Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Lợi ích và thành phần dinh dưỡng quả sầu riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 40 trang )

GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
I – TỔNG QUAN VỀ SẦU RIÊNG:
I.1.Giới thiệu:
Sầu riêng là một cây ăn quả nhiệt đới khá
đặc biệt, có thể gọi là đặc sản về 2 phương
diện: một là đòi hỏi những điều kiện nóng và
ẩm khá chặt chẽ, một kiểu khí hậu rừng mà
ngay cả ở các vùng nhiệt đới nóng không
phải là đâu cũng có thể trồng được; hai là về
mặt chất lượng, người đã ăn quen thì cho là
“tuyệt vời”, còn những người chưa quen thì
không chòu được mùi thơm quá mạnh của nó,
đến độ ở các nơi công cộng nhiều nơi cấm
không cho mang sầu riêng vào.
Hình 1: Cây sầu riêng
Cũng như hương vò của nó, thành phần dinh dưỡng cho thấy sầu riêng là một loại
quả đặc biệt, giá trò calo, tỷ lệ cacbohydrat, protein, lipid, chất khoáng đều rất cao so
với các quả khác tuy hàm lượng vitamin chỉ trung bình. Điều này cắt nghóa phần nào
nhận xét chung là về vò sầu riêng được đánh giá là “siêu đẳng” duy chỉ có hương quá
mạnh, người không quen khó chầp nhận.
Chính vì lẽ đó người dân vùng Đông Nam A Ùgọi sầu riêng là “hoàng đế của các
loại quả”. Họ coi đó như là một “tiên phẩm trần gian”.
Tidbury viết như sau :”chắc chắn một khi người ta đã ngửi mùi sầu riêng thì không bao
giờ quên nữa và không có người trung thực nào có thể cho là mình đã biết rõ nghề
trồng cây ăn quả ở các vùng nhiệt đới ẩm nếu người đó chưa nếm sầu riêng”. Rutxen
Oalaxo trong cuốn “Bán đảo Malaysia năm 1869” có lẽ là người đã mô tả hương vò sầu
riêng 1 cách thú vò nhất "Cấu tạo và hương vò mùi sầu riêng thật khó tả, đó là 1 vò
trứng, bơ, sữa, gia vò thêm bằng hạt hạnh đào và lẫn trong đó thoang thoảng có vò kem


phomat, sốt hành xơri lên men, mặc dù vậy nó vẫn hoàn mỹ và càng ăn người ta càng
không muốn dừng lại. Thực sự sầu riêng là 1 cảm giác mới lạ, đáng cho người ta tiến
hành 1 cuộc viễn du sang phương Đông”.
Sầu riêng có:
+ Tên tiếng Anh : DURIAN
+ Tên tiếng Pháp : THURIAN
+ Tên khoa học là Durio zibethinus, thuộc họ bombacaceae. Họï này bao gồm
cây bao táp của vùng châu Phi (Adansonia digitata), cây hạt dẻ (Pachira aquataca), cây
bombax (Bombax ellipticum), cây vải sồi tơ (Chorisia speciosa) và cây gỗ nhẹ
(Ochroma pyramidale)]
1
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Phân loại khoa học:
Tên chi Durio (chi sầu riêng) có nguồn gốc từ ngữ hệ Nam Á: người Việt gọi là
sầu riêng, người Khmer gọi là turen và người Malaysia - Nam Dương gọi là Djoerian
(về sau viết là Doerian). Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới gọi sầu riêng là
Durian hoặc có ký ngữ khác nhưng phát âm tương tự như chữ Durian.Tuy nhiên, trong
chi Durio chỉ có một loài là Durio zibethinus là phổ biến nhất.
I.2. Nguồn gốc- Phân bố:
Sầu riêng có nguồn gốc ở Đông Nam Á và mọc dại trong rừng Malaysia: Sumatra
và Kalimantan. Chi durio gồm nhiều loài, không ít loài có cùi quanh hạt ăn được nhưng
loài sầu riêng trồng hiện nay cùi dày và hương vò tốt thì không tìm thấy trong rừng do
vậy người ta cho rằng sầu riêng đã được thuần hoá từ lâu, ở nước nào thì chưa rõ.
Sầu riêng phân bố chủ yếu ở Indonesia (Nam Dương), Malaysia (Mã Lai) và
Brunei, tuy nhiên có thể mọc ở mọi nơi có điều kiện khí hậu tương tự. Các vùng khác
mà sầu riêng có thể mọc là Minđanao, Thái Lan, Philipin, Queensland ở Úc,
Campuchia, Việt Nam, Lào, Ấn Độ, Sri lanka và một phần của Hawaii.

