Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giáo trình thực vật có hoa part 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.17 KB, 15 trang )





NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2006, 151 Tr.

Từ khoá: Loài, sự hình thành loài, chọn lục từ nhiên, lai tạo, thể đa bội, tự phát sinh,
tiến hóa, hệ thống sinh giới, chiến lược tiến hóa, thích ứng, phân chia sinh giới, tiến
hóa không đồng đều, thu mẫu, ép mẫu, cây khô, xử lý mẫu, phòng mẫu.

Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho mục
đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in ấn phục
vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và tác giả.


Mục lục

Chương 1 Giới thiệu về Phân loại và hệ thống học thực vật 8
1.1 Định nghĩa 8
1.2 Mục tiêu 8
1.3 Nhiệm vụ của nghiên cứu cây có hoa 9
1.4 Giá trị của thực vật Có hoa 10
1.4.1 Giá trị trực tiếp 10
1.4.2 Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh vật 12
1.4.3 Giá trị lựa chọn cho tương lai 13
Chương 2 Lịch sử phát triển của Phân loại học thực vật có hoa 15
2.1 Thời tiền sử 15
2.2 Nền văn minh sơ khai của Tây Âu 15
2.2.1 Theophrastus (370 - 285 trước Công nguyên) 15
2.2.2 Caius Plinius Secundus (Pliny the Elder) (23 - 79 sau công nguyên) 15
2.2.3 Pedanios Dioscorides (Thế kỷ thứ nhất sau công nguyên) 16


2.3 Thời Trung cổ 16
2.3.1 Thực vật học đạo Hồi 16
2.3.2 Albertus Magnus, (Bác sĩ tổng hợp) (1193 - 1280) 16
2.3.3 Những nhà nghiên cứu thực vật Đức 16
Thực vật có hoa


Nguyễn Nghĩa Thìn

2.3.4 Thực vật ở các nước hay nền văn minh khác 17
2.4 Sự chuyển tiếp của những năm 1600 17
2.4.1 Andrea Caesalpino (1519 - 1603) 17
2.4.2 Caspar Bauhin (1560 - 1624) 18
2.4.3 John Ray (1627 - 1705) 18
2.4.4 Joseph Pitton de Tournefort (1656 - 1708) 18
2.5 Carl Linnaeus (1707 - 1778) và thời kỳ Linnaeus 18
2.6 Các hệ thống tự nhiên 20
2.6.1 Michel Adanson (1727 - 1806) 20
2.6.2 J.B.P. de Lamarck (1744 - 1829) 20
2.6.4 Gia đình De Candolle 21
2.6.5 George Bentham (1800 - 1884) và Joseph Dalton Hooker (1817 - 1911) 21
2.7 Ảnh hưởng của lý thuyết tiến hóa ĐacUyn đối với hệ thống học 22
2.8 Các hệ thống phát sinh chủng loại chuyển tiếp 22
2.8.1 August Wilhelm Eichler (1839 - 1887) 22
2.8.2 Adolf Engler (1844 - 1930) và Karl Prantl (1844 - 1839) 23
2.9 Các hệ thống phát sinh chủng loại 23
2.9.1 Charles E Bessey (1845 - 1915) (Hình 2.4) 24
2.9.2 John Hutchinson (1884 - 1972) 24
2.10 Các hệ thống phân loại hiện đại 24
Chương 3 Loài và sự hình thành loài 25

3.1 Loài là gì* 25
3.2 Sự hình thành loài liên quan với biến đổi và tiến hóa 27
3.2.1 Nguồn biến đổi 27
3.2.2 Chọn lọc tự nhiên 30
3.2.3 Sự biến đổi trong quần thể và sự phân hóa nòi giống 30
3.3 Sự hình thành loài và sự tách biệt 35
3.3.1 Sự tách biệt về sinh sản 35
3.3.2 Sự tách biệt về sinh thái 36
3.4 Sự hình thành loài 37
3.4.1 Lai tạo 38
3.4.2 Thể đa bội 40
3.4.3 Tự phát sinh 40
Chương 4 Tiến hóa và hệ thống sinh giới 42
4.1 Quan niệm về quá trình tiến hóa 42
4.2 CÁC DẠNG CHIẾN LƯỢC TIẾN HÓA THÍCH ỨNG 43
4.2.1 Tiến hóa tiến bộ (Agrogensis) 44
4.2.2 Tiến hóa chuyên hóa (Telogenesis) 45
4.2.3 Tiến hóa thoái hóa (Katagenesis) 45
4.3 HIỆN TƯỢNG TIẾN HÓA KHÔNG ĐỒNG ĐỀU (HETEROBATHMY) 46
4.4 SỰ PHÂN CHIA SINH GIỚI 47
Chương 5 Những nguyên tắc trong phân loại 55
5.1 CÁC BẬC PHÂN LOẠI VÀ TÔN TI TRẬT TỰ CỦA CHÚNG 55
5.2 CÁCH GỌI TÊN 55

5.2.1 Các nguyên tắc chung 56
5.2.2 Nguyên tắc công bố tên gọi 57
5.3 CÁC LOẠI MẪU CHUẨN (TYPUS) TÊN GỌI 58
5.3.1 Mẫu chuẩn tên gọi (typus) 58
5.3.2 Mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài 58
5.3.3 Các loại mẫu chuẩn 58

5.4 NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN 59
5.4.1 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn bị chia nhỏ 59
5.4.2 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn chuyển vị trí 60
5.4.3 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi liên kết các taxôn 60
5.4.4 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi thay đổi bậc taxôn 61
5.5 BÃI BỎ TÊN GỌI 61
5.6 TÊN GỌI CỦA CÁC TAXÔN 62
5.6.1 Tên gọi các taxôn trên bậc chi 62
5.6.2 Tên chi và các phân hạng của nó 62
5.6.3 Tên loài 63
5.6.4 Tên gọi của taxôn dưới bậc loài 63
5.7 TRÍCH DẪN TÊN TÁC GIẢ VÀ CÁC TÀI LIỆU KÈM THEO TÊN GỌI 64
5.7.1 Trích dẫn tên tác giả 64
5.7.2 Một số chỉ dẫn cần thiết cho việc trích dẫn tên tác giả 64
5.8 LUẬT CHÍNH TẢ VỀ TÊN GỌI VÀ DẤU VĂN PHẠM VỀ TÊN CHI 65
5.8.1 Luật chính tả về tên gọi và các tính ngữ 65
5.8.2 Giống văn phạm của tên chi cần xác định bằng cách 65
5.8.3 Cách viết tên tác giả 65
5.8.4 Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi 66
Chương 6 Nguồn các bằng chứng phân loại 68
6.1 Hình thái học 68
6.2 Giải phẫu so sánh 69
6.3 Phôi học 72
6.4 Tế bào học 72
6.5 Hạt phấn (hình 6.3, 7.10 – 7.12) 73
6.6 Cổ thực vật (hình 6.5) 73
6.7 Hóa phân loại 74
6.8 Miễn dịch 75
6.9 Bằng chứng sinh thái 76
6.10 Bằng chứng sinh lý - sinh hóa học 76

