Đề tài: Tại sao nói phương pháp hành chính - luật pháp là phương pháp chủ đạo trong công tác
quản lý? Anh (Chị) đã vận dụng phương pháp đó như thế nào trong công tác quản lý.
A Đặt vấn đề:
Phương pháp quản lý có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Trong hoàn cảnh cụ thể,
phương pháp quản lý có tác dụng quan trọng đến sự thành công hay thất bại của các nhiệm vụ, mục tiêu
quản lý. Quá trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc, qui
trình đã quy định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp
nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của hoạt động quản lý.
Mục tiêu, nhiệm vụ quản lý được thực hiện thông qua tác động của các phương pháp quản lý. Vai trò của
phương pháp quản lý còn ở chỗ nó nhằm khơi dậy những động lực, kích thích tính năng động, sáng tạo
của người lao động và tiềm năng của hệ thống cũng như cơ hội có lợi ở bên ngoài.
Phương pháp quản lý là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với đối tượng và
khách thể quản lý. Đó là mối quan hệ rất sinh động với tất cả sự phức tạp của đời sống giữa những con
người cụ thể. Vì vậy các phương pháp quản lý mang tính chất đa dạng và phong phú, nó là bộ phận năng
động nhất của hệ thống quản lý. Phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ
thể tuỳ thuộc vào đặc điểm từng đối tượng, cũng như năng lực và kinh nghiệm của người quản lý.
Tác động của phương pháp quản lý luôn luôn là tác động có mục đích. Vì vậy, mục tiêu quản lý
quyết định việc lựa chọn phương pháp quản lý. Trong quá trình quản lý phải luôn luôn điều chỉnh các
phương pháp quản lý, nhưng không được chủ quan tuỳ tiện muốn sử dụng phương pháp nào cũng được.
Bởi vì, mỗi phương pháp quản lý khi sử dụng lại tạo ra một cơ chế tác động mang tính khách quan vốn
có của nó. Bên cạnh các yếu tố tích cực, phù hợp với mục tiêu dự đoán của chủ thể, cũng có thể xuất hiện
một số hiện tượng nằm ngoài dự đoán ban đầu , thậm chí trái ngược với mục tiêu đặt ra. Do đó, đòi
hỏi chủ thể quản lý phải tỉnh táo, sâu sát thực tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu
cực khi chúng xuất hiện. Trong quản lý chúng ta có rất nhiều phương pháp, nhưng chủ yếu là các phương
pháp: Giáo dục chính trị - tư tưởng, tâm lý - xã hội, hành chính - luật pháp, tổ chức - điều khiển và kinh
tế. Vậy tại sao nói phương pháp hành chính - luật pháp là phương pháp chủ đạo trong công tác quản lý?
Phương pháp đó như thế nào? Để tìm hiêu sâu hơn ta hãy phân tích phương pháp quản lý này và từ đó
vận dụng như thế nào trong công tác quản lý.
B. Phân tích:
Để phân tích phương pháp hành chính - luật pháp là phương pháp chủ đạo thì đầu tiên ta phải hiểu thế
nào là phương pháp hành chính-luật pháp.
a. Khái niệm: Phương pháp hành chính – luật pháp là cách thức tác động trực tiếp của cơ quan quản lý
cấp trên (hoặc các nhà chức trách) lên đối tượng và khách thể quản lý bằng các mệnh lệnh, các quyết
định dứt khoát mang tính bắt buộc nhằm đạt mục tiêu đề ra trong những tình huống quản lý nhất định.
Đặc điểm của phương pháp hành chính – luật pháp là tính bắt buộc và tính quyền lực.
Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định, các chỉ thị
của chủ thể quản lý, nếu vi phạm sẽ bị xữ lý kỷ luật kịp thời và thích đáng. Tính quyền lực đòi hỏi cấp
trên chỉ đưa ra các tác động hành chính – luật pháp đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình
V.I Lênin nói: “Nhà nước là lĩnh vực thực hành cưỡng bức. Chỉ điên rồ mới từ bỏ cưởng bức, nhất là
trong thời đại chuyên chính vô sản”
Vai trò của phương pháp này trong quản lý rất to lớn. Nó xác lập trật tự, kỷ cương làm việc trong
hệ thống, khâu nối các phương pháp thành một hệ thống, dấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn
đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
Các phương pháp hành chính – luật pháp tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng: tác
động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý.
Theo hướng tác động này, chủ thể quản lý ban hành các văn bản quy định về quy mô, cơ cấu,
điều lệ hoạt động, các tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định các mối quan hệ hoạt động trong nội
bộ.
Theo hướng điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý, chủ thể quản lý đưa ra những chỉ thị,
mệnh lệnh hành chính – luật pháp bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ nhất định, hoặc theo
những phương hướng nhất định nhằm đảm bảo cho các bộ phận trong hệ thống hoạt động ăn khớp và
đúng hướng, uốn nắn kịp thời những lệch lạc, rũi ro có thể xãy ra.