Thái Lan là nước xuất khẩu chủ yếu sầu riêng. Ấn Độ, Srilanka và Brunei đều coi
sầu riêng là cây có triển vọng nhưng chưa trồng nhiều.
I.3. Phân loại:
Có hơn 100 loại sầu riêng nhưng chỉ có một số trong chúng được nhân dân trồng cho
hiệu quả kinh tế.
Giới (Kingdom): Plantae
Ngành (Division): Magnoliophyta
Lớp (Class): Magnoliopsida
Bộ (Ordo): Malvales
Họ (Familia): Malvaceae(Bombacaceae)
Chi (Genus):
Durio
Lồi (Species):
D. zibethinus
2
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Hình 2: Một số giống sầu riêng được trồng ở Việt Nam
Bảng 1: Những giống sầu riêng phổ biến trên thế giới:
Giống Tên thông
thường
Nguồn
gốc
Đặc điểm
D24 Bukit
Merah
Reservoir,
Perak

Trái hình oval, kích thước trung bình, nặng
khoảng 1-2,8 kg/trái. Vỏ có màu xanh đến
xanh nâu, gai nhọn và nhỏ. Thòt quả vàng,
dày và ngọt
D99 Kop Thái Lan Trái hình tròn, kích thước trung bình, nặng
khoảng 1-2 kg/trái.vỏ màu xanh đến xanh
nâu, gai ngắn, bén. Thòt quả dày, hơi vàng,
mềm, ngọt
D123 chanee Thái Lan Trái hình oval, lớn, nặng 2-4 kg/trái. Vỏ có
màu xanh đến nâu, gai lớn, thòt quả vàng
đậm, dày, mềm,ngọt
D145 berseral
Mek
Sầu riêng
xanh
Beserral
Kuantan
Pahang
Trái kích thước trung bình, nặng 1-2 kg/trái,
hình tròn và hơi nhọn ở phần cuối. Gai dài,
gần nhau. Vỏ màu xanh. Thòt quả vàng đậm,
mềm và ngọt
D158 Kan Yau Thái Lan Trái kích thước trung bình, nặng 2-4 kg/trái,
hình oval, dài khoảng 15-17 cm. Vỏ màu
xanh nâu. Thòt quả vàng đậm, ngọt
D159 Gối vàng Thái Lan Trái lớn, nặng 4-6 kg/trái. Trái dài, hình oval
và cong ở cuối. Gai màu nâu. Thòt quả vàng
đậm, dày và ngọt
D169 Kelantan Trái kích thước trung bình, nặng 1-2 kg/trái.
Trái hình oval dài với vỏ màu xanh vàng, gai

nhọn bén. Thòt quả vàng, dày, mềm, vò ngọt
lòm
CHA-NEE
MON-TONG
KAN-YAO
KRA-DUM-TONG
3
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
I.4. Tình hình trồng và xuất nhập khẩu sầu riêng trên thế giới :
Malaysia là nước có nhiều giống sầu riêng nhất nhưng một trong những cường
quốc về xuất khẩu sầu riêng lại là Thái Lan. Với quy mô sản xuất công nghiệp, diện
tích lớn, hiệu quả cao trước nay Thái Lan chỉ sản xuất để tiêu thụ trong nước nhưng nay
đã xuất khẩu sang nhiều nước châu Á như : Singapor, HongKong và cả Pháp và Mỹ.
Bảng 2: Những nước trồng nhiều sầu riêng nhiều nhất
Nước Năm Diện tích trồng
(ha)
Diện tích có quả
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Thái Lan 1991 95367 64146 539190
Malaysia 1992 61294 19001 384500
Indonesia 1992 36024 152501
Philippin 1987 2030 36713
Thái Lan sản xuất gần 500.000 tấn và Indonesia trên 150.000 tấn mỗi năm, là hai
nước trồng nhiều sầu riêng nhất, nhưng chỉ có Thái Lan là có tổ chức xuất khẩu sầu
riêng. Thái Lan là nước xuất khẩu sầu riêng nhiều nhất thế giới, nhờ hầu hết các vườn

chuyên canh đều trồng các giống lai 3n như: Mon-tong, Chanee, Kradom, Khan Yoa...
Các giống này đã lai tạo theo đònh hướng của nhu cầu xuất khẩu như hạt lép (100%),
cơm ráo (có thể tách lấy múi (cơm), trái bảo quản và vận chuyển lâu hư, hương thơm
trung bình (khách nước ngoài không thích mùi hương quá mạnh của sầu riêng), màu
vàng sáng hấp dẫn. Hiện nay, nhiều đơn vò, cá nhân đã nhập giống sầu riêng Thái Lan
về trồng, chọn giống Mon-tong ngon nhất.
Khuynh hướng thâm canh ở Thái Lan là chỉ trồng cây thấp để đảm bảo chất lượng
như cây mẹ, mau ăn (sau 3 năm trồng có trái bán), mật độ dầy (khoảng cách 6-7 m,
thay vì 10-12 m) để đạt năng suất cao ngay những năm đầu cho trái, sau 15-20 năm lại
thay giống mới có nhiều đặc tính ưu việt hơn. Cây sầu riêng ở Thái Lan không chỉ trồng
ở vùng đất thòt, đất đỏ basalt mà còn phát triển mạnh ở vùng đất cát xám có đầu tư hệ
thống tưới và chăm sóc thâm canh cao. Tỷ lệ phân bón NPK cho sầu riêng thời kỳ cây
còn nhỏ là 2-3-1, còn cây đã vào giai đoạn khai thác (cho trái) vùng đồng bằng sông
Cửu Long có thể theo tỷ lệ 2-1-1, ở miền Đông, miền Trung cần tăng kali hơn: 2-1-2
hay 2-1-3, dạng kali sulfat tốt hơn dạng clorur vì phân clorur làm giảm phẩm chất trái,
trái sượng. Nếu đất thiếu mùn, cần bón lượng phân hữu cơ cao (30-50 kg/gốc/năm).
Bảng 3: Sản xuất sầu riêng ở Malaysia, Indonesia và Philippines
4
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Nước Sản xuất Giống chủ yếu
Malaysia 128.555 tấn (1998) D24 (70% diện tích)
Indonesia 228.668 tấn.
44.016 ha (1993)
Sunan, monthong, Sukun, Sitokong,
Simas, Petrack, Chanee
Philippines 8.000 ha (1994) Chanee, Monthong
Tình hình xuất nhập khẩu sầu riêng :

