BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------
Nguyễn Thị Lan Hương
TUYỂN CHỌN VÀ KHẢO SÁT
KHẢ NĂNG SINH AMYLASE CỦA MỘT SỐ
CHỦNG NẤM SỢI TỪ RỪNG NGẬP MẶN
CẦN GIỜ TP. HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: VI SINH VẬT
Mã số: 604240
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS.TRẦN THANH THỦY
Tp.Hồ Chí Minh - 2009
Trang 1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thanh Thủy đã dìu dắt giúp
đỡ tôi từ khi thực hiện luận văn tốt nghiệp đến khi thực hiện luận văn thạc sĩ sinh
học. Cô luôn có mặt bên cạnh, giúp đỡ những khi em gặp khó khăn trong suốt quá
trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin ghi nhớ công ơn PGS.TS. Lương Đức Phẩm đã luôn tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi
cũng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong phòng thí nghiệm Vi sinh –
Sinh hóa, trường Đại học Sư phạm đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành
công viêc nghiên cứu thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các bạn học viên Cao học khóa 17 và 18 ngành Vi
sinh vật học, trường Đại học Sư phạm TpHCM đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đì
nh và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian qua.
TpHCM, tháng 8 năm 2009.
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
Trang 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu trong luận văn này là trung thực thể hiện qua kết
quả thí nghiệm và chưa ai công bố.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lan Hương
MỞ ĐẦU
RNM Cần giờ là một quần thể TV đa dạng sinh học. Chiến tranh, bom đạn
và các loại chất độc hóa học đã hủy hoại gần như hoàn toàn khu rừng này. Từ năm
1978 đến nay, Thành ủy và UBND Tp.HCM đã phục hồi thành công HST RNM đa
dạng độc đáo này. Đồng thời, cũng từ đó tạo nên một địa điểm lý tưởng phục vụ
cho nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái.
Khu dự trữ sinh quyển R
NM Cần Giờ là nơi lưu giữ nhiều nguồn gen SV
quý hiếm, bền vững và có khả năng chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt của MT
sống. Trong đó, ĐV và TV đã được nghiên cứu và thống kê rất chi tiết. Riêng hệ
VSV phong phú của RNM Cần Giờ vẫn còn nhiều bí ẩn và chưa được khai thác
đúng mức. Trong số các VSV tại đây thì NS chiếm số lượng rất lớn, giữ vai trò
quan trọng trong tuần hoàn vật chất và năng lượng nhờ có hệ enzym phong phú như
cellulase, protease, amylase,…
Nổi bật nhất cũng như được ứng dụng nhiều nhất trong hệ enzym thủy phân
của NS là amylase. Loại enzym phân giải tinh bột này mang lại vị ngọt cho thiên
nhiên và con người đã được nghiên cứu từ rất lâu, đến nay các nhà khoa học đã biết
khá rõ về nó. Hiện nay amylase là một trong những hệ enzym quan trọng nhất của
ngành công nghệ sinh học vì chúng đư
ợc ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như công nghiệp thực phẩm, dược phẩm, công nghiệp lên men, công
nghiệp dệt,..Tiếp tực tìm hiểu, khám phá những bí ẩn về cấu trúc và đặc tính của
amylase để nâng cao hiệu suất xúc tác của chúng là đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà
nghiên cứu.
Tuy vậy, nước ta chưa lưu ý nhiều đến lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất các
chế phẩm amylase từ VSV cũng như NS. Việc sản xuất amylase từ N
S có rất nhiều
ưu việt như rút ngắn quá trình sản xuất, tận dụng được các nguồn nguyên liệu, phế
phẩm nông nghiệp góp phần giảm ô nhiễm MT, enzym có hoạt tính cao và giảm giá
thành sản phẩm.... so với các enzym có nguồn gốc từ TV và ĐV. Đặc biệt nếu thu
được các chủng NS có khả năng sinh amylase cao và sinh trưởng trong những điều
kiện khắc nghiệt như RNM Cần Giờ sẽ rất có ích vì bổ su
ng thêm được những
chủng NS có đặc tính quý, đầy tiềm năng và ứng dụng trong sản xuất thức ăn chăn
nuôi. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu NS sinh amylase từ RNM hiện vẫn chưa được
khai thác đúng mức.
