Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ CHỦNG NẤM SỢI THUỘC CHI ASPERGILLUS VÀ PENICILLIUM TỪ RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ TP. HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 118 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Võ Thị Bích Viên







KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ
CHỦNG NẤM SỢI THUỘC CHI ASPERGILLUS VÀ
PENICILLIUM TỪ RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ
TP. HỒ CHÍ MINH





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Chuyên ngành
:


Vi Sinh Vật
Mã số: 60 42 40







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THANH THUỶ







Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI
C
C


M
M
ƠN






Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thanh Thủy đã hết
lòng hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề
tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Giáo dục đào tạo tỉnh Khánh Hoà,
Trường THPT Ngô Gia Tự - Khánh Hoà đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt
thời gian học.
Tôi xin chân thành cám ơn Thầy Cô trong bộ môn Vi sinh, quý Thầy
Cô trong khoa Sinh học, cùng toàn thể quý Thầy Cô đã tận tình giảng dạy
trong suốt khoá học.

Tôi xin chân thành cám ơn phòng KHCN – SĐH Trường ĐH Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa
học.
Tôi xin chân thành cám ơn những người thân trong gia đình, bạn bè
đã động viên và tạo mọi điều kiện thuân lợi cho tôi trong suốt thời gian qua.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời cám ơn đến các bạn cùng khoá, các học
viên SĐH Khóa 18 chuyên ngành Vi sinh vật đã tận tình gi
úp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2009


Võ Thị Bích Viên





D
D
A
A
N
N
H
H


M
M


C
C


C
C
Á
Á
C
C


C
C
H

H




V
V
I
I


T
T


T
T


T
T


BT Bào tử
BTT Bào tử trần
CMC Carboxyl methyl cellulose

CN Công nghiệp
ĐK Đối kháng
ĐV Động vật

HST Hệ sinh thái
KL Khuẩn lạc
KS Kháng sinh
MT Môi trường
NXB Nhà xuất bản
RNM Rừng ngập mặn
SV Sinh vật
TV Thực vật
VK Vi khuẩn
VSV Vi sinh vật
VSVKĐ Vi sinh vật kiểm định




M
M




Đ
Đ


U
U


Nấm sợi hay còn gọi là nấm mốc, phát triển rất nhanh trên nhiều nguồn cơ

chất hữu cơ khi gặp điều kiện khí hậu nóng ẩm. Trong tự nhiên, nấm sợi phân bố
rất rộng rải và tham gia tích cực vào các vòng tuần hoàn vật chất, nhất là quá trình
phân giải chất hữu cơ hình thành chất mùn.
Ngoài ra, có rất nhiều loài nấm sợi được sử dụng rộng rải trong CN chế biến
thực phẩm (
làm tương, nước chấm…), trong CN enzim (sản xuất amilaza,
proteaza, cellulaza…), CN dược phẩm (sản xuất KS, steroid…), sản xuất thuốc trừ
sâu sinh học, kích thích tố sinh trưởng TV, sản xuất sinh khối nấm sợi để phục vụ
chăn nuôi và dinh dưỡng cho người (mycoprotein), dùng nấm sợi để xử lý ô nhiễm
MT. [4]
Bên cạnh đó còn có nhiều loài nấm sợi ký sinh trên người, ĐV, TV gây ra
nhiều bệnh khá nguy hiểm. Nhiều nấm sợi sinh ra các độc tố nấm có
thể gây ra
bệnh ung thư và nhiều bệnh khác. Nấm mốc còn có thể phát triển, sinh axít và làm
mờ các vật liệu vô cơ (thấu kính ở ống nhòm, kính hiển vi và một số dụng cụ
quang học khác)
Để tận dụng tối đa nguồn lợi to lớn từ nấm sợi đồng thời hạn chế các tác hại
do nấm sợi gây ra, con người đã tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
nấm sợi. Trước đây, các nhà nghiên cứu thường tập trung tì
m hiểu nấm sợi phân
bố ở đất liền. Những năm gần đây, con người mới nhận thấy hết được tầm quan
trọng của hệ sinh thái RNM - HST có năng suất sinh học cao nhất trong các HST.
Với điều kiện sinh thái của RNM con người có thể nghiên cứu khả năng chịu đựng
và phục hồi của các tổ hợp gen.
Có thể tìm ra được các chủng nấm sợi có hệ gen
bền vững mang nhiều đặc tính có lợi cho con người.
Nhiều loài thuộc chi Aspergillus và Penicillium phân bố rộng rải trên rất
nhiều loại cơ chất tự nhiên, phổ biến khắp nơi trên trái đất. Theo E. Kister, M.
Morelet (2000) thì ước tính số lượng loài hiện biết của chi Penicillium là khoảng
233 loài, chi Aspergillus khoảng 185 loài.[52] Sự phong phú và đa dạng trong

thành phần loài của chúng sẽ mang
lại những lợi ích sinh thái và kinh tế vô cùng to
lớn. Bên cạnh đó là những tác hại không nhỏ, cùng với những khó khăn trong công
tác phân loại, hệ thống hai chi nấm này.
Trong hệ sinh thái RNM Cần Giờ hai chi Aspergillus và Penicillium có vai
trò rất quan trọng, tham gia vào phân huỷ nhanh xác TV, ĐV, góp phần khép kín
chu trình vật chất nhờ có khả năng sinh ra các enzim như cellulaza, proteaza,
amilaza, kitinaza để phân giải các hợp chất hữu cơ trong MT. Ngoài ra, nấm sợi
còn có khả năng phân giải các hợp chất hydrocacbon giúp bảo vệ MT, nấm sợi còn
có khả năng sinh ra KS... Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về phân loại,
ứng dụng của chi Aspergillus và
Penicillium khá nhiều và chỉ tập trung trên đất
liền. Rất hiếm có nghiên cứu về hai chi này trên biển hay RNM. Cho đến nay, chưa
có một công trình khoa học chính thức có hệ thống về VSV, đặc biệt khu hệ nấm
sợi ở RNM Việt Nam nói chung, RNM Cần Giờ nói riêng. Để góp phần nâng cao
hiểu biết giá trị tài nguyên sinh học từ RNM, đặc biệt là khu hệ nấm sợi chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát đặc điểm sinh học một số chủng nấm sợi
thuộc chi Aspergillus và Penicillium từ Rừng ngập mặn Cần Giờ, Thành phố
Hồ Chí Minh”.
Mục tiêu của đề tài nhằm tìm hiểu tính đa dạng và vai trò của một số chủng
nấm sợi thuộc chi Aspergillus và Penicillium ở RNM Cần Giờ Tp. Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ của đề tài
+ Phân lập các chủng nấm sợi thuộc ch
i Aspergillus và Penicillium ở RNM
Cần Giờ .
+ Khảo sát một số đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi phân lập được.
+ Từ các chủng phân lập được tuyển chọn ra các chủng có các đặc điểm nổi
bật. Bước đầu nhận xét sơ bộ về đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi thuộc
chi Aspergillus và Penicillium.