– 3 nước xuất khẩu sầu riêng chủ yếu trên thế giới là Thái Lan, Malaysia và
Indonesia, các nước còn lại sản xuất chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc vừa có xuất
khẩu vừa nhập khẩu, nhưng sản lượng xuất khẩu chưa nhiều.
– Thái Lan là nước sản xuất và xuất khẩu sầu riêng lớn hàng đầu thế giới, trong
đó sầu riêng tươi chiếm 81%, sầu riêng đông lạnh chiếm 18% và sầu riêng chế biến chỉ
chiếm gần 1%.
Bảng 4: Sản lượng các sản phẩm sầu riêng xuất khẩu của Thái Lan
(1997-2001) (Đơn vò tính: tấn)
Loại sản phẩm 1997 1998 1999 2000 2001
Tđtbq
(%/năm)
Tươi 72.987 87.456 111.042 83.865 116.674 12
Đông lạnh 5.493 43.323 21.814 28.312 26.971 49
Chế biến 34 33 16 103 163 47
Cộng 78.514 130.814 132.874 112.281 143.809 16
– Singapore, Hồng Kông và Đài Loan là 3 nước nhập khẩu sầu riêng chính trên
thế giới. Tổng sản lượng nhập khẩu của 3 nước này chiếm đến 90% tổng sản lượng sầu
riêng xuất khẩu của 3 nước xuất khẩu chính trên thế giới (Mã Lai, Thái Lan và
Indonesia).
– Singapore : lớn nhất (65%), trên 36745 tấn sầu riêng tươi với giá trò 30,6 triệu
US$ vào 1993.
– Hồng Kông : lớn thứ hai (20%), 99% là từ Thái Lan. Năm 2001: nhập 83537 tấn,
đạt 1161 tỷ baht, tăng 49% so với năm 2000 (55924 tấn, 850 triệu baht).
– Mỹ là thò trường nhập khẩu sầu riêng lớn ở khu vực Bắc Mỹ, hầu hết là từ Thái
Lan và một ít từ Mã Lai. Năm 2001: nhập 8334 tấn sầu riêng của Thái Lan.
5
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG

– Thò trường Mỹ và Canada: sầu riêng đông lạnh được tiêu thụ nhiều hơn so với
sầu riêng tươi. Năm 2001 tổng số sầu riêng đông lạnh Canada nhập từ Thái Lan đạt
1511 tấn với giá trò 490 triệu baht.
– Nhu cầu sầu riêng ở thò trường châu Âu nhỏ, Pháp nhập khẩu sầu riêng tươi và
đông lạnh lớn nhất (hầu hết là từ Thái Lan).
Bảng 5: Sản lượng sầu riêng thế giới, sản xuất và phân bố nhu cầu thị trường sầu
riêng Thái Lan
Chỉ tiêu
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
TB 3 năm
SL (tấn) SL (tấn) SL (tấn) SL (tấn)
I. Tồn thế giới 1.400.000 1.400.000 1.400.000 1.400.000
II. Của Thái Lan 789.800 830.000 820.000 813.267
1. Đơng Thái Lan 575.760 628.850 613.900 606.170
2. Nam Thái Lan 214.040 201.150 206.100 207.097
Nhu cầu nội địa 577.960 634.821 616.000 609.594
Nhu cầu nước ngồi 132.860 112.179 122.000 122.346
Dùng cho chế biến 78.980 83.000 82.000 81.327
Bảng 6: Cơ cấu diện tích trồng sầu riêng theo giống ở Thái Lan
Stt Giống Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Monthong 38.686
41
2 Chanee 31.412
33
3 Kan Yao 5.748 6
4 Kradum 2.230 2
5 Giống khác 16.415 17
Tổng cộng 94.491 100
I.5. Tình hình trồng sầu riêng ở Việt Nam:
Trong thế kỷ 20 ở Việt Nam được biết tới 2 giống "sầu riêng mỡ" có lớp cơm màu