6.11 Địa lý sinh vật 76
Chương 7 Các phương pháp phân loại 78
7.1 Phương pháp phân loại hình thái 78
7.2 Phương pháp phân loại giải phẫu 78
7.2.1 Nghiên cứu cấu trúc biểu bì lá 78
7.2.2 Nghiên cứu cấu tạo giải phẫu gỗ 78
7.3 Phương pháp phân loại bào tử phấn hoa 83
7.4 Phương pháp nghiên cứu tế bào 85

7.4.1 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 85
7.4.2 Hình thái thể nhiễm sắc 90
7.4.3 Kiểu nhân 92
7.5 Phương pháp phân loại izoenzym 93
7.5.1 Định nghĩa izoenzym 93
7.5.2 Phương pháp phân tích izozym bằng kỹ thuật điện di 94
7.6 Phương pháp phân loại bằng ADN 97
7.6.1 Kỹ thuật phản ứng trùng hợp - PCR 97
7.6.2 Phân loại dựa trên kỹ thuật cắt giới hạn - RFLP 98
7.6.3 Phân loại dựa trên kỹ thuật nhân ngẫu nhiên ADN đa hình - RAPD 98
7.6.4 Phân loại dựa trên kỹ thuật nhân đoạn AFLP 99
7.6.5 Phân loại dựa trên kỹ thuật tiểu vệ tinh là các đoạn ADN ngắn có một số
lượng các chuỗi nucleotid lặp lại - SSR
99
Chương 8 Nguồn gốc và phân loại Cây Có hoa (Anthophyta) hay cây Hạt kín
(Angiospermae)
101
8.1 Hoá thạch, thời gian xuất hiện và đa dạng hóa của thực vật Có hoa 102
8.2 Tổ tiên thực vật Có hoa 103
8.3 Các cây có hoa đầu tiên 104
8.4 Mối quan hệ của cây có hoa với động vật (Hình 8.5) 106

8.4.1 Sự thụ phấn 106
8.4.2 Sự phát tán hạt 107
8.4.3 Đồng tiến hóa về sinh hóa 107
8.5 Trung tâm nguồn gốc cây có hoa và con đường di cư của chúng 108
8.5.1 Trung tâm nguồn gốc ở vùng cực 108
8.5.2 Trung tâm nguồn gốc Đông Nam á 109
8.6 Trung tâm bảo tồn hay là trung tâm di cư 111
8.7 Tiến hóa sinh thái của Thực vật Có hoa 112
8.8 Hệ thống phân loại Cây Có hoa 114
8.9 Các đặc trưng của các phân lớp 122
8.9.1 Lớp Hai lá mầm - Dicotyledoneae = lớp Mộc lan - Magnoliopsida 122
8.9.2 Lớp Một lá mầm - Monocotyledoneae = Loa kèn - Liliopsida 123
Chương 9 Xây dựng và quản lý phòng mẫu cây khô (Herbarium) 125
9.1 THU MẪU VÀ ÉP MẪU 125
9.2 CÁCH XỬ LÝ 126
9.3 XÁC ĐỊNH TÊN KHOA HỌC 128
9.4 QUẢN LÝ MẪU CÂY KHÔ 129
9.5 CHỨC NĂNG PHÒNG MẪU CÂY KHÔ 130
9.5.1. Nhãn 132
9.5.2. Trình bày mẫu 133
9.5.3. Sắp xếp mẫu 134
9.5.4. Diệt côn trùng 134
9.5.5. Mẫu chuẩn 136
9.5.6. Trao đổi mẫu 136
Chương 10 Phương pháp xác định tên cây 137

10.1 Các thuật ngữ hình thái học 137
10.2 Phân loại các mẫu cây 137
10.3 Phân tích trước khi xác định 146
10.4 Sử dụng khóa để phân loại 147

10.5 Mô tả 148
10.6 Lập khóa xác định 149


7
Lời nói đầu
Thực vật Có hoa (Anthophyta) hay còn gọi là Thực vật hạt kín (Angiospermae) là một
trong những nhóm sinh vật đa dạng nhất, phổ biến nhất, bao phủ khắp bề mặt Trái Đất, từ
vùng xích đạo đến các cực, từ vùng mưa ẩm đến vùng khô hạn. Nó cũng là một trong những
nhóm sinh vật có ích nhất và có ý nghĩa quyết định sự sống còn của Trái Đất. Vì vậy, việc tìm
hiểu nó một cách chi tiết có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Việt Nam là dải đất cuối cùng của dãy Himalaya, nằm trên bờ biển phía Tây của Thái Bình
Dương giữa hai đại lục cổ Gondvana và Laurasia cho nên hệ thực vật Việt Nam khá đa dạng,
có nhiều nét đặc biệt. Do trải qua một thời gian dài nhân dân ta phải tiến hành cuộc chiến
tranh thần thánh vĩ đại để giải phóng đất nước cho nên việc nghiên cứu hệ thực vật nói chung
và thực vật Có hoa nói riêng chưa nhiều, chưa có tính hệ thống, nhiều loài và thậm chí nhiều
chi và họ còn bỏ sót, chưa được mô tả. Những kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây
của nhiều nhà thực vật trong nước cũng như quốc tế đã chứng minh điều đó.
Bước sang thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ đổi mới và phát triển của đất nước, việc nghiên
cứu hệ thực vật nói chung và thực vật Có hoa nói riêng bước sang một giai đoạn mới. Vì vậy,
để góp phần cho công tác nghiên cứu thực vật Có hoa trong giai đoạn mới, chúng tôi cho ra
mắt cuốn “Thực vật Có hoa” nhằm các mục đích sau:
• Giới thiệu những thông tin mới nhất về các hệ thống phân loại thực vật Có hoa.
• Giới thiệu những phương pháp tiếp cận mới nhằm giúp cho các nhà thực vật hòa nhập
với thế giới bên ngoài.
• Cung cấp những thông tin mới về các họ thực vật Có hoa, đặc biệt là những dấu hiệu
nhận biết làm cơ sở cho việc nhận dạng nhanh nhất, phục vụ cho nhu cầu ngày càng
tăng của xã hội, nhất là trong công tác đánh giá, bảo tồn, sử dụng một cách hợp lý và
phát triển bền vững nguồn tài nguyên đa dạng sinh học của hệ thực vật Việt Nam.
Do thời gian hạn ch