Đề tài được tiến hành từ t
háng 9 năm 2008 đến tháng 7 năm 2009 tại phòng
thí nghiệm Sinh hoá – Vi sinh, khoa Sinh, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh.
P
P
H
H


N
N


I
I
:
:


T
T


N
N
G
G



Q
Q
U
U
A
A
N
N


T
T
À
À
I
I


L
L
I
I


U
U



1.1 Rừng ngập mặn Cần Giờ

Rừng ngập mặn (RNM) là một trong những HST quan trọng của hệ thống
đất ngập nước. RNM là một HST đặc biệt

với những điều kiện sinh thái đặc trưng

là khí hậu nóng, đất mặn ngập nước quanh năm, hoặc có thuỷ triều lên xuống,
thường xuyên thiếu khí và oxy khi ngập nước,

đất chưa ổn định. Với MT đó, một
quần hợp TV không họ hàng với nhau nhưng có những đặc tính sinh lý giống
nhau, thích nghi sinh thái giống nhau tạo nên một kiểu rừng được gọi là RNM. Ở
miền Nam, Việt Nam RNM còn được gọi là Rừng sát, tiếng Anh gọi là Mangrove.
Danh từ Mangrove rất thông dụng trên thế giới.
Trên thế giới, RNM thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt
Nam
,
RNM đã từng bao phủ diện tích khoảng 400,000 ha vào năm 1943
(Maurand, 1943). Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh,
chuyển đổi mục đích sử dụng, đốn củi, đã làm cho diện tích RNM ngày càng thu
hẹp. Hơn 60 năm qua, trên 80% diện tích RNM bị tàn phá hoặc suy giảm chất
lượng (worldbank, 2003). Đặc biệt trong những năm 1995 trở lại đây, RNM bị thu
hẹp một cách nhanh chóng nguyên nhân do con người đã phá RNM để nuôi
tôm.[10]

Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu sông Đồng
Nai – Sài Gòn nằm ở cửa ngõ Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh:
RNM Cần Giờ
giới hạn bởi các đoạn sông, rạch, tắc: sông Soài Rạp, sông
Vàm Sát- rạch Đôn- tắc An Nghĩa- sông Lòng tàu, tắc Rổi- sông Đồng Tranh- tắc
Nước Hội- sông Thị Vải- sông Gò Gia- sông Cái Mép và biển Đông, từ bắc xuống

Nam dài 28km, từ Đông sang Tây dài 30km.
Thổ nhưỡng phát triển trên một đầm mặn mới, do phù sa sông Sài Gòn và
sông Đồng Nai mang đến và lắng đọng tạo thành nền đất. Đất Cần Giờ được cấu
tạo bởi quá trình trầm
tích sét, quá trình phèn hoá và quá trình nhiễm mặn.
Khí hậu Cần Giờ nóng ẩm và chịu chi phối của qui luật gió mùa cận xích
đạo với hai mùa mưa nắng rõ rệt.
Lượng mưa: thấp nhất TP. Hồ Chí Minh, trung bình 1300 – 1400mm/năm,
mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10, lượng mưa thường
tập trung vào tháng 6 và tháng 9.

[35]
- Chế độ nhiệt: Biên độ nhiệt trong ngày từ 5 – 7
0
C, nhiệt độ trung bình
25,8
0
C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 18,8
0
C, nhiệt độ cao tuyệt đối 35
0
C.
[35]

- Độ ẩm không khí: cao hơn các nơi khác trong TP. Hồ Chí Minh, mùa mưa
độ ẩm từ 79 – 83%, mùa khô độ ẩm từ 74 – 77%, ẩm nhất vào tháng 9, khô nhất
vào tháng 4.
[36]

- Chế độ thuỷ triều: chế độ bán nhật triều không đều, hai lần nước lớn và hai

lần nước ròng trong ngày. Các tháng có đỉnh triều cực đại là tháng 10 và tháng 11,
đỉnh triều thấp nhất là tháng 4 và tháng 5.
[36]

- Độ mặn:

trung bình từ 1,5 – 2,5% , tùy theo khu vực có thể lên đến 18%
[13],

lớn nhất khi triều cường và nhỏ nhất khi triều kém, nước mặn xâm nhập sâu
vào tháng 4 và bị đẩy xa vào tháng 9 và tháng 10.
* Khu hệ thực vật
Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ có trên 150 loài TV, các loài chủ yếu
như bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi - bần trắng cùng sú, ổi, trang,
đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, các quần hợp mái dầm – ô rô, dừa lá,
ráng, v.v… Thảm cỏ biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và
Thalassia sp.; đất canh tác nông nghiệp với lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa v.
v…;
các vườn cây ăn trái. [34]
* Khu hệ động vật
Theo khảo sát sơ bộ của dự án khả thi khu bảo tồn tự nhiên RNM Cần Giờ
năm 1999, kết quả:
+ Khu hệ ĐV thuỷ sinh không xương sống trên cạn có 9 loài lưỡng thê, 31
loài bò sát, 4 loài hữu nhũ. Trong đó có 11 loài bò sát có tên trong sách đỏ Việt
Nam như: tắc kè (gekko gekko), kỳ đà nước (varanus salvator), trăn đất (python
molurus), trăn gấm (python reticulatus), rắn cạp nong (bungarus fasciatus), rắn hổ
mang (naja naja), rắn hổ chúa (ophiophagus hannah), vích (chelonia mydas), cá
sấu hoa cà (crocodylus porosus)…

[34]


+ Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ. Trong đó có 51 loài
chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau.

[35]

Phân vùng khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ: Tổng diện tích Khu dự trữ sinh
quyển RNM Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó: vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139
ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha.

[35]

* Khu hệ VSV
- Vi khuẩn
VK cùng với nấm tạo nên một thành phần quan trọng trong hệ sinh thái RNM.
Là những SV phân huỷ, chúng đóng vai trò trung tâm về mặt chức năng trong HST
này. Số lượng VK trong RNM chiếm tỉ lệ khá cao, đặc biệt là trong trầm tích các
quần thể VK dị dưỡng nhiều gấp 2-3 lần lớp nước trên mặt, các quần thể trên nền
bùn lớn gấp vài lần trên nền cát. [34] Nhiều loài sống trên các giá thể bề mặt rắn
bằng chất nhầy dí
nh bám. Do đó, VK có thể tạo nên một bề mặt mỏng trên mặt
bùn tạo điều kiện cho các loài tảo, cỏ biển và cây ngập mặn phát triển.
- Nấm
Khu hệ nấm trong RNM nhiều và rất đa dạng. Phần lớn là vi nấm, chỉ có một
số loài có kích thước lớn. Nấm đóng vai trò quan trọng trong RNM, cùng với VK
chúng góp phần phân huỷ nhanh xác lá TV (Fell và cộng sự 1975). Người ta có thể
phân loại nấm dựa trên môi trường RNM: trên tán cây, trên thân, rễ hô hấp và

trong đất, nhưng cũng có một số loài có thể sống được từ hai MT trở lên
.