trắng xám như mỡ và "sầu riêng đường" có lớp cơm màu vàng như đường mía.
6
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Theo thời gian, hoặc nhờ khám phá, hoặc nhờ gây giống, hiện nay sầu riêng (Durio
zibethinus) có độ 70 giống (cultivar), trong đó giống "sầu riêng đường không hạt" có
triển vọng và được giới tiêu thụ ưa chuộng hơn hết, phân loài này được gây giống đặc
biệt ở Thái Lan và Việt Nam: cơm (thòt) ngọt, không có hạt hoặc hạt bò mai một.
Sầu riêng ở Việt Nam trước đây trồng nhiều ở Lái Thiêu, nhưng sau chiến tranh đã
được phát triển mạnh trên đất đỏ tương đối mưa nhiều từ Di Linh, Bảo Lộc và các tỉnh
miền Tây như Vónh Long, Tiền Giang, Bến Tre nhờ thủy cấp gần. Các vùng đất đỏ ở
Sông Bé, Đồng Nai cũng thích hợp với sầu riêng, nếu mùa nắng không kéo dài quá ba
tháng (mưa ít hơn 60 mm một tháng được kể là tháng nắng). Nếu trồng ở miệt Nha
Trang hay Tây Ninh thì nên tưới nước mùa nắng cho sầu riêng mọc tốt. Nhiều giống
sầu riêng, nhất là các giống ở vùng biên giới Thái Lan và Malysia, cho trái hột lép,
cơm dày, nên du nhập trồng thử ở Việt Nam.
Ở Việt Nam ngay sau khi sản xuất lương thực ổn đònh, tiêu thụ quả tăng lên và sầu
riêng là 1 trong những loại quả dễ tiêu thụ nhất, do đó trong phong trào mở rộng diện
tích cây ăn quả hiện nay sầu riêng là 1 trong những cây được chú ý nhiều nhất. Mặc dù
được bán với giá cao gấp 5-10 lần những quả thông thường như chuối, ổi, đu đủ nhưng
sầu riêng vẫn được tiêu thụ dễ dàng. Nếu lại biết trong 1kg sầu riêng chỉ có 14-22%
phần ăn được trong khi những loại quả thông thường có đến 60-80% phần ăn được càng
thấy sầu riêng được đánh giá cao như thế nào.
Tổng diện tích hiện có 11838 ha, sản lượng khoảng 53 ngàn tấn (2003). Trong đó
các tỉnh miền Đông Nam bộ chiếm khoảng 55 %, các tỉnh miền Tây Nam bộ chiếm
45%. Nhìn chung sản xuất sầu riêng ở nước ta tính tạp giống còn phổ biến, chưa có
giống có lợi thế nổi trội về sản lượng.
Sầu riêng giống khổ qua xanh của Việt Nam, trái nhỏ nhưng sai trái hiện được dân

chúng rất thích. Ở Chợ Lách (Bến Tre) hay ở Tiền Giang có giống sầu riêng hột lép
được nhà vườn ưa chuộng.
Bảng 7: Diện tích và sản lượng sầu riêng các tỉnh Nam Bộ năm 2002
Stt Tỉnh
Diện tích Sản lượng
7
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
ha % tấn %
1 Tổng số 11.838 100,0 53.288 100,0
2 Đồng Nai 2.723 23,0 8.744 16,4
3 Bình Phước 1.614 13,6 1.246 2,3
4 Vĩnh Long 1.509 12,7 22.629 42,5
5 Tiền Giang 1.281 10,8 12.263 23,0
6 Bình Dương 748 6,3 985 1,8
7 Bến Tre 639 5,4 543 1,0
8 TP. HCM 500 4,2 1.800 3,4
9 Các tỉnh khác 2.824 23,9 5.078 9,5
Cung cầu thò trường sầu riêng Nam bộ
 Nguồn cung cấp sầu riêng từ sản xuất trong nước
• Nguồn sầu riêng sản xuất trong nước cung cấp cho thò trường Nam Bộ chủ yếu
là từ các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tiền Giang, Bến Tre, Vónh Long,
TP.HCM.
• Trong tổng sản lượng sầu riêng thu hoạch của các tỉnh Nam Bộ, ước tính có
khoảng 49.500 tấn cung cấp cho thò trường nội đòa, trong đó thò trường Nam Bộ chiếm
đến 85%.
– TP. Hồ Chí Minh là thò trường tiêu thu lớn nhất ở Nam Bộ, chiếm đến 44%
sản lượng,

– Các tỉnh thành còn lại ở Nam Bộ (41%).
 Nguồn cung cấp sầu riêng từ nước ngoài
– Nhập một lượng khá lớn sầu riêng từ nước ngoài, hầu hết là từ Thái Lan.
Sản lượng sầu riêng nhập khẩu vào Việt Nam tiêu thụ hầu hết ở thò trường
Nam Bộ và chủ yếu ở TP. HCM.
– Tổng sản lượng sầu riêng tiêu thụ có đến 27% nhập khẩu.
 Sơ lược tình hình trồng sầu riêng ở Cai Lậy (một trong những vùng có diện
tích cây sầu riêng lớn nhất và năng suất cao nhất đồng bằng sông Cửu Long):
Vùng đất ven sông Tiền thuộc đòa phận huyện Cai Lậy có nhiều loại trái cây đặc
sản, trong đó, sầu riêng là một loại trái cây nổi tiếng xưa nay ở cù lao Ngũ Hiệp. Cù lao
Ngũ Hiệp, còn gọi cù lao Năm Thôn, nằm giữa sông Tiền, quanh năm trái ngọt, cây
lành. Theo các lão nông trong vùng, cây sầu riêng xuất hiện ở đây từ thập niên 60. Ông
Hai Tôn (ấp Tân Đông) là một trong những người đầu tiên trồng loại sầu riêng khổ qua
xanh. Nhiều năm sau đó, ông Tư Tây (ấp Hoà Thinh ) trồng được giống sầu riêng hạt
lép. Cuối thập niên 80, cây sầu riêng được nhà vườn ưa chuộng, đưa vào kế hoạch cải
tạo vườn tạp, lên liếp lập vườn cây ăn trái mới từ những nền đất lúa kém năng suất. Do
thích hợp với thổ nhưỡng, khí hậu cũng như giá trò kinh tế cao nên hiện nay hộ nào cũng
trồng sầu riêng, chiếm hơn 90% diện tích vườn cây ăn trái ở vùng đất phì nhiêu này.
8
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Khoảng 70% sầu riêng ở cù lao Ngũ Hiệp là giống sầu riêng đòa phương như khổ
qua xanh, lá quéo, hạt lép Tư Tây, với phần lớn là cây trên mười năm tuổi. Còn lại nhà
vườn trồng các giống mới như sầu riêng Chín Hóa, Ri6, Monthong v.v... hầu hết là cây
tơ dưới 10 tuổi, cho trái rất sung mãn.
Các loại sầu riêng tạp, giống cũ được thay thế bằng các loại giống có thương hiệu
mạnh trên thò trường như Mon Thoong, Ri 6, Ray... Sở dó 3 giống sầu riêng này được
chọn để đầu tư, phát triển vì đây là loại sầu riêng cao cấp của Thái Lan và Việt Nam