ế và thiếu nhiều tư liệu cập nhật nên cuốn sách không tránh khỏi những
sai sót, rất mong có sự đóng góp của bạn đọc gần xa.
Tác giả


8
Chương 1
Giới thiệu về Phân loại và hệ thống học thực vật
Nói đến phân loại thực vật chủ yếu nói đến thực vật có hoa bởi đây là nhóm sinh vật và nhóm
thực vật nói chung thịnh hành trên trái đất, là nhóm sinh vật có ý nghĩa quyết định sự sống còn của các
sinh vật khác trên hành tinh chúng ta trong đó có con người. Xuất phát từ nhóm thực vật có hoa, từ rất
lâu con người đã quan tâm đến chúng, sử dụng chúng cho cuộc sống kể từ thời nguyên thủy sơ khai và
từ đó buộc con người tìm cách nh
ận dạng chúng, đặt tên cho chúng để trao đổi giữa tộc người này với
tộc người khác. Khi khoa học tiến bộ các nhà nghiên cứu trên cơ sở những kinh nghiệm của các tộc
người khác nhau đã tìm cách tiếp cận với thiên nhiên và dần dần khoa học phân loại thực vật ra đời mà
trước hết là cây có hoa hay còn gọi là cây Hạt kín
1.1 Định nghĩa
Phân loại thực vật là một lĩnh vực rộng lớn liên quan đến việc nghiên cứu đa dạng thực vật và
việc xác định, đặt tên, phân loại và xem xét mức độ tiến hóa của thực vật.
Phân loại thực vật là sắp xếp các cây thành nhóm có cùng tính chất chung, đặt tên cho chúng và
sau đó sắp xếp các nhóm đó thành hệ thống theo một trật tự nhất định. Các loài tương tự của cây có
hoa được để trong cùng m
ột chi, các chi giống nhau để trong một họ. Các họ có các tính chất chung
gộp thành một bộ, các bộ gộp thành lớp và các lớp thành các ngành.
Phân loại thực vật là sắp xếp cây theo một trật tự các thứ bậc như là loài, chi, họ trên cơ sở các
đặc điểm chung, xây dựng mối quan hệ lẫn nhau. Đó được gọi là hệ thống học thực vật có hoa. Trước
đây, phân loại học chỉ dừng lạ
i ở chỗ nhận dạng và sau đó sắp xếp chúng thành những bậc taxôn khác
nhau mà không hề đề cập đến vấn đề huyết thống. Trong quá trình phát triển phân loại học không chỉ

dừng tại đó mà tiến sâu về xem xét huyết thống và khi đó phân loại học và hệ thống học có chung một
ý nghĩa như nhau.
Định loại là nhận biết một số tính chất của hoa, lá, quả, thân và gắn cho cây đó mộ
t cái tên. Nhận
biết xuất hiện khi quan sát mẫu có một số tính chất giống những cây đã biết trước đây. Khi so sánh
mẫu với các loài tương tự mà thấy rằng nó khác với mẫu của các loài đó thì khi đó có thể coi mẫu đem
so là loài mới.
Taxôn là một thuật ngữ để chỉ với bất kỳ nhóm phân loại của bất kỳ bậc nào như loài, chi, họ. Tên
gọi là sự biểu hiệ
n theo một trật tự các tên của taxôn tùy theo luật gọi tên thực vật quốc tế. Luật đó
cung cấp quy trình để lựa chọn tên đúng và cho tên mới.
Mô tả là thống kê các tính chất của cây. Mỗi tên cây phải kèm theo một bản mô tả. Thuật ngữ hệ
thực vật dùng cho những cây mọc trong một vùng địa lý riêng biệt được liệt kê theo thứ tự hoặc những
bảng mô tả những cây vùng đó.
1.2 Mục tiêu
Phân loại thực vật có bốn mục tiêu:
Thống kê thực vật của thế giới;
Cung cấp phương pháp xác định và thông tin;
Tạo ra hệ thống phân loại tổng hợp;


9
Chứng minh sự tiến hóa của đa dạng sinh vật.
Mặc dù thống kê hệ thực vật thế giới đã hoàn thành ở các vùng ôn đới Bắc bán cầu, nhưng còn
nhiều hệ thực vật còn chưa và chưa thể hoàn thành trong một thời gian ngắn, nhất là đối với vùng nhiệt
đới. Bên cạnh tên gọi, phải kèm theo bản mô tả, khóa xác định, bảng tra, hình vẽ, các cẩm nang và các
công bố khác nhằm giúp cho việc xác định mẫ
u vật. Công nghệ hiện đại là dùng máy tính để xác định.
Trong tương lai các chương trình máy tính có thể được dùng để xác định cây. Hiện nay các chương
trình này mới bắt đầu và trước hết truy nhập các tài liệu tham khảo nhờ máy tính sẽ tiết kiệm nhiều