[33]
Ở Ấn Độ
,
muời loài nấm được phân lập từ lá RNM của Pichavaram là
Aspergillus flavus, A. ochraceus, Alternaria alternata, A. tenuissima, Rhizopus
nigricans, Penicillum funiculosum, P. expansum, Humicola fuscoatra, Mucor
racemosa và Fusarium oxysporum. Aspergillus và Penicillium chiếm số lượng

rất
nhiều trong tất cả các lá RNM tiếp theo là các lọai Alternaria alternata và
Rhizopus nigricans (Sivakumar and Kathiresan, 1990). Số nấm đếm được trên lá
mục RNM nhiều hơn trên lá tươi. [41]

Người ta tìm thấy trên lá cây ngập mặn có các loài nấm ký sinh và hoại sinh
như: Ascomycetes, Bacidiomycetes và Deuteromycetes. Người ta đã tìm thấy 6 chi
nấm có mặt trên lá cây Đước đỏ (R. mangle): Cladosporium, Pestalotia,
Alternaria, Zygosporium, Penicillium và Aureobacidium.

[34]
Các chi nấm ký sinh và hoại sinh sống trên lá cây ngập mặn thường gây bệnh
cho các cây chủ như: Pestalotia, Phyllosticta, Cladosporium, Nigrospora và
Cercospora. Hầu hết các loài nấm trên đất liền đều có trên lá cây ngập mặn, còn
các loài nấm biển thì có trên rễ hoặc phần gỗ ngâm trong nước mặn.

Khi cây chết
thì gỗ phân huỷ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại nấm phân huỷ phát triển. Các
mẫu gỗ để ngâm trong nước biển có tỉ lệ phân huỷ cao hơn những vùng chỉ ngập
khi triều cao. [34]
Nấm trong đất RNM có thể phân ra các loại nấm ở trong đất và loại nấm sống
trên các mảnh vụn lá trên mặt đất. Cả hai loại này đều phụ thuộc vào lượng chất

hữu cơ có trên bề mặt và trong đất.
Một vài loài, đặc biệt là Aspergillus candidus cho thấy khả năng tạo ra các
hợp chất phos
phate tan từ các chất phosphorus không tan cho các SV khác sử
dụng. Vì vậy, những nấm này đóng vai trò tạo chất dinh dưỡng trong HST
(Prabhakaran et al., 1987). [41]
Đối với lá cây ngập mặn thì nấm là SV phân huỷ đầu tiên, nhờ khả năng phân
giải cellulose và lignin. Đa số các loại nấm được phân lập trên lá, gỗ và cây con
thường là nấm hoại sinh góp phần phâ
n huỷ xác TV. Chúng cũng góp phần phân
huỷ cỏ biển, bùn và đầm lầy mặn. [46]

Nấm đóng một vai trò rất quan trọng trong HST. Cùng với VK, nấm là SV
phân hủy chính ở hầu hết các HST. Bởi vậy, nấm sợi

có vai trò quan trọng các chu
trình sinh địa hóa ở nhiều lưới thức ăn.
Khi sống hoại sinh hay cộng sinh, chúng
phân hủy những vật chất hữu cơ thành những phân tử vô cơ, rồi sau đó những chất
này sẽ được đồng hóa
ở TV hay những SV khác. [46]

Bản thân nấm sợi RNM
cũng trở thành nguồn thức ăn giàu đạm cho nhiều loài ĐV nhỏ và ấu trùng của một
số loài (Odum, 1980; Alongi, 1989).
Tuy nhiên, các hoạt động sống của nấm sợi RNM lại làm giảm lượng oxi
trong đất, bùn RNM do quá trình hô hấp, gây bệnh cho động thực vật hoặc thải vào
MT một số chất độc như amoniac, sunfuahidrô…[13].
VSV ở RNM ngoài VK và nấm sợi còn có nấm men, xạ khuẩn… chúng đóng
vai trò hết sức quan trọng đối với chu trình tuần hoàn vật chất trong hệ sinh thái

RNM. Có vai trò bảo vệ M
T sinh thái RNM nói riêng và MT sinh thái nói chung,
cũng như vai trò to lớn trong mối quan hệ sinh học giữa các loài SV. Từ đó, đóng
góp vào việc giữ cân bằng cho HST đặc biệt này.
 Vai trò của RNM đối với nền kinh tế
Một số loài TV ở RNM có thể xếp vào nhóm công dụng chủ yếu: 30 loài cây
cho gỗ, than, củi, 14 loài cây cho tannin, 24 loài cây làm phân xanh, 21 loài cây
dùng làm thuốc, 9 loài cây chủ thả kiến cánh đỏ, 21 loài cây cho mật nuôi ong, 1
loài cây cho nhựa để sản xuất nước giải khát
. [2]
Ngoài ra, RNM còn có nguồn tài nguyên ĐV phong phú như 9 loài lưỡng cư,
22 loài bò sát, 67 loài chim, 21 loài thú… SV ở nước phong phú gồm 64 loài cá
thuộc 35 họ, 25 loài tôm, 66 loài TV phiêu sinh, 26 loài ĐV phiêu sinh và 22 loài
ĐV đáy. [2]
Trong hệ sinh thái RNM, các loài động thực vật, VSV trong đất và MT tự
nhiên được liên kết với nhau thông qua quá trình trao đổi và đồng hóa năng lượng.
Các quá trình nội tại như cố định năng lượng, tích lũy sinh khối, phân hủy vật chất
hữu cơ và chu trình dinh dưỡng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố bên
ngoài gồm nước, thủy triều, nhiệt độ và lượng mưa. RNM phát triển tốt nhất ở
nước có nồng độ muối
15 - 25‰. [2]