đã qua quá trình lai tạo, cấy ghép cho năng suất cao và chất lượng trái rất thơm ngon
được thò trường ưa chuộng.
Giống sầu riêng Ri6: có nguồn gốc ở Myanmardu nhập vào Việt Namnăm 1986 và
được trồng đầu tiên ởBình Hòa Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vónh Long rất dễ trồng, dễ
chăm sóc, dễ đậu trái. Thời gian xuống giống bằng gốc ghép đến khi ra trái khoảng 36
tháng, thích nghi với khí hậu đòa phương.giống cho năng suất khá cao120-150
trái/cây/năm, trọng lượng trái trung bình 2.5-5kg. Về chất lượng trái thì Ri6 có cơm dày,
vàng, mòn, ráo, tỉ lệ hạt lép đạt 40%/trái.
Giống sầu riêng Monthong: giống có nguồn gốc ở Thái Lan, được ông Trần Minh
Tâm mang về Việt Nam trồng từ năm 1991 tại Bình Long, tỉnh Bình Phước.trọng lượng
trái khá to 2.5-4.5kg, cơm vàng, sáng, rất ít xơ, mòn, ráo, tỉ lệ cơm: 30-37%. Lưu ý thụ
phấn bổ sung để dạng trái cân đối và hạn chế được số ngăn lép.
Giống sầu riêng sữa hạt lép Chín Hóa:là giống được lai tạo ở Việt Nam, trung
bình 2.0-3.0kg/trái. Dang hình cầu chia thành 5-6 múi cân đối. Vỏ trái màu vàng đồng
khi chin, cơm trái màu vàng, không xơ, hơi nhão, vò rất béo và ngọt, mùi thơm, hạt lép
nhiều, tỉ lệ cơm 28.8%, không sượng.
Ngoài ra còn có giống sầu riêng khổ qua xanh: cho năng suất cao, hiệu quả kinh
tế lớn, có thể đạt được vài chục tấn quả/ha. Quả nặng trung bình 1-3kg, cơm dày, vàng,
ngọt, béo. Là giống có nhiều triển vọng trong tương lai để đưa vào sản xuất công
nghiệp
Năm 2006, sầu riêng Ngũ Hiệp tiếp tục được mùa được giá. Những vườn sầu riêng
từ 10 năm trở lên cho năng suất phổ biến từ 20-25 tấn/ha, cá biệt có hộ đạt từ 30-35
tấn/ha. Theo thống kê của UBND xã Ngũ Hiệp, xã hiện có 1.400 ha sầu riêng, 200 ha
trồng nhãn, cam, bưởi, chôm chôm xen lẫn với sầu riêng hạt lép. Dự kiến trong năm
nay, Ngũ Hiệp sẽ thu hoạch 22.000 tấn sầu riêng, đạt sản lượng cao nhất huyện Cai
Lậy.
Không chỉ ở cù lao Ngũ Hiệp, hiện nay nhà vườn ở các xã lân cận như: Tam Bình,
Long Khánh, Long Trung, Hội Xuân đang nhân giống trồng sầu riêng, hình thành vùng
chuyên canh cây sầu riêng của huyện Cai Lậy.
Nhìn chung, vùng đất miệt vườn này hội tụ tất cả những giống sầu riêng tốt nhất