Phương pháp hành chính – luật pháp đòi hỏi chủ thể quản lý phải có quyết định dứt khoát, rõ
ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả năng có sự giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ
được giao.
Tác động hành chính – luật pháp có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định, vì vậy phương
pháp này hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào những tình trạng khó khăn,
phức tạp.
Đối với những quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn,
chỉ người có thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi quyết định.
b.Nội dung của phương pháp hành chính – luật pháp:
• Cơ chế điều tiết bằng luật pháp các quan hệ kinh tế - xã hội:
Cơ chế này bao gồm hai yếu tố chủ yếu: quyết định ra các quy phạm pháp luật và sử dụng các quy
phạm đó để điều tiết các quan hệ.
Quy phạm luật pháp là các quy tắc được nhà nước quy định cho hành vi của mọi công dân, của
các tập thể, đơn vị, cơ quan. Quy phạm có các đặc trưng sau:
- Do nhà nước định ra.
- Có hiệu lực bắt buộc thi hành.
- Quy định cụ thể quyền hạn và nghĩa vụ của đối tượng.
- Được đảm bảo thực hiên bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ở nước ta, các quy phạm luật pháp được phản ánh qua các văn bản pháp luật. Có hai loại văn bản
pháp luật: văn bản luật và văn bản dưới luật (pháp quy).
* Các văn bản luật do Quốc hội, cơ quan quyền lức cao nhất ban hành có hiệu lực cao nhất, gồm có:
- Hiến pháp: là đạo luật cơ bản của nhà nước. Các quy định của hiến pháp là nguồn, là căn cứ cho tất
cả các ngành luật khác.
- Luật: là văn bản pháp luật có giá trị sau hiến pháp, được ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định
của hiến pháp.
Thí dụ: Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý của nhà nước
trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Luật dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ, quan hệ nhân thân phi tài sản như: danh dự, quyền
phát minh, sáng chế, quyền tác giả...
• Các văn bản dưới luật bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý thấp hơn luật.
Thí dụ: Pháp lệnh Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những căn cứ pháp lý để các ngành, các cấp tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong thực tiển quản lý.
- Lệnh: quyết định của Chủ tịch nước là cơ sở pháp lý để Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban
hành các văn bản quản lý của mình.
- Nghị quyết của Chính phủ ban hành các chủ trương chính sách lớn, các chính sách cụ thể, thông qua
dự án kế hoạch về ngân sách nhà nước trước khi trình Quốc hội, phê duyệt điều ước quốc tế nhân
danh Chính phủ và những công tác quan trọng khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
- Nghị định của Chính phủ: quy định cụ thể việc thi hành luật, pháp lệnh, ban hành các chế độ, thể lệ
cụ thể.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định các chính sách cụ thế, các chế độ bố nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, ký luật công chức, viên chức, phê chuẩn các kế hoạch. Phê chuẩn hoặc bãi bỏ
các văn bản sai trái cấp dưới.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ truyền đạt những chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý chỉ
đạo về tổ chức và hoạt động đối với các ngành, các cấp.
Cấp Bộ:
- Quyết định: Ban hành các chế độ, thể lệ thuộc lĩnh vực công tác của ngành, quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy thuộc quyền, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, phê duyệt
các phương án kinh tế-xã hội trong ngành.
- Chỉ thị: Nhằm truyền đạt các chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý, kiện toàn tổ chức…
trong nội bộ ngành.
- Thông tư: Hướng dẫn, giải thích hoặc đề ra các biện pháp thi hành chủ trương, chính sách, chế
độ, kế hoạch công tác.
Thông tư liên bộ do hai hay nhiều cơ quan phối hợp ban hành cùng để hướng dẫn thi hành văn
bản mà họ cùng có trách nhiệm thi hành chung.
Văn bản của chính quyền các cấp ở địa phương bao gồm:
- Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp: ban hành các biện pháp bảo đảm thi hành luật pháp,
chuẩn y kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách, chuẩn y kế hoạch an ninh, quốc phòng,
các biện pháp ổn định nâng cao đời sống địa phương.
- Quyết định của UBND: ban hành các biện pháp thực hiên luật, nghị quyết của HĐND cùng cấp
tổ chức, giải thể các đơn vị thuộc UBND…
- Chỉ thị của UBND: truyền đạt, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các luật, nghi quyết và quyết định
của cấp trên và của cấp mình.
• Chế độ pháp lý về trách nhiệm trong quản lý.
Trong hoạt động kinh tế - xã hội, chủ thể quản lý có rất nhiều mối quan hệ pháp luật với nhau. Giữa
các đơn vị thường thông qua hình thức hợp đồng để tiến hành hoạt động lao động. Nếu bên nào vi
phạm các điều khoản của hợp đồng thì phải bồi thường và bị phạt theo chế độ pháp luật về hợp đồng.