Trước thực tế này, nhằm đa dạng hóa nguồn thu nhận amylase từ NS, cũng
như mong muốn thu nhận được nguồn amylase mang đặc tính quý, chúng tôi tiến
hành đề tài “Tuyển chọn và khảo sát khả năng sinh amylase của một số chủng
NS từ RNM Cần Giờ Tp.HCM”.
Mục đích của đề tài.
Tuyển chọn được các chủng NS s
inh amylase cao từ RNM Cần Giờ.
Nhiệm vụ của đề tài.
- Phân lập các chủng NS thu nhận được từ RNM Cần Giờ.
- Tuyển chọn một số chủng NS có khả năng sinh amylase cao.
- Nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và phân loại đến loài
các NS đã tuyển chọn.
- Khảo sát các điều kiện ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, tổng hợp
amylase của các chủng NS đã chọn.
- Nghiên cứu một số tính chất của enzym thu được.
- Khảo sát các đặc tính sinh học khác.
- Thu nhận am
ylase bán tinh khiết và so sánh với enzym thương mại trên thị
trường.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các chủng NS phân lập từ 5 xã: Long Hòa, Lý Nhơn, An Thới Đông, Tam
Thôn Hiệp và Bình Khánh ở RNM Cần Giờ, Tp.HCM.
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại PTN Vi sinh – Sinh hóa, khoa Sinh
học, trường Đại học Sư phạm Tp.HCM trong thời gian từ tháng 9 năm 2008
đến tháng 5 năm 2009.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vài nét khái quát về RNM Cần Giờ .
RNM (Mangrove) là thuật ngữ dùng để chỉ các loài TV hoặc một khu rừng
có nhiều loài sống ở vùng giao thoa giữa đất liền và biển. Chúng có thể mọc tốt ở
những vùng khí hậu nóng ẩm [4].
Theo GS. Phan Nguyên Hồng (1995), diện tích RNM trên thế giới khoảng
16.670.000 ha, và khu vực Châu Á chiếm diện tích lớn nhất trong đó. Theo số liệu
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho thấy, năm 1943 diện tích RNM Việt
Nam trên 400.000 ha, đến năm 1996 giảm
còn 290.000 ha và 279.000 vào năm
2006. Với diện tích này thì RNM Việt Nam cũng chiếm một phần khá lớn trong khu
vực. RNM nguyên sinh tự nhiên hiện nay hầu như không còn. Đa số RNM hiện nay
là rừng trồng (62%) còn lại là rừng thứ sinh nghèo hoặc rừng mới tái sinh trên bãi
bồi. HST RNM phân bố dọc bờ biển Việt Nam thuộc 28 tỉnh và thành phố, tập trung
chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bán đảo Cà Mau và hai tỉnh phía Bắc
là Nam Định và Thái Bình. Các tỉnh đồng bằng s
ông Cửu Long có diện tích RNM
chưa đến 100.000 ha. Riêng RNM Cần Giờ hay rừng Sác, sau những nỗ lực khôi
phục thành công, hiện nay có diện tích rừng và đất rừng là 38.664 ha [74].
Với diện tích đạt được như trên, cùng với độ đa dạng sinh học bậc nhất trong
các RNM ở Đông - Nam Á , RNM Cần Giờ đã được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và
Giáo dục LHQ (UNESCO) công nhận là Khu dự trữ sinh quyển của thế giới từ
tháng 1-
2000. Đây cũng là Khu dự trữ sinh quyển RNM đầu tiên của nước ta và
cũng được xem lá “lá phổi” rất quan trọng của Tp.HCM [69].
Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu sông Đồng
Nai – Sài Gòn nằm ở cửa ngõ Đông Nam Tp.HCM:
Về tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc 10
o
22’ – 100
o
40’09”, kinh độ Đông 106
0
46’ –
107°00’59”.
Về ranh giới, phía Bắc Cần Giờ giáp tỉnh Đồng Nai, phía Nam
giáp biển
Đông, phía Tây giáp tỉnh Tiền Giang và Long An, phía Đông giáp tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu. Chiều dài khu vực từ Bắc xuống Nam là 35km, từ Đông sang Tây là
30km. Tổng diện tích Khu dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó:
vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha [5].