 Vai trò của RNM đối với MT
Bên cạnh các giá trị về lâm sản như than, gỗ, củi, thức ăn, thuốc… RNM
còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, mở rộng diện tích đất bồi,
hạn chế xói lở và quá trình xâm thực bờ biển.
RNM
cung cấp chất hữu cơ để tăng
năng suất cho vùng ven biển, là nơi sinh sản hoặc ươm nuôi của nhiều loài hải sản

có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, cá,…
Mặt khác, RNM còn có tác dụng làm chậm dòng chảy và phát tán rộng
nước triều, làm giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường. Hạn chế tác hại của
sóng thần và bão lớn, hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm. RNM bảo vệ
đa dạng sinh học, điều chỉnh nồng độ muối của MT, làm sạch MT nước khi có lũ
lụt, lũ quét, sạt lở đất.[4]
[18]
1.2
Sơ lược về nấm sợi
1.2.1 Phân loại của nấm sợi
Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng MT sống khác
nhau, kể cả sa mạc. Đa phần nấm sống ở trên
cạn, nhưng một số loài lại chỉ tìm
thấy ở MT nước. Nấm và VK là những SV phân huỷ chính, c
ó vai trò quan trọng
đối với các HST trên cạn. Dựa theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài TV ở trong
cùng một MT, người ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5 triệu loài. [38]

Theo G.C.Ainsworth (1973): Hệ thống của giới nấm bao gồm hai ngành:
Myxomycota và Eumycota. Eumycota bao gồm 5 ngành phụ: Mastigomycotina,
Deuteromycotina, Zygomycotina, Ascomycotina và Basidiomycotina [49]
Ngành phụ Deuteromycotina được chia

theo 3 lớp: [50
]
+ Khuẩn ty không phát triển hoặc phát triển yếu; dạng cơ thể giống như
nấm men và có sự nảy chồi: Blastomycetes
+ Khuẩn ty thật, không nảy chồi; sợi nấm bất dục hoặc sinh BT trên cuống,
không có sự tập trung thành túi BT hay cụm cuống BT: Hyphomycetes
+ Khuẩn ty thật, BT tập trung trong túi BT hoặc trên cụm cuống BT:

Coelomycetes
Lớp Hyphomycetes được chia thành 3 bộ: Moniliales, Melanconiales và
Sphaeropsidales. Có thể tóm tắt phần phân loại nấm ở sơ đồ 1 (xem phần phụ lục
12)
Theo C. J. Alexopoulos (2002), nấm
có 3 phần trong giới nấm, giới
Stramenopila (một giới mới bao gồm các SV có cấu trúc lông roi được tách ra từ
protista) và giới Protista. Giới nấm có 4 ngành: Chytridiomycota, Zygomycota,
Ascomycota, Basidiomycota. Phần của nấm trong giới Stramenopila có 3 ngành:
Oomycota, Hyphochytriomycota, Labryrinthulomycota. Bốn ngành khác của nấm
được xem như là các SV nguyên sinh trong giới protista: Plasmodiomycota,
Dictyosteliomycota, Acrasiomycota, Myxomycota. Lý do của sự phân chia này là
từ những bằng chứng mới của các nghiên cứu về rRNA và hoá sinh học. Các bằng
chứng chứng minh sự tồn tại của 3 nhóm nấm khác nhau. Gần đây, sau khi hệ
thống phân loại giới xuất hiện, giới nấm được tái cấu trúc và sắp xếp lại. Tất cả các
phần trong các giới khác nhau được tập hợp lại chỉ tr
ong một giới nấm. Các nhà
nấm học phân chia giới này thành hai phần: nấm giả, bao gồm 7 ngành: Oomycota,
Hyphochytridiomycota, Labyrinthulomycota, Plasmodiophoromycota,
Dictyosteliomycota, Acrasiomycota và Myxomycota và nấm thật là những phần
còn lại. [49]
1.2.2 Hình thái và cấu tạo chung của nấm sợi

Sợi nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh, bên trong chứa chất nguyên
sinh có thể chuyển động. Có đường kính 1-30µm (thông thường là 5-10 µm).
Đỉnh sợi nấm có hình chóp nón không tăng trưởng, có tác dụng bảo vệ phần
ngọn của sợi nấm. Phần này chất nguyên sinh không có nhân và chứa ít cơ quan tử.
Tiếp đến là phần tăng trưởng chứa nhiều nhân, nhiều cơ quan tử và nhiều enzim.
Đây là phần quyết định sự tăng trưởng và phân nhánh của sợi nấm. Dưới nữa là
phần thà

nh cứng - phần thành thục của sợi nấm. Bắt đầu từ phần này trở xuống là
chấm dứt sự tăng trưởng của sợi nấm (xem hình 1a). [4] [50]
Nhân tế bào được bao bọc bởi màng nhân, trên màng nhân có nhiều lỗ nhỏ,
trong nhân có hạch nhân (nucleolus). Trong tế bào nấm còn có ty thể
(mitochondrion), mạng nội chất (endoplasmic reticulum), dịch bào hay không bào
(vacuolus), ribosome, bào nang (vesicle) , thể golgi [4], các giọt lipid (lipid
droplet), các tinh thể (chrystal) và các vi thể đường kính 0,5-1,5 nm (microbody),
các thể vôrônin đường kí
nh 0,2µm (Woronin body), thể Chitô đường kính 40-
70nm(chitosome)… Ngoài ra trong tế bào chất còn có các vi quản rỗng ruột,
đường kính 25nm (microtubule), các vi sợi đường kính 5-8nm (microfilament), các
thể màng biên (plasmalemmasome) (xem hình 1b).
[50]







Ribosome của nấm thuộc loại 80S (S là đơn vị hệ số lắng Svedberg) có
đường kính khoảng 20-25nm, gồm 2 tiểu phần: tiểu phần lớn 60S và tiểu phần nhỏ
40S
[51]
Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số nấm có sợi mang sắc tố tạo
nên màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của một số nấm còn tiết ra ngoài MT và làm
đổi màu khu vực có nấm phát triển. Một số nấm còn tiết ra các chất hữu cơ tạo nên
các tinh thể trên bề mặt KL. Vì BT của nấm thường cũng có màu nên cả KL
thường có màu.


Các nấm bậc thấp thường có sợi nấm không vách ngăn. Ngược lại, các nấm
bậc cao thường mang sợi nấm có vách ngăn (xem hình 2). Sợi nấm không vách
ngăn mang nhiều nhân nhưng vẫn có thể gọi là đơn bào. Ở các nấm không vách
ngăn thì vách ngăn vẫn có thể hình thành khi cơ thể sinh sản, tại các bộ phận bị
thương tổn sợi nấm

cũng có thể hình thành vách ngăn. Đó là loại vách ngăn liền,
không có lỗ thủng, có tác dụng bảo vệ cơ thể. [5]
(a) Cấu tạo của phần ngọn sợi nấm [51]
Hình 1.1: Cấu tạo phần ngọn và cấu trúc của sợi nấm

(b) Cấu trúc của sợi nấm [51]
Vách tế bào
Màng tế bào
Nhân
Thể golgi
Không bào
Ti thể
Luới nội
chất
Nhân
Sợi nấm có vách ngăn là cơ thể đa bào. Mỗi tế bào có 1 nhân hoặc nhiều
nhân. Tuy nhiên, sợi nấm vẫn không phải do nhiều tế bào hợp thành mà là do các
vách ngăn tách sợi nấm ra thành nhiều tế bào.