ở Nam bộ. Những vườn mới trồng từ 3-6 năm tuổi có trên 70% là các giống sầu riêng
hạt lép. Hiện có đến 10 xã ven sông Tiền có diện tích trồng sầu riêng lên đến 4.600 ha,
nhiều nhất là xã Ngũ Hiệp (1.400 ha), Tam Bình (1.200 ha), Long Trung (600 ha), Long
Tiên (600 ha). Trong đó, hiện có khoảng 3.000 ha đang cho trái. Theo số liệu của
9
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Phòng Nông nghiệp huyện Cai Lậy, vụ sầu riêng chính vụ năm 2006, toàn huyện đạt
năng suất bình quân 20 tấn/ha, sản lượng 50-60 ngàn tấn trái.
 Ưu thế phát triển
Sầu riêng Cai Lậy có những lợi thế để phát triển mà những vùng trồng sầu riêng
khác ở Nam bộ không có được.
– Trước hết, về phẩm chất, sầu riêng Cai Lậy xưa nay rất được người tiêu dùng ưa
chuộng vì có mùi thơm đậm đà, cơm không xơ, ít bò sượng, độ ngọt và độ béo cao. Mùa
sầu riêng chính vụ (tháng 4-7 ÂL) cho thu hoạch sớm hơn sầu riêng miền Đông nên hầu
như độc chiếm thò trường . Hiện nay, nhà vườn có thể xử lý cho cây sầu riêng ra hoa
mùa nghòch. Áp dụng kỹ thuật do khuyến nông hướng dẫn, nhà vườn đã xử lý cho sầu
riêng ra hoa trái vụ bằng biện pháp phủ nilon, xiết nước... cho thu hoạch bình quân 20
tấn/ha. Với biện pháp kỹ thuật này, nhà vườn Cai Lậy hầu như có sầu riêng để thu
hoạch quanh năm, ít nhiều tuỳ mùa vụ. Vào thời điểm trái vụ (tháng 1-2 ÂL), sầu riêng
cao giá gấp nhiều lần. Vì vậy, một hộ có 4-5 công sầu riêng xử lý nghòch vụ cho thu
nhập 150 - 200 triệu đồng là chuyện bình thường. Chỉ trong một mùa sầu riêng, nhiều
hộ nhà vườn đã phất lên, mua xe, xây nhà, mua đất v.v...
– Trong những năm gần đây, nhà vườn ở vùng ven sông Tiền còn được Viện
Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, ĐH Cần Thơ, cũng như ngành nông nghiệp thường
xuyên chuyển giao công nghệ mới trong việc thâm canh cây sầu riêng, hướng dẫn biện
pháp phòng trừ sâu bệnh gây hại, thuần hoá các giống mới...
– Về hạ tầng cơ sơ û, tỉnh đã đầu tư xây dựng các chợ đầu mối trái cây như chợ

Long Trung (Cai Lậy), Vónh Kim (Châu Thành), nâng cấp, mở rộng, tráng nhựa đường
tỉnh 868 (Lộ Ba Dừa), đường tỉnh 864 (Tam Bình - Mỹ Tho)... Hệ thống đường giao
thông nông thôn trong khu vực cũng được hoàn chỉnh. Từ trung tâm các xã, người ta có
thể đi xe máy đến tận các ấp cũng như các vườn cây ăn trái một cách dễ dàng. Tất cả
đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà vườn giao dòch, mua bán trái cây, không bò ép giá.
 Khó khăn
– Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui được mùa được giá, người trồng sầu riêng hiện
vẫn còn khá nhiều trăn trở. Thực tế là một số người dân (lẫn thương lái) vẫn thường bỏ
qua yếu tố uy tín để “gặt lúa non” khi thấy thò trường hút hàng. Đây là một trong những
lý do làm cho chất lượng sầu riêng tung ra thò trường bò giảm sút, người tiêu dùng mất
tin tưởng, điều này làm ảnh hưởng đến uy tín về thương hiệu của cây sầu riêng.
– Song song đó, cho đến giờ này chưa có một đònh hướng hay dự báo nhất quán
nào của ngành chức năng về chủng loại giống để người dân lựa chọn đầu tư. Giữa bộn
bề các loại giống như Ri6, Monthong, Chín Hóa, Chuồng bò, Khổ qua xanh, Cơm vàng
hạt lép... mỗi loại đều có ưu, khuyết điểm khác nhau, người nông dân không biết chọn
loại nào. Ngay cả các thương lái cũng chẳng biết loại nào là tốt xấu bởi yếu tố thò
trường chi phối tất cả, mà thò trường thì “mưa nắng thất thường” nên họ cũng chẳng biết
đâu mà lần. Vì vậy, phương thức “mì ăn liền” luôn là sự lựa chọn ưu tiên trong chiến
lược kinh doanh của họ.
10
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
– Dù đònh hướng phát triển của ngành nông nghiệp huyện xác đònh rõ cây sầu
riêng là cây kinh tế chủ lực trong vùng (gồm Ngũ Hiệp, Long Trung, Tam Bình, Long
Tiên...) với diện tích lên đến 4.500ha, nhưng cho tới giờ này vẫn chưa có một tổ chức
nào đứng ra làm đầu tàu trong việc thu mua, chế biến cũng như xác đònh được thò
trường nào mang tính bền vững và ổn đònh trong việc tiêu thụ, ngoài thò trường
TPHCM. Hầu hết việc tiêu thụ đều “giao khoán” cho các thương lái theo mùa vụ.