RNM Cần Giờ phát triển trên nền một đầm mặn mới, do phù sa sông mang
đến và lắng đọng tạo thành nền đất. Đất được tạo ra bởi tổng hợp các quá trình lắng
tụ trầm tích đất sét, phèn hóa và nhiễm mặn. Cho đến nay các lớp đất sâu chưa kết
chặt nên không có khả năng tạo thành đất nền rắn chắc, có hàm lượng lưu huỳnh
dạng khử khá cao và một lượng muối cao không có lợi
cho nông nghiệp [21].
Khí hậu nóng ẩm và chịu chi phối của quy luật gió mùa cận xích đạo với
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 4. Lượng mưa
trung bình từ 1300 đến 1400mm hàng năm. Độ ẩm cao hơn các nơi khác trong khu
vực Tp.HCM: mùa mưa là 79 – 83%, mùa khô là 74 – 77%. Nhiệt độ trung bình là
25,8
o
C, biên độ dao động nhiệt trong ngày từ 5 đến 7
o
C. Chế độ bán nhật triều
không đều. Độ mặn dao động 1,8 – 3% [5].
RNM Cần Giờ có trên 150 loài TV, các loài chủ yếu như bần trắng, mấm
trắng, các quần hợp đước đôi - bần trắng cùng xu ổi, trang, đưng v.v… và các loại
nước lợ như bần chua, các quần hợp mái dầm – ô rô, dừa lá, ráng, v.v… Thảm cỏ
biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và Thalassia sp.; đất canh tác
nông nghiệp được trồng lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa v.v…; các vườn cây ăn
trái.
Thảm
TV này là MT sống cho nhiều loài ĐV, theo thống kê năm 1999 như:
trên 700 loài ĐV thuỷ sinh không xương sống, 9 loài lưõng thê, 31 loài bò sát, trên
137 loài cá, khoảng 130 loài chim và nhiều ĐV có xương sống có trong sách đỏ
Việt Nam. Ngoài ra còn có 63 loài phiêu SV, 130 loài tảo [4].
Tuy chưa có nhiều số liệu thống kê về hệ NS RNM Cần Giờ, nhưng chúng ta
có thể thấy các loài TV và ĐV trên chính là nguồn thức ăn tốt nhất cung cấp cho hệ
NS RNM Cần Giờ. NS chính là một mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn, là tác
nhâ
n phân giải các chất hữu cơ, cung cấp thức ăn cho các SV khác trong HST, là
một nhân tố không thể thiếu tham gia khép kín chu trình sinh địa hóa của RNM Cần
Giờ. HST này nằm ở lưu vực ven bờ có nhiều thành phần C phức tạp do thủy triều
đưa vào. NS có khả năng sinh các loại amylase, protease, cellulase, chitinase,...phân
hủy các chất hữu cơ đó để sử dụng và đồng thời góp phần làm giảm ô nhiễm MT ở
RNM Cần Giờ. Đặc biệt nơi đây có nguồn tinh bột sẵn có trong lá cây, thân cây
(nhất là lá mục và thân mục) sẽ là nguyên liệu cho amylase phân giải tạo glucose
cho hoạt động sống của chúng.
Hình 1.1. Bản đồ tổng quan về RNM Cần Giờ và vị trí 5 xã thu mẫu [65]
Ký hiệu : vị trí thu mẫu.
Do những đặc điểm trên, RNM Cần Giờ có vai trò là “lá phổi xanh” làm
giảm ô nhiễm MT, giảm sự nóng lên của Trái đất và ngăn ngừa tình trạng dâng lên
của nước biển. RNM Cần Giờ còn là “chiếc lọc sinh học” trong xử lý chất thải, xử
lý chất dinh dưỡng từ đất liền và giữ vai trò vùng đệm chống lại các dòng chảy ô
nhiễm đồng thời lọc thức ăn c
ho các ĐV biển; giúp bảo vệ các loài ĐV trên đất liền
khi nước triều lên cao và sóng lớn; bảo vệ bờ biển và cửa sông tránh tình trạng tác
hại và xói lở của bão, sóng đối với hệ thống đê biển, giảm chi phí tu bổ đê điều
hàng năm; là nơi có lợi nhuận kinh tế cao, cung cấp nguồn hải sản phong phú để sử
dụng trong nước và xuất khẩu cũng như các nguồn lợi kh
ác từ rừng,....RNM chính
là HST có năng suất sinh học cao nhất trong các HST, nơi hội tụ sự đa dạng của cả
SV biển và đất liền. Vì thế, nó còn là PTN sống để nghiên cứu về khả năng chịu
đựng và phục hồi của các tổ hợp gen, khả năng phát tán và định cư của các dạng
sống [74].