thời gian so với việc làm bằng tay.
Kể từ khi học thuyết Đac Uyn ra đời, các nhà sinh học có thể chứng minh rằng các mắt xích tiến
hóa xuất hiện trong các taxôn. Sự phát triển hay các mắ
t xích tiến hóa của một taxôn là sự phát sinh
chủng loại chỉ ra rằng đa dạng loài và các mắt xích tồn tại không xảy ra tự phát mà có thể có một dạng
tổ tiên. Phân loại hiện đại cố gắng sử dụng các thông tin về cây để xây dựng cây phát sinh chủng loại.
Từ khi các thông tin về hóa thạch lẻ tẻ công bố, đặc biệt đối với cây có hoa, những thông tin đó phải
được tập hợp để tạ
o ra các giả thuyết liên quan tới tiến hóa.
1.3 Nhiệm vụ của nghiên cứu cây có hoa
Nhiệm vụ cơ bản của nghiên cứu thực vật có hoa trước hết phải phân loại, nghiên cứu các mối
quan hệ tiến hóa giữa các taxôn và đó là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu giá trị của chúng phục vụ cho
cuộc sống của con người. Hệ thống học cây có hoa không chỉ là một khoa học thuần tuý mô tả, lập các
danh mục mà là một môn tổng hợp của nhiều sự kiệ
n sinh học khác nhau, đôi khi tưởng chừng như
không có ý nghĩa từ phân tử đến cá thể, quần thể và hệ sinh thái, để xác định hướng tiến hóa của
chúng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu hệ thống học còn lâu mới có thể kết thúc bởi sự phong phú và đa
hình của chúng. Vì thế, hiện nay ở các nước nhiệt đới, hàng năm không chỉ có hàng trăm loài mới mà
cả hàng chục chi mới, thậm chí cả họ mới, ví dụ nh
ư ở Việt Nam chỉ mấy năm gần đây đã phát hiện và
mô tả một số chi mới và hàng trăm loài mới.
Nhiệm vụ tiếp theo là xác định mối quan hệ huyết thống giữa các bậc taxôn. Người ta gọi nó vừa
là nền tảng vì không có nó thì các lĩnh vực khoa học khác liên quan đến cây có hoa sẽ trở nên què
quặt, phiến diện, đồng thời nó là khâu kết nối cuối cùng của các khoa học khác về thự
c vật có hoa.
Nghiên cứu hệ thống học cây có hoa ngày càng có ý nghĩa lớn trong việc sử dụng tài nguyên muôn
hình muôn vẻ của chúng (sẽ giới thiệu ở mục 1.4).
Để tiến hành nghiên cứu hệ thống học cây có hoa, ngoài những phương pháp hình thái hay nói
cách khác, phương pháp phenôtíp, hiện nay người ta quan tâm nhiều tới phương pháp tiếp cận mới -
phương pháp genôtíp từ mức độ gián tiếp (kiểu nhân), mức độ cận trực tiếp (izoenzyme) đến trực tiếp

như trình tự sắp xếp của ADN. Khoa học hệ thống càng pháp triển, các phương pháp được sử dụng
ngày càng nhiều và càng đi vào bản chất của loài. Các phương pháp hiện đại sẽ hỗ trợ, làm chính xác
thêm và điều chỉnh cho những phương pháp truyền thống nhưng nó không thể thay thế cho phương
pháp truyền thống bởi yêu cầu thực tiễn quá đồ sộ đang ngày càng đòi hỏi nó.
Nhiệm vụ th
ứ 3 của việc nghiên cứu cây có hoa hiện nay là xây dựng một lý thuyết khoa học và
hệ thống nhận thông tin. Một sự phân loại hoàn hảo thể hiện ở hai chức năng: lý thuyết khoa học và hệ
thống nhận thông tin. Chức năng lý thuyết khoa học giải thích, cung cấp những bằng chứng có ích cho
trật tự nhất định của các bậc. Nếu chúng ta xác định 1 loài mới hay một taxôn bậc cao hơn loài thì
chúng ta có thể khẳ
ng định vị trí của nó trong hệ thống với các đặc điểm chính của nó.
Chức năng hệ thống thông tin: vì mỗi tên gọi 1 bậc taxôn tương tự như những chiếc chìa khóa của
các ngăn kéo khác nhau và ngược lại, việc xây dựng các khóa định loại cho ta xác định tên taxôn của
đối tượng mà chúng ta muốn. Vì thế việc phân loại và xây dựng các khóa phân loại là một phần nhiệm
vụ của hệ thống học. Nhờ
đó mà nó làm giảm gánh nặng cho các nhà thực vật khác khi thu thập thông
tin. Những thành tựu của các nhà sinh học khác liên quan đến thực vật sẽ không có ý nghĩa nếu như
những kết quả phân loại không đáng tin cậy. Việc hiểu biết chính xác các dấu hiệu của các loài khác
nhau và sự phân bố của chúng có ý nghĩa quyết định trong sinh học ứng dụng.


10
1.4 Giá trị của thực vật Có hoa
Vấn đề giá trị của thực vật có hoa đối với con người là xem xét chúng trị giá bao nhiêu tiền, hoặc
đáng giá bao nhiêu. Vì vậy khi đề cập đến giá trị của thực vật có hoa người ta đều tính mọi cái ra giá
trị tiền. Tuy nhiên khác với các giá trị khác ngoài tiền ra, thực vật có hoa có những giá trị vô cùng to
lớn mà không thể đánh giá bằng tiền được mà đúng hơn giá trị của chúng là vô giá. Bởi vì không có
thực vật có hoa trên Trái Đất của chúng ta thì sẽ
không bao giờ có sự sống. Khi đề cập tới vấn đề này,
Mc.Neely (1988), Mc.Neely et al. (1990) chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp.

Trong giá trị trực tiếp thuộc hai phạm vi tiêu thụ mang tính thương mại trên phạm vi quốc tế và tiêu
thụ trong phạm vi địa phương. Còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán.
Những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái t
ạo, giáo dục, nghiên cứu khoa
học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
1.4.1 Giá trị trực tiếp
1.4.1.1 Là nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm
Một trong những giá trị của thực vật có hoa là cung cấp thức ăn cho thế giới. 3000 loài trong số
250.000 cây được coi là nguồn thức ăn, 75% chất dinh dưỡng cho con người do 7 loài của Lúa, Mỳ,
Ngô, Khoai tây, Mạch, Khoai lang và Sắn, 3 loài đầu cung cấp hơn 50% chất dinh dưỡng cho con
người. Một số khác cung cấp thức ăn cho gia súc. Trong đó có trên 200 loài được thuần hóa để làm
thức ăn, 15 - 20 loài là cây trồ
ng quan trọng Poaceae và Leguminosae là hai họ lớn nhất tiếp theo là
Cruciferae, Rosaceae, Apiaceae, Solanaceae, Lamiaceae. Một số họ có ý nghĩa khác như Araceae,
Chenopodiaceae, Cucurbitaceae và Compositae.
ở mức độ địa phương tài nguyên thực vật đã cung cấp nguồn dinh dưỡng cần thiết. ở Pêru quả
139 loài đã được tiêu thụ, trong đó 120 loài là hoang dại, 19 có nguồn gốc từ hoang dại và từ trồng.
Ngoài các loài khác có thể ăn được, hàng chục loài cây lương thực, thực phẩm mới phát hiện.