Vách ngăn ngang được hình thành từ thành tế bào. Lúc đầu là một gờ nhỏ
hình khuyên sao đó tiến dần vào trong và lấp kín lại. Tuy nhiên, vách ngăn thường

có một hay nhiều lỗ thủng. Các lỗ có kích thước bằng nhau hay có một lỗ lớn nhất
ở giữa và nhiều lỗ nhỏ ở xung quanh.
Ngoài những đặc điểm
chung thì nấm sợi RNM còn có những đặc trưng
riêng đáng được quan tâm và cần có nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa trên
những đối tượng này bởi các lý do sau:
Ở MT sống khắc nghiệt, kiểu trao đổi chất của chúng sẽ khác biệt hơn so
với các nấm ở đất liền. Do đó, các sản phẩm trao đổi chất, đặc biệt là chất KS cũng
m
ang tính chất khác lạ hơn [14].
Điều kiện MT khắc nghiệt mang tính cạnh tranh cao làm tăng khả năng
thích nghi của nấm sợi RNM. Do đó, phần lớn các nấm sợi RNM đều có khả năng
sinh ra các hợp chất có hoạt tính sinh học nhằm giúp chúng thích ứng với điều kiện
sống. Điển hình là khả năng sinh nhiều loại enzim, nhất là các ezim ngoại bào có
chức năng phân giải xác động t
hực vật là thành phần hữu cơ chính của RNM, các
chất KS và các độc tố giúp làm tăng khả năng ĐK của nấm sợi trong quá trình
cạnh tranh ở MT sống. Gần đây, người ta phát hiện ra nấm biển và nấm sợi RNM
là nguồn VSV có tiềm năng sinh các chất KS mới, chống lại các VSV nhờn thuốc.
Sống trong MT biến động, MT chịu ảnh hưởng của chất thải từ đất liền, ô
nhiễm do
tràn dầu…đã tạo cho các nấm sợi RNM có những cơ chế phản ứng lại
Hình 1.2: Sợi nấm có vách ngăn và sợi nấm không có vách ngăn
với những tác động này, bằng khả năng phân giải những chất thải độc hại nhờ sinh
tổng hợp được hệ enzim phân giải.
RNM là một HST chịu nhiều tác động của gió bão. Sau những tác động
trên, vấn đề ô nhiễm là điều không thể tránh khỏi, nhất là ô nhiễm VSV gây bệnh
[13]. Nhờ có những đặc tính sinh học đáng quí như khả năng sinh ra các sản phẩm
giúp khống chế VSV có hại. Từ đó,
có thể cải thiện MT sống cũng như giúp con

người nâng cao khả năng điều trị bệnh tật.
Đa số các nấm sợi RNM đều có khả năng chịu mặn cao. Chúng có thể sinh
trưởng ở nồng độ muối từ 2% - 20%. Thậm chí, một số nấm sợi RNM còn có thể
sinh trưởng ở nồng độ muối 30% [13]. Đây là một đặc điểm rất có ý nghĩa sinh
thái đối với R
NM.
Nấm sợi ở RNM có những đặc tính sinh học rất đáng quí cần được khai thác
nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
nấm sợi RNM còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với qui mô và tiềm năng của
chúng,
1.2.4 Tình hình nghiên cứu nấm sợi RNM trên thế giới và Việt Nam
Hiện nay, có khoảng 800 – 1000 loài nấm biển được định loại
(Hawks
wworth et al., 1995; Jones, 1995), trong khi đó có một số lượng lớn các
loài nấm trên đất liền đã được phân loại. Sự hiểu biết của loài người về nấm RNM
và vai trò của chúng đối với khu HST này còn quá ít và chưa đầy đủ (Agate A.D.,
Subramania, C.V và Anuci, V.1998). Sự nghiên cứu về nấm RNM mới chỉ được
các nhà nấm học quan tâm từ năm 1950.
Theo cơ sở dữ liệu (chưa đầy đủ) của mạng nấm RNM toàn cầu có thể thấy
nhiều nước đã và đang tích cực nghiê
n cứu phân loại và hệ thống hoá các loài nấm
biển có mặt ở vùng RNM của họ. Cụ thể: Ấn Độ đã phân loại được 170 loài, Hồng
Kông: 170 loài, Đài Loan: 7 loài, Trung Quốc: 2 loài, Singapore: 116 loài, Nhật:
26 loài, Úc: 67 loài, Mỹ: 18 loài, Malaysia: 164 loài, Indonesia: 7 loài, Thái Lan:
83 loài, Brasil: 48 loài, Mexico: 94 loài, Kuwait: 14 loài, Đức: 4 loài. Qua đó, có
thể thấy phân loại nấm biển RNM còn rất ít và chưa đáp ứng đủ yêu cầu cấp bách
cho sự tiến bộ của ngành VSV học. [51]
Năm 1988, Agate A.D., Subramania C.V và Vanuci M., đã nêu ra tám lĩnh
vực nghiên cứu cấp bách của VSV học RNM cần các nhà khoa học giải quyết.
Trong đó, có lĩnh vực phân loại và hệ thống hoá cơ bản các loài VSV của RNM

trên thế giới.
Năm 1979, Kohlmeyer là người đầu tiên đánh giá vai trò quan trọng của các
nấm đối với các chu trình tuần hoà
n vật chất trong hệ sinh thái RNM. Đã nhận
dạng được 43 loài nấm bậc cao, bao gồm 23 loài Ascomycetes, 17 loài
Deuteromycetes và 3 loài Basidiomycetes.
Năm 1990, Hyde đã liệt kê 120 loài nấm RNM trên toàn thế giới. Trong đó,
bao gồm 87 loài Ascomycetes, 31 loài Deuteromycetes và 2 loài Basidiomycetes.
Những nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một số lượng lớn loài mới, thậm
chí là chi mới. Bộ sưu tập nấm RNM ở Macau và Hồng Kông tìm được 45 loài
mới, 28 l
oài trong số mới này tìm được ở Macau và 21 loài được tìm thấy ở Hồng
Kông (Vrijmoed et al., 1994)
Năm 1990, Sivakumar và Kathiresan đã phân lập được 10 loài nấm từ bề
mặt lá của 7 loài cây ngập mặn. Trong số đó, loài chiếm ưu thế trên bề mặt lá là
các loài Alternaria alternate, Rhizopus nigricans, Aspergillus spp.[41]
Một số nấm sợi còn có hoạt tính diệt côn trùng mạnh, có thể sử dụng để sản
xuất các chế phẩm diệt côn trùng một cách an toàn. Đây là một nguồn gen quí, rất
có giá trị đối với sinh học và y học (theo Mai Thị Hằng và cộng sự). [11]
The
o nghiên cứu của Khưu Phương Yến Anh (2007) đã phân lập, tuyển
chọn các chủng nấm sợi có hoạt tính cellulaza cao, có khả năng đường hoá giấy in,
giấy báo cũ, chuyển hoá nhanh rơm rạ thành mùn làm phân bón cho cây trồng. Với
đặc tính này nấm sợi góp phần phân giải xác TV ở RNM Cần Giờ. [1]
Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Thuý (2007) đã
tuyển chọn đư
ợc các chủng nấm sợi có khả năng phân giải dầu, góp phần làm
phong phú thêm nhóm VSV phân giải dầu, xử lý ô nhiễm MT dầu ngày nay.[30]