1.2. Sơ lược về NS.
1.2.1. Hình thái và cấu trúc NS.
NS là VSV có nhân chuẩn, dị dưỡng. Sợi nấm có thể có vách ngăn như các
lớp nấm bậc cao như Ascomycetes, Basidiomycetes, Deuteromycetes ha
y không có
vách ngăn như các nấm bậc thấp Oomycetes và Zygomycetes. Các sợi nấm vừa phát
triển theo chiều dài do tăng trưởng ở ngọn và phân nhánh tạo hệ sợi nấm còn gọi là
khuẩn ty. Hệ sợi nấm phát triển thành các dạng KL khác nhau tùy theo cơ chất rắn,
lỏng hay mềm. KL NS phát triển từ một bào tử có dạng tròn hay gần tròn. Bề mặt
KL có thể mượt, nhung mịn, nhẵn bóng, dạng bột, dạng sợi, dạng hạt, dạng xốp,
phẳng, có vết khía xuyên tâm
, có rãnh hay lồi lõm không đều; mép KL có thể trơn
hay răng cưa tùy vào từng loại nấm khác nhau [11, 13, 61, 78].
Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số sợi nấm mang sắc tố tạo nên
màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của một số nấm còn tiết ra ngoài MT và làm đổi
màu khu vực có nấm phát triển. Một số nấm còn tiết ra các chất hữu cơ tạo nên các
tinh thể trên bề mặt KL. Vì bào tử của nấm thường cũng có màu nên cả KL thường
có màu. Hình thái, kích thước màu sắc, bề mặt của K
L…có ý nghĩa nhất định trong
việc định tên nấm [3, 61].
NS sinh sản chủ yếu bằng bào tử. Bào tử của NS có thể hình thành theo kiểu
vô tính hay hữu tính. Bào tử vô tính gồm các dạng bào tử trần hay bào tử kín, trong
đó bào tử trần là phổ biến nhất. Trong sinh sản hữu tính, NS có các hình thức đẳng
giao, dị giao và tiếp hợp [11].
NS ngày càng được quan tâm nghiên cứu ngày càng sâu rộng hơn do chúng
có khả năng sinh nhiều các chất có hoạt tính sinh học cao được ứng dụng rộng rãi
đem lại nhiều nguồn lợi kinh tế cao
như tạo ra các loại enzym, các chất KS, các axit
hữu cơ, các chất có khả năng phân giải các nguồn cacbuahydro (ứng dụng trong xử
lý ô nhiễm MT do tràn dầu),...
Hình 1.2. Sự phát triển của sợi nấm [61] Hình 1.3. KL của chủng
Penicillium [64]
Hình 1.4. Một số dạng bào tử của NS [68, 70, 79]
Khả năng sinh các enzym ngoại bào.
Enzym được sản xuất từ VSV ngày càng nhiều. VSV là nhóm đối tượng duy
nhất được sử dụng như nguồn sản xuất enzym theo quy mô công nghiệp. So với ĐV
và TV, việc thu nhận enzym từ VSV nói chung và NS nói riêng có rất nhiều ưu
điểm như: tốc độ sinh sản nhanh, enzym thu được có hoạt tính rất cao, quá trình
sinh trưởng phát triển và tổng hợp enzym của VSV hoàn toàn không phụ thuộc vào
khí hậu bê
n ngoài, nguồn nguyên liệu dùng sản xuất enzym theo quy mô công
nghiệp rẻ tiền và dễ kiếm (đây là lợi thế rất quan trọng) và VSV có thể sinh tổng
hợp cùng một lúc nhiều loại enzym khác nhau. Ngày nay, nhiều loại enzym ngoại
bào của NS đã được nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng phổ biến như: amylase,
protease, cellulase, pectinase, chitinase,....[9, 25].
Khả năng sinh các chất KS.
KS là một trường hợp riêng biệt của tính đối kháng, là hiện tượng một VSV
với sản phẩm trao đổi chất của mình có tác dụng kìm hãm hoặc ức chế sự phát triển
của VSV khác. KS được tạo ra từ VSV đang rất được quan tâm và ngày càng phát
triển mạnh mẽ trong thời đại hiện nay.
Các chất KS có nguồn gốc từ NS chiếm tỉ lệ khá lớn, đa số thuộc lớp Nấm
bất toàn. Các chất KS đư
ợc sử dụng chủ yếu trong y tế hiện nay như Penicillin,
Cephaco-sporin-C,...[11].