Cùng với nghĩa vụ hợp đồng còn các quy định các loại nghĩa vụ khác của cơ quan quản lý cấp trên,
của các cơ quan chức năng: tài chính, ngân hàng, vật tư…
Trong các loại nghĩa vụ trên cần nghiêm chỉnh thi hành chế độ trách nhiệm cá nhân, đặc biệt cần
chú ý đến chế độ trách nhiệm vật chất.
• Cơ chế điều khiển hành chính - luật pháp trong quản lý.
Trong thực tế hoạt đông xã hội xuất hiện các bối cảnh và tình huống rất đa dạng, chỉ riêng các hệ
thống quy phạm luật pháp thì chưa đủ, cần phải có cơ chế điều hành hành chính phù hợp, linh hoạt và
nhạy bén để giải quyết mọi vấn đề lớn nhỏ nãy sinh. Nó là tiến trình đưa vào ứng dụng các quy phạm
luật pháp.
Việc điều chỉnh hành chính - luật pháp được thực hiện dưới nhiều hình thức, thông qua việc
hướng đẫn, đôn đốc và kiểm tra thực thi các chỉ tiêu kế hoạch, các quyết định, chỉ thị, điều lệ và các
văn bản hành chính, luật pháp khác. Trên thực tế, nhiều cơ quan, nhiều cá nhân lãnh đạo quan liêu,
duy ý chí, lạm dụng quyền hành đưa ra các mệnh lệnh, quyết định, chỉ thị thiếu cơ sở khoa học và
thực tế hoặc không dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình.
c. Sử dụng các phương pháp hành chinh-luật pháp đòi hỏi các cấp quản lý phải tuân thủ các yêu cầu
sau đây:
Một là, quyết định hành chính - luật pháp chỉ có hiệu quả cao khi nó có căn cứ khoa học, được
luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế xã hội.
Khi đưa ra một quyết định phải cân nhắc, tính toán hợp lý các loại lợi ích: kinh tế, chính trị, văn
hoá, giáo dục, xã hội, ngoài ra còn phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Chủ
thể quản lý chỉ ra quyết định trên cơ sở có đầy đủ thông tin cần thiết. Tập hợp đủ thông tin, tính toán
đầy đủ đến các lợi ích, các khía cạnh có liên quan, đảm bảo cho quyết định hành chính - luật pháp có
căn cứ khoa học.
Người cán bộ quản lý giỏi, có nhiều kinh nghiệm không chỉ ra quyết định khi có đủ thông tin mà
còn dự báo được những nét phát triển chính, những mặt tích cực cũng như các mặt tiêu cực có thể
diễn ra khi quyết định được thi hành. Từ đó sẵn sang bổ sung các biện pháp, phát huy mặt tích cực và
hạn chế, ngăn chặn mặt tiêu cực nếu có.
Hai là, khi sử dụng phương pháp hành chính-pháp luật phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm
của người ra quyết định. Mỗi đơn vị, mỗi cán bộ quản lý tùy quyền hạn của mình, phải có trách
nhiệm sử dụng các quyền hạn đó. Ở cấp càng cao, phạm vi tác động của pháp luật càng rộng, nếu sai
thì tổn thất càng lớn. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm đầy đủ về quyết định của mình.
Do vậy, phải đảm bảo gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng
không dám chịu trách nhiệm, cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không dám ra quyết
định, mệnh lệnh.
Tóm lại các phương pháp hành chính luật pháp rất cần thiết cho quá trình quản lý, không có nó
thì không thể quản lý có hiệu quả.
C. Vận dụng:
Để vận dụng tốt phương pháp trên vào thực tiễn công việc, trước tiên đòi hỏi cán bộ điều hành,
quản lý nói chung là cấp lãnh đạo phải nắm rỏ các nguyên tắc, qui trình của phương pháp, đào tạo kỹ
năng cho cán bộ chuyên trách sao cho có một đội ngũ đồng đều về kiến thức và nhận thức đúng đắn
về qui mô và phạm vi áp dụng trên.
Bên cạnh đó, cán bộ lãnh đạo phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nhằm điều chỉnh kịp
thời cũng như nắm bắt được sâu sát vấn đề trước khi đưa ra các quyết định. Vì đặc điểm của phương
pháp này mang tính bắt buộc và quyền lực nên ngoài việc dứt khoát, quyết đoán, rỏ ràng, cụ thể, đòi
hỏi quyết định phải có tính chính xác cao để tạo được niềm tin và sự đồng thuận của tập thể.
Ngoài ra, cần phải phân quyền quản lý nhằm giúp việc thực thi công việc cũng như rà soát tính
hiệu quả được chi tiết, cụ thể hơn. Việc phân quyền quản lý sẽ giúp phương pháp này đi sâu vào từng
vùng, từng huyện thị, từng bộ phận, từng phòng ban và chúng ta có thể đánh giá quá trình thực hiện
các mệnh lệnh cũng như sự phản hồi thực tế khách quan sau qua trình triển khai.
Trần Quốc Bảo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC