “Thi thế nào học
thế ấy”, câu nói đó khuôn vào trong phạm vi nhà trường chỉ có mối quan hệ thầy
và trò. Nói vậy vì trong phạm vi một địa phương hay quốc gia thì chức năng này sẽ
dẫn đến là “thi thế nào, thầy dạy thế ấy thì trò thế ấy và cả phụ huynh học sinh
cũng hướng cho con em mình học thế ấy”. Rõ ràng chức năng điều khiển ở đây có
vai trò như một quy luật. Đó là vấn đề rất lớn của người quản lý giáo dục ở tất cả
các cấp.
Vấn đề này có tác giả đã viết đại ý rằng: một bài kiểm tra có tác dụng như
một tuyên ngôn của người kiểm tra về mục học tập, về cái đích mà người bị kiểm
tra phải đạt được, đó là một tuyên ngôn dứt khoát, đanh thép.
2. Những điều vừa trình bày trên đây đã hé mở ra một điều là hoạt động

kiểm tra, đánh giá trong nhà trường có vai trò rất to lớn. Nó có thể có tác dụng gây
sự hưng phấn trong học sinh, kích thích học sinh học tập tốt hơn nhưng nó cũng có
thể gây sự thiếu tự tin dẫn đến tinh thần chán nản trong học tập. Điều đó phụ thuộc
vào chất lượng các bài kiểm tra.
Một bài kiểm tra được gọi là có chất lượng tốt nếu sau khi kiểm tra nó bắt
buộc học sinh phải suy nghĩ và tự rút ra kết luận mang tính tích cực. Chẳng hạn
như học sinh cho rằng đó là bài kiểm tra không quá sức và nếu cố gắng hơn, cẩn
thận hơn thì chắc là đạt kết quả tốt hơn.
Để có bài kiểm tra đạt chất lượng tốt, người kiểm tra phải chuẩn bị đề kiểm
tra một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Đề kiểm tra cũng phải đủ sáng sủa để người được
kiểm tra hiểu đúng nội dung của vấn đề mà đề bài yêu cầu. Đề kiểm tra còn phải
bao hàm một nội dung để có thể phân loại trình độ của người được kiểm tra.
3. Từ phần trên ta đã biết có rất nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá, tất cả các
hình thức đó nhà trường đều đã sử dụng hoặc ít, hoặc nhiều.
Ơ đây chỉ giới thiệu hai hình thức kiểm tra mà nhà trường chúng ta còn ít sử
dụng. Đó là hình thức kiểm tra trả lời ngắn gọn và hình thức kiểm tra trả lời dài.
Hình thức kiểm tra trả lời ngắn gọn theo E.M.Roger cho rằng có nhiều ưu
điểm. Hình thức này không đòi hỏi nhiều thời gian cho việc làm bài kiểm tra
nhưng nó vẫn dnàh một độ tự do nhất định để học sinh diễn tả ý kiến của mình,
trong khi đó hình thức trắc nghiệm không cho học sinh một cơ hội nào để diễn tả ý
kiến của mình. Đặc biệt, với hình thức trả lời ngắn các câu hỏi bao giờ cũng biểu
ehiện rõ điều mà thầy giáo muốn yêu cầu học sinh. Nếu các câu hỏi được sắp xếp
theo thứ tự cho độ khó tăng dần thì sẽ tạo thành một đề bài kiểm tra có thể phân
biệt được trình độ học sinh.
Hình thức kiểm tra trả lời dài có ưu điểm là học sinh có thể hoàn toàn tự do
trong việc diễn đạt ý kiến của mình. Đây là hình thức nhà trường ta vẫn quen dùng
từ trước đến nay dưới dạng câu hỏi và bài tập. Tuy nhiên điều ở đây muốn nói là
các câu hỏi và bài tập mà nhà trường sử dụng hầu hết chỉ yêu cầu tái hiện những
điều đã học, những điều đã có trong sách giáo khoa, những bài tập yêu cầu học
sinh mức độ vận dụng và phân tích thì cũng không vượt ra ngoài sách giáo khoa,

không có những bài yêu cầu học sinh hệ thống hoá hay phê phán theo nhận định
riêng của mình.

2. Kiến nghị, đề xuất:
- Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi khâu in ấn đề (máy in), giấy photo
- Tổ chức kiểm tra đồng loạt để đãm bảo tính khách quan và nghiêm túc.
- Khâu chấm bài cũng phải nghiêm túc khách quan như: rọc phách, lên
điểm…
- Sau mỗi lần kiễm tra phải có đánh giá, rút kinh ngihệm ở tổ chuyên môn
về những sai, sót của đề để điều chỉnh cho lần sau tốt hơn…



Giá Rai, ngày 22 tháng 10 năm 2008




LÝ MINH HÙNG



×