Nấm sợi RNM có vai trò lớn đối với việc làm sạch MT sống với việc phân giải các

chất độc hại trong MT như dầu mỏ, các chất hóa học có cấu trúc mạch vòng [13].
Bên cạnh vai trò làm sạch MT sống nói chung, nấm sợi RNM còn có vai trò làm
sạch MT sinh vật với chức năng là tác nhân kiểm soát sinh học hữu hiệu trong việc
giữ cân bằng sinh thái.
Ngoài ra, nghiên cứu của Phan Thanh Phương (2007) đã tuyển chọn được
các chủng có hoạt tính ĐK với VSV gâ
y bệnh, hoạt tính phân giải phốt phát khó
tan, lại thêm hoạt tính chịu mặn. Điều này, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chu
trình photpho của RNM Cần Giờ. [27]

1.3 Đặc điểm của Aspergillus
1.3.1 Vị trí phân loại của chi Aspergillus trong các hệ thống phân loại nấm
- Năm 1729 P. A. Micheli lần đầu tiên mô tả chi Aspergillus (Maren. A.
Klich, 2002).
- Năm 1900, Lindau lại xếp Aspergillus vào trật tự:
Lớp (Class) : Fungi imperfect
Bộ (Order): Hyphomycetes
Họ (Family): Mucedinaceae
Họ phụ (Subfamily): Aspergillaceae
Chi (Genus): Aspergillus
- Năm 1950, Bessey đã xếp Aspergillus vào hai lớp khác nhau:
Lớp 1 (Class): Ascomycetes Lớp 2 (Class): Ascomycetes
Bộ (Order): Aspergillaces Bộ (Order): Moniliales (Hyphomycetes)
Họ (Family): Aspergillaceae Họ (Family): Moniliaceae
Chi (Genus): Eurotium Chi (Genus): Aspergillus
- Năm 1962, Alexopoul
os trong cuốn “Introductory Mycology” đã xếp
Aspergillus vào hai lớp: Ascomycetes (khi người ta tìm thấy hình thức sinh sản của
nó) và vào Form class: Deuteromycetes (ở trường hợp ngược lại)
Lớp (Class) : Ascomycetes Lớp (Class) : Deuteromycetes

Dưới lớp (Subclass) : Euroascomycetidae Bộ (Order) : Moniliales
(series: Plectomycetes ) Họ (Family) : Moniliaceae
Bộ (Order): Eurotiales Chi (Genus) : Aspergillus
Họ (Family) : Eurotiaceae
Chi (Genus) : Eurotium, Sartorya,
Emerycella (hình thức vô tính Aspergillus )
- Năm 1973, Ainsworth đã xếp Aspergillus thuộc tổ chi Phialoconidiae lớp
Hyphomycetes, ngành phụ nấm bất toàn Deuteromycotina. [51]
- Năm 1977, Bùi Xuân Đồng căn cứ vào đặc điểm hình thái phát sinh BTT
của Deuteromycota đã xếp chi Aspergillus vào tổ chi Phialocolidiae, lớp phụ
Euhiphomycetidae, lớp Hyphomycetes, ngành phụ Nấm bất toàn
(Deuteromycotina) (Bùi Xuân Đồng, 2001 )
- Năm 2000, Robert K Noyd, lại xếp Aspergillus thuộc họ Monilaceae, bộ
Moniliales, lớp Hyphomycetes, ngành Deuteromycota. [50]
1.3.
2 Hình thái của Aspegillus
Chi Aspergillus Micheli ex Fries đặc trưng bởi những đặc điểm sau:

Hệ sợi nấm gồm các sợi vách ngăn, phân nhánh, không màu, màu nhạt hoặc
trở thành nâu hay màu sẫm khác ở các vùng nhất định của KL.
Sinh sản vô tính bằng BTT (conidia). Hình thái cơ quan sinh BTT là một
đặc điểm chủ yếu đặc trưng dùng trong phân loại chi này.
Đặc điểm của cơ quan sinh BTT:











A
B
C
D
E
F

Hình 1.3: Hệ bào tử trần của chi Aspergillus

A- Bọng; B- Bộ cuống đính BT đầu tiên; C- Bộ cuống đính BT thứ hai;
D- Bào tử trần; E- Sợi cuống; F- Tế bào gốc ( Nguyễn Đức Lượng- Thí nghiệm VSV học)
Bộ máy mang BTT phát triển từ một tế bào có đường kính lớn hơn, màng
dày hơn các đoạn lân cận của sợi nấm (tế bào chân – foot cell). Gíá BTT phát triển
từ tế bào chân, như là một nhánh của sợi nấm, gần thẳng gốc với trục của tế bào
chân và thường ở trên mặt cơ chất (Hình1.3). Giá BTT không có nhánh, không có
hoặc có ít vách ngang, có phần đỉnh to ra thành bọng hình chùy ( Hình 1.4k), hình
quả bầu (Hình 1.4b ,d, g), hình bàn trang (phần đỉnh bọng giá thẳng-Hì
nh 1.4a, c,
e) hình nửa cầu (Hình 1.4l, m…) hoặc hình cầu (Hình 1.4q), bọng này mang các
thể bình. Các thể bình này hoặc song song và hợp thành cụm ở phần đỉnh bọng,
hoặc xếp thành hình tia sát nhau trên toàn bộ bề mặt bọng. [6]


















Thể bình hoặc chỉ có một tầng hoặc hai tầng. Trong trường hợp sau, mỗi thể
bình cấp một (cũng gọi là cuống thể bình, metula) mang một cụm gồm hai hoặc ba
(hoặc nhiều hơn) thể bình cấp hai (gọi là thể bình) ở phần đỉnh. Các BTT được tạo
thành nối tiếp nhau trong miệng thể bình, thành chuỗi hướng góc (BT ở ngay
a
b
c
d
e
g
h
i
l
m
n
p
q
o
k


Hình 1.4: Bọng đỉnh giá mang thể bình hoặc mang cả cuống thể bình và thể bình ở một số
loài thuộc chi Aspergillus Mich. Ex Fr.