11

1.4.1.2 Nguồn cung cấp gỗ
Gỗ là một trong những hàng hóa quan trọng trên thị trường thế giới chiếm tỷ lệ lớn trong các mặt
hàng xuất khẩu. Năm 1959, tổng cộng giá trị toàn cầu của gỗ xuất khẩu là 6 tỷ USD phần lớn lấy từ
vùng ôn đới. Những nước xuất khẩu gỗ lớn là Mỹ, Nga, Canada xuất gỗ tròn, gỗ xẻ; Mỹ, Nga, Anh và
Phần lan xuấ
t gỗ ép. Các nước nhiệt đới xuất khẩu gỗ nhiều là Malaixia, Papua-Niu Ghinê, Gabon
xuất gỗ tròn, Malaixia và Inđônêxia xuất gỗ xẻ và gỗ ép. Các nước đang phát triển việc thu nhập từ gỗ
chiếm tỷ lệ thấp. Nghiên cứu ở Amazôn cho thấy rằng loài cây gỗ rừng mưa trong khu nghiên cứu

được dùng ngoài củi đun (Prance et al., 1987).
1.4.1.3 Nguồn cung cấp song mây
Sau gỗ, song mây là nguồn tài nguyên quan trọng thứ 2 để xuất khẩu. Hầu h
ết là các loài mọc
hoang ở Nam và Đông Nam á. Các nước có công nghiệp song mây lớn là Phillipin, Trung Quốc, ấn
Độ, Srilanca và Thái Lan. Trung tâm đa dạng của song mây là bán đảo Malaixia với 104 loài trong đó
38% là đặc hữu.
1.4.1.4 Nguồn cung cấp chất đốt
Chất đốt không phải là nhân tố quan trọng đối với phá rừng mà hầu hết chất đốt lấy từ savan, rú
bụi, đất nông nghiệp (Eckholm và cs., 1984; Myer, 1980). Tuy nhiên về củi đốt đang tăng nhanh vì
dân số đang tă
ng. Giá trị tiêu thụ chất đốt cũng có thể tính số củi đốt dùng để sưởi và đun nấu được lấy
từ rừng, trảng cây bụi.
1.4.1.5 Nguồn cung cấp thuốc chữa bệnh
Theo Farnswarth (1988) có tới 80% người dân trên thế giới sử dụng thuốc truyền thống. Khoảng
119 chất hóa học tinh khiết lấy từ 90 loài thực vật có hoa khác nhau được dùng làm thuốc trên toàn thế
giới. Một số
trong đó cung cấp cơ sở cho 24 - 25% tất cả vị thuốc sản xuất trong nhà máy ở Mỹ trong
20 năm qua. Trên 40% đơn thuốc ở Mỹ dựa vào nguồn thiên nhiên. ở phạm vi địa phương cây thuốc
được sử dụng rất rộng rãi. Người ta đã thống kê trên 21.000 tên cây đã được thông báo là làm thuốc
trên phạm vi toàn thế giới trong đó khoảng 5.000 loài thực vật có hoa đã được nghiên cứu toàn diện
như là nguồn tiề
m năng của thuốc mới. Trên 80% dân số các nước đang phát triển sống dựa chủ yếu
vào các cây thuốc. Cây thuốc phiện thu hoạch từ hoang dại là chính. Ví dụ, ở Đức 2/3 loài được dùng
làm thuốc lấy từ hoang dại. Một số cây thuốc lớn được trồng như Gentiana lutea, Valeriana mexicana,
Echinala arnica, chỉ mới bắt đầu 20 năm nay.
Một số cây có giá trị quan trọng nhất trong buôn bán là Papaver spp., Cinchona spp., Chamomilla
recutita, Mentha piperata (Schumacher, 1991). Digitalis purpurea cho digitalin và D. laurata cho
digitoxin là hai glucosit (chất kích thích) rất quan trọng nh
ờ nó mà hàng triệu người sống sót. Quinin,

một alcaloit từ vỏ Cinchona lần đầu tiên vào năm 1820 được dùng thành công trong chữa sốt rét. Chất
diosgenin lấy từ cây Dioscorea deltoidea mọc ở chân Himalaya, thuộc Bắc ấn.
1.4.1.6 Nguồn cung cấp cây cảnh
Trong cây cảnh có nhiều dạng khác nhau trước hết là những cây lấy hoa. Nổi tiếng phải kể đến
hoa Lili. Nó đã được trồng ở Trung Quốc với mục đích làm cảnh và làm thuốc đã 2000 n
ăm nay.
Trong thời kỳ Hy Lạp, hoa Hồng, hoa Lili, hoa Tím, Anemone đã được trồng ở châu Âu, ở Anh có
3000 loài được trồng phổ biến và nhiều thứ khác nhau. Tổng xuất khẩu thế giới về hoa Cúc, lá Cúc và
cây dáng là 2.488 triệu USD trong năm 1985. Giá trị buôn bán thế giới về hoa và cây từ 1981-1985
trung bình nhập hoa cắt 1238,79 triệu USD và nhập cây sống 915,76 triệu USD, nhiều nhất là Đức, sau
đó là Mỹ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ và Thụy Điển. Xuất khẩu hoa cắt 1101,79 triệ
u USD nhiều nhất là Hà
Lan, tiếp theo là Côlômbia, Ixraen và ý và xuất cây sống 8882,15 triệu USD nhiều nhất là Hà Lan,
Đan Mạch và Đức. Bên cạnh những hoa truyền thống đó, các loại Phong lan là nguồn cây cảnh có giá
trị lớn được mọi ngươì ưa thích vì thế nhiều loài đang bị khai thác kiệt quệ. Đến nay có trên 5.000 loài
lan được CITES ghi nhận cấm buôn bán trên phạm vi toàn thế giới. Khoảng 90% Phong lan buôn bán