Trong khi đó, dù có diện tích và sản lượng thấp hơn nhiều, nhưng các loại trái cây khác
như xoài cát Hòa Lộc, Bưởi Long Cổ Cò đã có thương hiệu và tiếp tục phát huy thương
hiệu qua thò trường.
I.6. Đặc điểm thực vật:
I.6.1. Cây sầu riêng:

Hình 3: Cây sầu riêng
Cây sầu riêng cao khoảng 20-30m, tán lá thưa, hết mùa mưa và khi mùa khô tới thì
hình thành mầm hoa. Cây sầu riêng cho quả sau 8-10 năm. Tuổi đời cây sầu riêng
thường từ 80-150 năm nhưng chúng có thể chết sớm hơn do ảnh hưởng của gió, ánh
sáng, bệnh, vi sinh vật, con người…Mặc dù số lượng trái bò giảm khi cây già, chất lượng
trái lại có xu hướng tăng lên cùng tuổi thọ, trái từ cây già bán được giá cao hơn.
I.6.2. Hoa sầu riêng:
11
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG

Hình 4: Hoa sầu riêng
Hoa sầu riêng phát triển thành từng chùm, số lượng nhiều khoảng 1-45 hoa/chùm
trên các cành to hoặc nhỏ, ít khi ở đầu cành. Hoa sầu riêng rất thơm, dài từ 2-3 inches
(50-70mm),. Cây sầu riêng với hoa màu vàng nhạt sẽ cho quả màu vàng, thòt rắn chắc,
trong khi những hoa trắng hoặc cánh hoa hơi đỏ sẽ cho trái trắng hoặc hơi đỏ. Thường
chỉ có 1 hoặc 2 trái phát triển từ 1 chùm hoa.
Đài hoa : có 5 cánh không kể đài phụ phía ngoài 3 cánh. Vành hoa 5 cánh màu
kem hơi xanh. Nhò đực dính với nhau trên nửa cuống hình thành 5 chùm nhò, mỗi chùm
có 10-12 bao phấn. Bầu hình trái xoan vòi dài, đầu nhụy tròn có 5 mảnh, khi chín có
nhựa dính. Từ khi nụ bắt đầu nở đến khi thành hoa cần 2,3 ngày. Hoa nở vào khoảng 3h
chiều và mở cho đến 6h sáng ngày hôm sau. Bao phấn nứt vào khoảng 7h tối và đến 11

giờ tối mới có thể thụ phấn tốt cho nhụy nhưng lúc này nhụy đã tàn lụi. Do đó hoa sầu
riêng không tự thụ phấn được và muốn kết quả cần thụ ngoại hoa nhờ phấn của các cây
khác. Cây sầu riêng nở nhiều hoa, 1 thời gian dài nhiều tuần lễ do đó có nhiều mật,
phấn và nhiều động vật đến lấy. Sáng sớm thì có sóc, bọ cánh cứng, ong, ruồi, ban đêm
thì có cầy hương, dơi. Theo Lim Tong Kwee, sầu riêng có nhiều đặc điểm của những
cây thụ phấn nhờ dơi như hoa nở trên cành to, dơi dễ đậu, hoa nở ban đêm, mùi hoa hắc
hấp dẫn dơi, hoa to mở rộng và màu trắng, không có màu đỏ, tím, vàng và đường, mật,
phấn nhiều đủ thức ăn cho dơi.
I.6.3. Quả sầu riêng:
Quả sầu riêng thuộc loại quả nang, có màu xanh đến nâu, có hình tròn hoặc thuôn,
có nhiều gai nhọn bao quanh, kích thước tuỳ thuộc vào chủng loại, hạt gieo trồng.
Giống của Thái Lan có kích thước lớn nhất. Những giống được trồng ở Malaysia và các
vùng khác có kích thước nhỏ hơn, màu sáng hơn. Quả go àm 5 múi và nứt ra thành 5
phần khi chín, mỗi phần chứa những hạt màu nâu được bao quanh bởi lớp thòt quả dày,
béo, màu vàng. Từ khi hoa nở đến khi quả lớn tối đa là 12-13 tuần, 15-16 tuần thì quả
chín. Tuỳ theo giống, điều kiện thụ phấn có hạt to (dài 5cm, rộng 3-4cm) có hạt lép.
Phần ăn được của sầu riêng được tạo thành sau 4 tuần kể từ ngày
thụ phấn, nó bắt đầu là phấn trắng bao bọc toàn bộ hạt, rồi sau đó từ từ chuyển màu tuỳ
thuộc vào giống (thường là màu vàng kem, cam…).
12
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Hình 5: Trái sầu riêng
Một đặc điểm nữa của trái sầu riêng là trái chín chỉ rơi (rụng) vào một thời điểm
nhất đònh trong ngày: trái rơi (rụng) nhiều nhất vào lúc giữa đêm (từ 0 tới 1 giờ) và một
số ít vào giữa trưa (12 tới 13 giờ), những giờ khác không có trái rơi (rụng). Nhờ đó con
người tránh được tai nạn.