[6]

a- A. conicus Blochw; b- A. clavatus Desm; c- A. nidulans (Eid); d- A. fumigatus Fres; e- A.
sersicolor (Vuill); g- A.malinus Lindt; h- A.sydowi (Bain.et Sart) Thom et Church; i- A.niveus Blochw; k-
A.vảaans Wehm; l- A.glaucus Link; ; m- A.citrispóu Hohn; n- A.terreus Thom; o- luchuensis Inui; p- A.
ustus
(Bain) Thom et Church, q- A.sulphureus (Fres) Thon et Church ( M.A.Litimov 1967)
miệng thể bình là BT non nhất, càng xa miệng thể bình càng già), không phân
nhánh.

[6]
BTT không vách ngăn, thay đổi về hình dạng, kích thước, màu sắc, dấu vết
ở mặt ngoài (nhẵn, có gai, có nốt sần) tuỳ từng loài. Tất cả các chuỗi BTT tạo
thành từ các thể bình của một bọng đỉnh giá hợp thành khối BTT đỉnh bọng – bông
nấm (conidial head). Khối BTT đỉnh bọng có thể có các dạng hình cột (các chuỗi
BTT song song, sát nhau), hình cầu hoặc hình tia toả tròn. Một số loài có BT túi
(ascosporum) trong các thể quả kín (cleitothecium). [6]
1.3.3 Các chất có hoạt tính sinh học của Aspegillus
Nhiều loài thuộc chi Aspergillus phâ
n bố rộng rải trên các cơ chất tự nhiên,
trong các sản phẩm công nông nghệp, ở nhiều vùng địa lý khác nhau trên thế giới.
Một số loài, đặc biệt là A. oryzae đã được dùng rộng rãi trong công nghệ lên men
truyền thống để chế biến thực phẩm ở nhiều nước châu Á như Việt Nam (làm
tương), Trung Quốc, Nhật Bản, Indonexia, Philipin…
Hiện nay, công nghệ sinh học sử dụng một số loài thuộc chi Aspergillus chủ
yếu là các loài A. niger, A. oryzae trong C

N sản xuất enzym (amylaza,
glucoamylaza, pectinaza, proteaza, cellulaza), trong CN chế biến thực phẩm, CN
sản xuất acid hữu cơ như acid citric, acid gluconic.

[6]

Nhiều loài thuộc chi nấm này có hoạt tính biến đổi sinh học, một số loài tạo
thành độc tố (mycotoxin), đặc biệt đáng chú ý là các loài tạo thành các độc tố gây
ung thư gan như các loài A. flavus, A. parasiticus tạo thành aflatoxin, A. versicolor
tạo thành sterigmatocystin.

[6]
Ở Việt Nam, một số chế phẩm enzim như các chế phẩm glucoamylaza từ A
. awamori, từ A. niger. Nghiên cứu chọn lọc các chủng thuộc các loài A. awamori,
A. niger, A. oryzae có hoạt tính amylaza và glucoamylaza để phân giải tinh bột sắn.
Nghiên cứu thu nhận và sử dụng proteaza từ A. oryzae trong sản xuất nước chấm,
để khử lông da súc vật. Thu nhận và sử dụng pectinaza, amylaza từ A. niger để xử
lý dược liệu nguồn gốc từ TV. Nghiên cứu sử dụng một số chủng thuộc loài A.

niger để nâng cao chất lượng thức ăn chăn nuôi. Nghiên cứu khả năng sinh tổng
hợp acid citric của một số chủng lựa chọn của loài A. niger. Nghiên cứu lựa chọn
được chủng A. niger TH3-19K của Nhật Bản có hoạt tính glucoamylaza cao dùng
để phân huỷ tinh bột sống. Nghiên cứu hoạt tính phân giải phosphat khó tan và
cellulose của A. japonicus, khả năng phân giải cellulose của một chủng ưu nhiệt
thuộc loài A. unilateralis. Nghiên cứu hệ vi nấm ĐK với các VK kháng KS ở Việt
Nam, trong đó có 14 loài thuộc chi Aspergillus có hoạt tính này
.
[6]
Như vậy, các nhóm loài được nghiên cứu trong công nghệ sinh học chủ yếu
là nhóm loài A. fumigatus, A. flavus, A. niger.


[6]
1.4 Đặc điểm của Penicillium
1.4.1 Vị trí phân loại của Penicillium trong các hệ thống phân loại nấm
Chi Penicillium do Link mô tả đầu tiên năm 1809 với 3 loài: P. camdidum,
P. expansum và P. glaucum. Vị trí phân loại của Penicillium được thay đổi theo
tiến trình lịch sử như sau:
- Theo hệ thống phân loại hình thái của Saccardo, năm 1886 :
Lớp: Nấm bất toàn (Deuteromycetes)
Bộ : Moniliales.
Họ: Moniliaceae.
Chi: Penicilium.
- Theo Fischer (1897):
Lớp (Class): Ascomycetes
Bộ (Order): Plectasciales
Họ (Family): Penicilliaceae
Chi (Genus
): Penicillium
- Năm 1953 Hughes xếp Penicillium vào tổ chi VI (Section VI), nhóm
Hyphomycetes trong hệ thống phân loại nhóm Hyphomycetes.

[6]

- Năm 1972, 1977 Bùi Xuân Đồng xếp Pencillium theo hệ thống sau:
Ngành (Division): Mycota
Ngành phụ (Sub-Division): Deuteromycotina
Lớp (Class): Hyphomycetes
Lớp phụ (Sub-Class): Euhyphomycetidae
Tổ chi (Section): Phialoconidiae
Chi (Genus): Penicillim [6]

-Theo hệ thống phân loại của G. C Ainsworth, năm 1973:
Ngành (Phylum): Eumycota (Eumycetes)
Ngành phụ (Subdivision): Deuteromycotina
Lớp (Class): Hyphomycetes
Bộ (Order): Moniliales
Họ (Family): Moniliaceae
Chi (Genus): Penicillium [46]
- Gần đây nhất, Robert K Noyd (2000) lại xếp Penicillium vào trật tự như sau:
Ngành (Division): Deuteromycota
Lớp (Class): Hyphomycetes
Bộ (Order): Moniliales
Họ (Family): Moniliaceae
Chi (Genus) :Penicillium
1.4.2 Hình thái của chi Penicillium
Chi Penicillium được đặc trưng bởi các đặc điểm sau:
Sợi nấm có vách ngăn, phân nhánh, không màu hoặc màu nhạt, đôi khi m
àu
sẫm. [6]