12
là nuôi nhân tạo. Nước buôn bán lớn nhất là Thái Lan (Dendrobium). Hai chi Paphiopedilum ở châu á
và Phramipedium đang bị nguy cấp cần được bảo vệ. Nhu cầu cây cảnh vùng khô hạn nổi tiếng là các
loại xương rồng làm cảnh, hàng năm có khoảng 14 triệu cây được đem bán trên phạm vi toàn thế giới.
Nơi nuôi trồng nhiều nhất là ở Hà Lan đã sản xuất 18 triệu cây/năm, còn ở Mỹ buôn bán 10-15 triệu
cây. Mêxicô là một trong những trung tâm chính của sự đa dạng c
ủa họ này xuất khẩu khoảng 50.000
chồi hàng năm. Các cây mọng nước khác gồm các loài Euphorbia, Pachypodium cũng được buôn bán
trên thị trường quốc tế. Một trong những nước chính là Madagasca hàng năm xuất khẩu khoảng
135000 chồi tất cả là từ hoang dại. Cuối cùng những loài có căn hành cũng đã được sử dụng làm cảnh
từ xa xưa như Narcissus có 40 loài ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Năm 1987, Anh xuất 87 triệu dò
Narcissus khoảng 4 triệu b

ảng Anh. Một số trong đó N. asturiensis và N. cyclamineus được xuất sang
Hà Lan để tái xuất cho toàn thế giới. Nguồn chính dạng hoang dại là Thổ Nhĩ Kỳ.
1.4.2 Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh vật
1.4.2.1 Sản phẩm của hệ sinh thái - điểm khởi đầu của chuỗi thức ăn của hệ sinh thái
Khả năng quang hợp của cây nói chung và cây có hoa nói riêng đã lấy năng lượng mặt trời để tạo
các sản phẩm cho loài người. Đó cũng là điểm xuất phát của một chuỗi thức ăn không thể tính được và
từ đó dẫn đến những sản phẩ
m của động vật, là nguồn thức ăn cho con người. Do đó việc phá thảm
thực vật có hoa bằng các cách khác nhau như dẫm đạp quá mức, khai thác quá mức về gỗ, đốt rừng
quá nhiều sẽ hủy diệt khả năng sử dụng ánh sáng mặt trời và cuối cùng làm mất đi sự sản xuất sinh
khối của thực vật và mất đi cả xã hội động vật, kể
cả con người (Likens et al., 1977).
1.4.2.2 Giá trị về môi trường
a. Bảo vệ nguồn nước
Cây có hoa tạo ra các hệ sinh thái chính trên Trái Đất, có vai trò quan trong trong việc bảo vệ
nguồn nước cho các sinh vật trên Trái Đất tồn tại, hạn chế lũ lụt và hạn hán. Tán lá, thân cây, lá khô
làm giảm tốc độ hạt nước rơi xuống đất, hạn chế sự tác động trực tiếp lên bề mặt đất tức là để ngăn
c
ản dòng chảy. Rễ cây cùng với hệ động vật đất làm cho đất tơi xốp, tăng độ thông khí, tăng độ thấm
của nước cũng góp phần làm giảm dòng chảy, phân bố lượng nước từ ngày này qua ngày khác. Theo
Daniel và Kulasingham (1974), rừng trồng Cao su, Cọ dừa ở Malayxia chỉ giữ được một lượng nước
nhỏ trong lúc đó rừng tự nhiên giữ nước suốt trong mùa khô lớn hơn hai lần so với rừng tr
ồng. Những
hiện tượng lụt đột ngột và khủng khiếp ở Bănglađet, Philippin, Thái Lan và gần đây ở Việt Nam là kết
quả của việc chặt phá rừng.
b. Bảo vệ đất đai
Thảm cây có hoa nói riêng và thảm thực vật nói chung làm nhiệm vụ bảo vệ và giữ đất, đến lượt
nó lại là cơ sở cho xã hội sinh vật phát triển. Rễ cây, thảm mục trên mặt
đất cũng tham gia vào việc
chống xói mòn đất.

c. Điều hòa không khí
Cây có vai trò quan trọng hạn chế tốc độ gió, làm giảm độ nóng của các tòa nhà trong mùa nóng
và hạn chế sự mất nhiệt trong mùa lạnh. ở mức độ vùng, sự bốc hơi của cây vào không khí để tạo ra
mưa. Mất rừng sẽ làm giảm lượng mưa hàng năm gây ra hiện tượng savan hay sa mạc hóa. ở mức độ
toàn cầu, cây đảm bảo cho chu trình CO
2
. Mất rừng làm cho CO
2
tăng lên cao và dẫn đến tăng nhiệt độ
của khí quyển. Cây cũng là nguồn tái tạo O
2
mà các loài động vật và người rất cần đến để tồn tại
d. Làm sạch môi trường
Giá trị làm sạch môi trường được thể hiện bằng các loài chỉ thị cho môi trường đã giúp cho việc
bảo vệ môi trường trong sạch. Nhiều loài thực vật có khả năng hút các kim loại nặng làm sạch môi
trường. Một số cây sống ở nước như Bèo tây, Bèo cái cũng có khả năng hấp thụ kim loại
độc, các
hóa chất độc.


13
1.4.2.3 Mối quan hệ giữa các loài
Nhiều loài cây rất cần cho con người. Nếu các loài đó bị mất sẽ ảnh hưởng tới con người. Một ví
dụ các cây trồng, cần côn trùng, chim để thụ phấn, và đến lượt mình côn trùng lại cần cây để lấy thức
ăn từ mật hoa hay hoa quả và thậm chí cả những ký sinh trùng và sâu bệnh hại cây. Nhiều loài cây phụ
thuộc vào các loài động vật ăn quả như chim, dơ
i để phát tán hạt giúp chúng và ngược lại các loài
động vật lại cần hoa quả và hạt từ các loài cây.
Một ví dụ điển hình các loài cây cung cấp cho đất chất dinh dưỡng nhờ các vi khuẩn, nấm phá
hủy các xác thực vật để lấy năng lượng và thải các muối khoáng vào làm cho đất tốt lên, là nguồn thức