I.7. Điều kiện sinh trưởng
I.7.1. Thời tiết :
- Sầu riêng ưa khí hậu nóng và ẩm, nhiệt độ không quá cao hoặc quá thấp, độ ẩm
cao và ổn đònh, ít khi có nắng, bức xạ không quá lớn. Miền bắc nước ta không trồng sầu
riêng được vì có gió mùa đông bắc, mùa đông quá lạnh còn mùa hè thì lại quá nóng vì
có gió lào, thường đạt tới nhiệt độ 39-40
0
C. Bảo Lộc và Di Linh (Lâm Đồng) tuy ở độ
cao 884 và 972m, nhiệt độ trung bình năm 21
0
C tuy thấp hơn ở Cần Thơ 27
0
C nhưng
nhiệt độ trung bình từ tháng 1-12 chỉ ở mức 20-22
0
C rất ổn đònh, không có nóng, không
có lạnh nên sầu riêng rất tốt, tuy sinh trưởng và phát dục chậm hơn ở Cần Thơ.
- Sầu riêng ưa ẩm nhưng là ẩm dưới rừng già, đất ẩm nhưng không đọng nước,
không khí thường xuyên ẩm. Khí hậu nóng và khô hanh không thích hợp với sầu riêng.
- Sầu riêng chòu hạn rất kém vì lá sầu riêng sinh trưởng liên tục không nghỉ (khác
với cây có thời gian nghỉ). Cây không xúc tích chất sinh trưởng ở thân, cành mà ở lá
nên khi có hạn, dù 1 thời gian ngắn, lá bò khô rìa, vàng rụng, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các bộ phận còn lại là thân, cành, rễ.
- Về ánh sáng: khi cây còn nhỏ, ánh sáng không cần nhiều, vả lại ánh sáng nhiều
thì mất nước nhiều kể cả do bốc hơi và tiết nước qua lá, cho nên thời kỳ cây con phải có
bóng râm. Khi cây đã lớn nếu điều kiện nước và nhiệt thuận lợi, nhiều ánh sáng chỉ có
lợi cho quang hợp, cho sản lượng, do đó sầu riêng lớn không cần cây che bóng vả lại
lúc này khó tìm được cây cao hơn che bóng cho sầu riêng.
- Sầu riêng là cây sợ gió, cần im, một là vì cây yếu, gỗ dòn, dễ gãy, bò bật gốc nếu
có gió to, hai là nhiều gió thì lá sầu riêng tiết nước nhiều, do đó phải trồng ở nơi kín gió

và nếu cần, trồng cây chắn gió.
13
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
I.7.2. Đất :
- Đất phải tốt, sâu, thoát nước cây mới mọc nhanh, mang nhiều quả.
- Đất nhiều li mông (thòt), phù sa, đất đỏ bazan là những đất tốt thích hợp cho cây
sầu riêng, đất nhiều cát không thích hợp.
- Nên chọn đất dốc thoai thoải để dễ thoát nước. Nếu có tầng đá hoặc đất sét ở dưới
đất phải sâu hơn 3-4m vì rễ ăn sâu, cây mới bám chắc không bò đổ.
- Đất đỏ Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, đất phù sa ven sông Tiền, sông Hậu là những
nơi thích hợp để trồng sầu riêng nhưng cần chú ý bồi đất, lên líp nếu đất thấp.
I.8. Thành phần dinh dưỡng
Sầu riêng là một loại quả khác thường, giá trò calo, tỷ lệ cacbohydrat, protein, lipid,
chất khoáng đều rất cao so với các quả khác tuy hàm lượng vitamin chỉ trung bình.
Bảng 8: Thành phần dinh dưỡng trong 100 g cơm sầu riêng tươi.
Thành phần
Nước 62,31 g
Năng lượng 147 kcal
14
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT

SẦU RIÊNG
Năng lượng 615 kj
Protein 1.47 g
Lipid tổng 5.33 g
Carbohydrate 27.09 g

Xơ 3.8 g
Khoáng
Calcium, Ca 6 mg
Iron, Fe 0.430 mg
Magnesium, Mg 30 mg
Phosphorus, P 38 mg
Potassium, K 436 mg
Sodium, Na 1 mg
Zinc, Zn 0.28 mg
Copper, Cu 0.207 mg
Manganese, Mn 0.324 mg
Vitamins
Vitamin C ( ascorbic acid ) 19.7 mg
Thiamin, B1 0.374 mg
Riboflavin, B2 0.2 mg
Niacin, PP 1.074 mg
Pantothenic acid, B5 0.23 mg
Vitamin B-6 0.316 mg
Vitamin A, IU 45.000 IU
Vitamin A, retinol 5.000 µg
Khi phân tích thành acid amin của Protein trong quả sầu riêng các nhà nghiên cứu đã
tìm ra hầu hết các acid amin thiết yếu sau:
Bảng 9: Thành phần các amino acid trong trái sầu riêng
Amino acid composition
(mg/100g FW)
Essential amino acids
(g/16g N)
15
GVHD
TÔN NỮ MINH NGUYỆT


SẦU RIÊNG
Isoleucine 85.8 Lysine 4.8
Leucine 143 Histidine 2.0
Lysine 124.8 Arginine 2.1
Methionine 44.2 Aspartic acid 9.3
Histidine 52 Threonine 2.6
Cystine 78 Serine 3.9
Phenylalanine 78 Glutamic acid 11.9
Tyrosine 57.2 Proline 3.8
Threonine 67.6 Glycine 4.1
Valine 122.2 Alanine 8.4
Cystine 3.0
Valine 4.7
Methionine 1.7
Leucine 5.5
Isoleucine 3.3
Tyrosine 2.2
Phenylalanine 3.0
Bảng 10: So sánh thành phần dinh dưỡng giữa sầu riêng tươi và sầu riêng sấy
(giá trò trên 100g phần ăn được).
Thành phần
Sầu riêng tươi Sầu riêng sấy
Năng lượng 144 kcal
16

×