[19]
KL màu lục, vàng lục, xanh lục, lục xám, xám, đôi khi màu vàng, đỏ, tím
hoặc trắng. Mặt trái KL không màu hoặc có màu sắc khác nhau, MT thạch nuôi
cấy không màu hoặc có màu do có mặt của các sắc tố hoà tan tương ứng. KL có
hoặc không có vết khứa xuyên tâm hay đồng tâm, có hoặc không có các giọt tiết.
[6]
Sinh sản vô tính bằng BTT với cấu tạo như sau:
* Bộ máy mang BTT ( còn gọi là chổi – penicillus) hoặc chỉ gồm một giá
BTT với một vòng thể bình ở đỉnh giá (cấu tạo một vòng, monoverticillate – hình
5a), hoặc gồm g
iá BBT với hai đến nhiều cuống thể bình (metulae) ở phần ngọn

giá, trên đỉnh của mỗi cuống thể bình đó có các thể bình (cấu tạo hai vòng,
biverticillate).

[6]












* Trường hợp các giá BTT mang một hoặc nhiều nhánh (branch) ở phần
ngọn giá, sau đó các nhánh mang các cuống thể bình và các cuống thể bình lại
mang các thể bình cũng được coi là cấu tạo hai vòng. (Hình 1.5b)
Khi các cuống thể bình xếp đều đặn và sát nhau trên ngọn giá, cấu tạo hai
vòng đó được gọi là cấu tạo hai vòng đối xứng, trường hợp các cuống thể bình xếp
không đều trên phần ngọn giá hoặc có nhánh, cấu tạo này đư
ợc gọi là cấu tạo hai
vòng không đối xứng.

[6]

* Trường hợp giá BTT mang nhiều nhánh và các nhánh này cùng với các
cuống thể bình, các thể bình xếp đều đặn và sát nhau, bộ máy mang BTT có cấu
tạo nhiều vòng (polyverticillate).

Giá BTT có thể phát triển từ các sợi nấm nằm sát cơ chất, sát mặt MT thạch
nuôi cấy (các sợi nền), khi đó thường có chiều dài đều nhau, và KL có dạng mặt
nhung. Giá BTT có thể là nhánh của các sợi nấm khí sinh, KL trong trường hợp
này có dạng len hoặc xốp bông (lanate, floccose). Trường hợp các giá BTT là các
nhánh của các bó sợi hoặc bản thân chúng tụ họp lại với nhau thành các bó giá, KL
đặc trưng bởi sự có mặt của các bó sợi
(funiculose) hoặc của các bó giá
(fasciculase).

[6]
Nhaùnh

Hình 1.5: Chi Penicillium Link ex Pries. Các thành phần của chổi [7]
(a) (b)











* Tế bào sinh BTT của các loài thuộc chi Penicillium là các thể bình. Thể
bình ở nhiều loài của chi nấm này có phần đỉnh ngắn và thon nhỏ dần, phần đỉnh
này thường có đường kính vào khoảng một phần ba đường kính của phần thân.
Một số loài thuộc nhóm loài Biverticillata-Symmertrica có thể bình hình mũi dáo
(thể bình có hình mũi dài và thon nhỏ dần) (Hình 1.6).


[6]
* BTT của các loài thuộc chi Penicillium thuộc típ phialoconidi (típ cơ
bản euconidi), không có vách ngăn, hình cầu, gần cầu, hình trứng, elip, đôi khi
hình trụ. Khi riêng rẽ, các BTT không màu hoặc màu nhạt, khi tụ họp thành đám
thường có màu lục, vàng lục, lục xanh, lục xám, xám. Các BTT này tạo thành
chuỗi dài trên miệng thể bình.

[6]

* BTT cũng như giá BTT, các nhánh, các cuống thể bình, các thể bình tuỳ
từng loại có mặt ngoài nhăn, ráp, có gai hoặc sần sùi, gồ ghề.(Hình 5,6)
Một số ít loài tạo thành hạch nấm (sclerotium). Hạch nấm cấu tạo bởi các tế
bào có vách dày, có thể rất cứng hoặc mềm, hình cầu, gần cầu, không màu hoặc có
màu sắc khác nhau, đơn độc hoặc thành cụm. Một số loài có BT túi (ascosporum).
Thể quả túi là những thể quả kín (cleisthothecium), có vỏ thể quả cứng hoặc mềm,

có hoặc không có các sợi nấm bao quanh, thể sinh túi cuộn xoắn hoặc thẳng, túi
Hình 1.6: Chi Penicillium Link ex Fries. Các kiểu thể bình.
a- Thể bình có phần cổ rộng ở P. expansum Link và nhiều loài, b- Thể bình có phần cổ hẹp ở P.
janthinellum Biourge và các loài lân cận, c- Thể bình hình mác ở P. funicolusum Thom và một số loài
thu
ộc nhóm loài Biverticillata-Symmetrica (Raper và Thom, 1949)
a
b
c
BT (ascus) đơn độc hoặc thành chuỗi, BT túi không ngăn vách, có hoặc không có
rãnh và gờ quĩ đạo.

[6]

1.4.3 Các chất có hoạt tính sinh học của Penicillium
Nhiều loài thuộc chi Penicillium được dùng trong công nghệ KS. Trong
CN sản xuất KS hiện nay, một số chủng đã xử lý đột biến của P. chrysogenum có
thể dùng để sản xuất penicillin tự nhiên (penicillin G, penicillin V…) và axit 6-
aminopenycillamic (dùng để sản xuất các penicillin bán tổng hợp như ampicillin,
oxacillin…).[6]
Ngoài ra một số loài khác thuộc chi Pencillium được dùng trong CN chế
biến thực phẩm như CN sản xuất phomat (P. roqueforti). Nhiều loài cũng đã được
nghiên cứu khà năng tạo thành các axit hữu cơ, về các hoạt tính enzim và một số
sản phẩm trao
đổi chất khác.

[6]
Trong chi Penicillium cần lưu ý môt số loài có khả năng tạo thành
mycotoxin, đặc biệt các mycotoxin có khả năng gây ung thư gan như các loài
P.islandicum tạo thành độc tố islandotoxin và luteoskyrin, loài P.urticae tạo thành
patulin… [6]
Aspergillus và Penicillium có vai trò to lớn trong thiên nhiên cũng như đối
với đời sống con người. Việc nghiên cứu về hai chi này góp phần đánh giá sự đa
dạng về về thành phần loài và số lượng loài. Đồng thời, góp phần quan trọng trong
việc xác định các loài có khả năng sinh các chất sinh học quý như KS, en
zim và
các chất hoạt tính sinh học khác.







×