ăn cho cây. Các sợi nấm làm tăng khả năng hấp thụ của rễ cây đối với nước và muối khóang còn m
ột
số vi khuẩn hút nitơ không khí giúp cho cây hấp thụ, cuối cùng đến lượt cây lại giành một phần thức
ăn cho vi khuẩn đó tồn tại. Cây có hoa là những nhà máy hóa chất đặc biệt và một vài hóa chất của
chúng được cách mạng hóa một số quá trình. Ví dụ như Steroit từ củ ở Mexico đã tạo viên thuốc để
tạo ra các nhân tố kiểm tra sinh đẻ hàng loạt
1.4.2.4 Giá trị tiêu khiển, giải trí
Sự
đa dạng của các loài thực vật nhất là thực vật có hoa đã tạo ra những cảnh quan khác nhau như
vừa có rừng rậm, rừng thưa, rừng rụng lá, rừng khô, các loại trảng khác nhau rất đa dạng và do đó đã
tạo nên những cảnh quan hấp dẫn, những hình thù kỳ dị và đẹp mắt hàng năm đã thu hút hàng triệu
người đi tham quan du lịch sinh thái. Khi điều kiện sống càng cao thì nhu cầu tham quan du l
ịch sinh
thái càng đòi hỏi, vì vậy các cảnh quan thiên nhiên là hết sức quan trọng. Ví dụ 80% người Canađa,
một năm sử dụng 800 triệu đô la để tham gia các đoàn tham quan (Fillon và cs., 1985); ở Mỹ 100 triệu
người già và với con số trẻ con tương tự đã đi tham quan mỗi năm tiêu 4 tỷ đô la (Shaw and Mangun,
1984). Như vậy, việc du lịch sinh thái đã tăng lên một cách chưa từng thấy. Đó là giá trị của đa dạ
ng
cây có hoa và những cảnh quan do chúng tạo ra.
1.4.2.5 Giá trị khoa học và đào tạo
Nền công nghiệp ngày càng phát triển, diện tích rừng ngày càng bị phá hủy nhất là các rừng
nguyên sinh mà nhiều nơi, nhiều nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu và nghiên cứu cũng không còn.
Những khu bảo tồn mà hiện nay các quốc gia đang bảo vệ là một tài sản không những quý về nguồn
tài nguyên phục vụ trước mắt, về nguồn gen để tạo giống cho các th
ế hệ mai sau, là nơi để bảo vệ môi
trường cực kỳ có hiệu quả và đa năng mà chúng còn là địa bàn để phục vụ cho nghiên cứu khoa học để
tìm hiểu thiên nhiên, tìm những bí ẩn trong đó đến nay con người vẫn chưa biết được. Các nhà văn,
nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim đã nhờ vào rừng núi và tính đa dạng các sinh vật của chúng để
sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bất hủ
phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người ngày

càng nâng cao. Nhiều bộ phim, nhiều cuốn sách, nhiều chương trình tivi đã dựa trên các mặt khác
nhau của đa dang sinh vật đã ra đời.
1.4.3 Giá trị lựa chọn cho tương lai
Hiện nay người ta đang chuẩn bị tìm những loài để phục vụ cho chữa bệnh hiểm nghèo như ung
thư, HIV. Hiện nay, các loài thực vật nhất là cây có hoa có chứa nhiều thành phần hóa học mà cho đến
nay chưa được phát hiện. Việc nghiên cứu và ứng dụng các thành phần hóa học rất có triển vọng trong
tương lai. Thuốc chống sốt rét được điều chế từ một số cây trong các họ Simaroubaceae, Celastraceae,
Saxifragaceae, Meliaceae. Nhiều loài có nh
ững sản phẩm y học độc đáo, có hoạt tính sinh học cao
được phát hiện ngày càng nhiều.
Qua phân tích các cây ở Vườn quốc gia Cúc Phương, 27 loại metanol được chiết từ 22 loài cây;
24 loài có hoạt tính chống sốt rét, 4 trong số đó được chứng minh chống cả Plasmodium falciparum
D6 (Chloroquine - sensitive) và W2 (Chloromine resistant) với giá trị IC70 dưới 10 ig/ml trong mọi
trường hợp. Ngoài ra, chúng còn loại bỏ một số các tế bào độc. Khi thí nghiệm chống 14 dòng tế bào u
ở người, các chất chiết bằng metanol từ
lá và vỏ Ficus fistulosa thể hiện hoạt tính chống sốt rét có giá
trị. 13 chất chiết lấy từ 12 loài đã được thử khả năng chống HIV. Chất chiết từ Ficus glandulifera,


14
Bischofia javanica, Shorea chinensis, Dracontomelum duperreanum có hoạt tính sinh học mạnh. Qua
phân tích các chất chiết của thực vật từ nguyên liệu Việt Nam và 350 chất chiết từ các nơi khác trên
thế giới đã cho thấy các chất có hoạt tính sinh học cao (17%).
Rõ ràng, trong cây có hoa còn chứa nhiều điều bí ẩn mà chưa được khám phá. Có thể nói đây là
nguồn tài nguyên tiềm ẩn, cho đến nay, ít được biết đến. Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ
cho các thế hệ mai sau.


15
Chương 2

Lịch sử phát triển của Phân loại học thực vật có hoa
2.1 Thời tiền sử
Con người đã biết phát hiện các loài cây để ăn, để chữa bệnh và từ đó họ đã biết sử dụng
đem trồng một số loài quan trọng. Tùy theo yêu cầu, họ đã chọn các loài có mùi vị thơm ngon
để làm rau hoặc loài có sản lượng cao đối với cây lương thực. Những nghiên cứu hiện nay đã
chỉ ra rằng người nguyên thủy ở các vùng xa xôi hẻo lánh đã nhận biết và đã đặt những tên
chính xác đối với phần lớn các loài cây nơi họ sống. Một số trong họ luôn luôn dùng cây để
ruốc cá, hay làm tên độc, một số khác dùng làm thuốc để chữa bệnh như chữa vết thương,
cảm, hay để gây ngủ Việc phân loại của người tiền sử ít nhất dựa trên mục đích có lợi hay
có hại của cây.
2.2 Nền văn minh sơ khai của Tây Âu
Nền văn minh sơ khai của Tây Âu phát triển trong các vùng như Babylon và ả Rập, ở
đây việc trồng trọt đã bắt đầu. Từ nền công nghiệp đã giúp cho nền văn minh đó cẩm nang
thực vật có một tầm quan trọng lớn. Tuy nhiên đến khi chữ viết phát triển và các nguyên liệu
giấy được làm từ Cói sông Nil (Cyperus papyrus) thì những kinh nghiệm và kiến thức về cây
cỏ có thể nhận biết một cách dễ dàng.
2.2.1 Theophrastus (370 - 285 trước Công nguyên)
Nhà triết học Theophrastus là học trò của Aristotele thường được gọi là “Người cha của
thực vật học". Sau khi Aristotele chết (năm 323 trước Công nguyên), Theophrastus thừa
hưởng thư viện và vườn của Aristotele. Theophrastus nổi tiếng với hàng trăm bản thảo nhưng
chỉ có hai bài phát biểu về thực vật sống mãi “Enquiry into Plants” và “The Causes of Plants”.
Theophrastus đã phân loại các cây thành cây thảo, cây nửa bụi và cây gỗ, ông đã mô tả
khoảng 500 loài cây khác nhau, ông chỉ ra nhiều sai khác trong cây như kiểu tràng, vị trí bầu
và cụm hoa. Tác giả đã phân biệt cây có hoa và cây không có hoa. Ông cũng nhận thấy đặc
điểm cấu trúc như vỏ ngoài của quả, sự tách biệt các mô. Những thông tin về thực vật trong
các bài viết của Theophrastus tạo nên tiếng vang lớn và mang tính triết lý. Những đóng góp
đầu tiên của công trình đã không thay đổi cho tới thời kỳ sau thời Trung cổ. Nhiều tên cây
hiện nay bắt nguồn từ thời Theophrastus.
2.2.2 Caius Plinius Secundus (Pliny the Elder) (23 - 79 sau công nguyên)
Plinius, một nhà tự nhiên học và nhà văn La Mã, một nhân vật quan trọng trong chính

phủ và quân đội. Ông đã cố gắng hoàn thành 37 tập Bách khoa toàn thư với đầu đề “Historia
Naturalis” (Lịch sử tự nhiên), quan trọng là các tập đó nói về cây thuốc. Mặc dù còn chứa
nhiều nhược điểm nhưng đã ảnh hưởng lớn đến thực vật học ở châu Âu cho tới sau thời Trung
cổ.


16
2.2.3 Pedanios Dioscorides (Thế kỷ thứ nhất sau công nguyên)
Nhà phẫu thuật quân đội La Mã Dioscorides là nhà thực vật quan trọng nhất sau
Theophrastus. Cùng với quân đội, đi khắp nơi ông ta đã có những hiểu biết về cây cỏ dùng
làm thuốc. Nổi bật nhất trong việc cải tiến việc phục vụ y tế trong chế độ La Mã, Dioscorides
đã chuẩn bị một cuốn sách nổi tiếng “Materia medica”, đã mô tả 600 loài cây thuốc. Về sau đã
bổ sung những hình vẽ lý tưởng cho cuốn sách. Cuốn sách này đã được nghiên cứu 1500 năm
nay, không có một vị thuốc nào được công nhận là chính thức trừ những vị được cuốn sách
đặt tên.
Một bản sao nổi tiếng và đẹp nhất được chuẩn bị khoảng 500 năm sau công nguyên đối
với Hoàng đế Flavius Olybrius Anicius làm quà cho con gái, Công chúa Juliana. Bản nguyên
gốc hiện nay còn lưu ở Viên (Dioscorides, 1959). Nhiều tên được Dioscoride dùng nay vẫn
còn giá trị. "Materia medica" chứa các loài cây ít hơn các công trình của Theophrastus nhưng
tính hữu ích của nó về cây thuốc được coi như là một công trình vô giá cho tới cuối thời
Trung cổ.
2.3 Thời Trung cổ
Suốt thời trung cổ ở châu Âu, những nghiên cứu khoa học về thực vật hầu như giậm chân
tại chỗ, các cuộc chiến tranh và sự suy tàn của đế chế La Mã gây ra sự phá hoại rất lớn trong
văn học. Nhiều bản thảo bị mất, những kiến thức về thực vật chỉ giới hạn ở những công trình
được biết trước đây của Theophrastus, Plinius và Dioscorides.
2.3.1 Thực vật học đạo Hồi
Từ khoảng năm 610 đến 1100 sau Công nguyên, một vài công trình thực vật cổ điển được
bảo vệ bởi đạo Hồi bởi vì các học giả đạo Hồi rất ngưỡng mộ các học giả Aristotele và các
học giả Hy Lạp khác. Từ lòng yêu thích khoa học của họ đối với thiên nhiên thì dược học và y

học của người đạo Hồi phát triển rất cao. Những nhà thực vật đạo Hồi đã thành lập các danh
mục cây thuốc nhưng những sơ đồ phân loại nguyên gốc đó đã không được phát triển.
2.3.2 Albertus Magnus, (Bác sĩ tổng hợp) (1193 - 1280)
Albertus Magnus đã viết về lịch sử tự nhiên và về cây thuốc suốt thời Trung cổ. Công
trình thực vật của ông “De Vegetabilis ” không chỉ giải quyết với các cây thuốc như các công
trình trước đây ở Hy Lạp và La Mã mà còn kèm theo bản mô tả các cây, đó là những bản mô
tả tuyệt vời, dựa trên những quan sát đầu tiên về cây. Tác giả đã cố gắng phân loại các cây
trên cơ sở cấu trúc thân, sự khác nhau giữa một và hai lá mầm và tin tưởng lần đầu tiên sẽ
được thừa nhận. Khi thời kỳ phục hưng bắt đầu đã làm sống lại khí thế khoa học và những
thích thú về thực vật tăng lên. Sự in ấn về phát minh đã cho phép nhiều cuốn sách thực vật
học được xuất bản. Đó là một điều kiện lớn hơn so với các bản thảo chép tay trước đây. Các
cuốn sách xuất bản với những bản mô tả và hình vẽ làm bằng gỗ hay kim loại mục đích dùng
để xác định các cây thuốc. Những cuốn sách đó hay các cây cỏ được dùng để thu thập và thu
hái cây thuốc. Những người làm việc được được gọi là các bác sĩ hay thầy thuốc. Các thầy
thuốc viết vì mục đích cho người sử dụng.
2.3.3 Những nhà nghiên cứu thực vật Đức

×