Khả năng sinh các axit hữu cơ và các chất kích thích sinh trưởng [19,73].
Ngày nay, nhu cầu sử dụng các axit hữu cơ ngày càng nhiều trong thực
phẩm, công nghiệp. Một số axit hữu cơ phổ biến được sản xuất từ NS như: axít
xitric từ Asp.niger; axít gluconic thu nhận từ Asp.niger và Asp. foetidus; axít lactic
sản xuất từ Rhizopus oryzae (Mattey, 1992).
Tại Nhật Bản, các nhà khoa học đã tổng hợp được chất kích thích sinh
trưởng Giberelin từ hai chủng NS Furasium monoforme và Furasium oxysporum.
Ngoài lên m
en sản xuất KS, enzym, các axit hữu cơ,..., Penicillium
chrysogenum và Asp. niger còn tạo ra một lượng lớn sản phẩm phụ của sự lên men.
Khuẩn ty của nấm không độc là một thành phần thức ăn lý tưởng bởi vì nó có hàm
lượng đạm thô cao (xấp xỉ 12% trên trọng lượng tươi). Khuẩn t
y được sử dụng như
thành phần thức ăn gia súc. NS cũng được sử dụng làm giàu thêm đạm cho thức ăn
gia súc,....
Tuy vậy, rất nhiều loài NS cũng gây ra những tác hại cho đời sống như mọc
trên các nguyên vật liệu, đồ dùng, thực phẩm là hư hỏng hay giảm chất lượng sản
phẩm. Một số NS cũng tiết ra độc tố gây ung thư (Asp.flavus sinh độc tố Aflatoxin
gây ung thư ga
n), gây bệnh cho người, ĐV và TV,...[56, 72, 73, 74].
1.2.2. Phân loại NS.
Hiện nay chỉ mới định tên được khoảng 10.000 chi và 70.000 loài trong số
khoảng 1 triệu đến 1,5 triệu loài nấm có trong tự nhiên. Riêng các loài nấm thuộc
Nấm bất toàn ở nước ta hiện mới chỉ phát hiện được 338 loài thuộc 306 chi khác
nhau (Bùi Xuân Đồng, 2004). Bảo tàng giống chuẩn VSV (VTCC) thuộc Trung tâm
Công nghệ sinh học Đại học Quốc gia Hà Nội đang hợp tác với Viện NITE của
Nhật Bản điều tra nghiên cứu khu hệ vi nấm ở Việt Nam và có nhiều khả năng tìm
thấy những loài mới nữa.
Về phân loại nấm, hiện nay tồn tại các hệ thống phân loại nấm không thống
nhất với nhau, chủ yếu là các hệ thống phân loại theo A
insworth và cộng sự (1973),
V.Arx (1981), Ainsworth & Bisby (1983), Kendrich (1992), Ainsworth & Bisby
(1995), Alexopoulos & Mins (1996). Trong luận văn này, chúng tôi phân loại nấm
dựa vào các đặc điểm mô tả theo hệ thống phân loại của Ainsworth và cộng sự
(1973), Bùi Xuân Đồng (1977, 1984, 2004), Đặng Hồng Miên, Nguyễn Lân Dũng
(2006) [61].
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, để phân loại VSV nói chung,
NS nói riêng, người ta thường dùng phương pháp nhân gen và giải trình tự gen
(PCR – Plymerase Chain Reaction) để thu được kết quả nhanh và chính xác.
Nguyên tắc của phương pháp PCR là khuếch đại một trình tự lên nhiều lần
bằng một cặp mồi chuyên biệt. Phản ứng PCR là một chu kỳ nối tiếp nha
u, mỗi chu
kỳ gồm 3 bước:
- Bước 1 (biến tính): trong một dung dịch đầy đủ thành phần cho sự sao
chép, DNA được biến tính ở nhiệt độ cao hơn Tmax của phân tử, thường là 94 –
95
o
C trong vòng 30 giây đến 1 phút.
- Bước 2 (lai): nhiệt độ được hạ thấp để các mồi bắt cặp với khuôn, nhiệt độ
này dao động trong khoảng 40 – 70
o
C và kéo dài 30 giây đến 1 phút.
- Bước 3 (tổng hợp): nhiệt độ được nâng lên đến 72
o
C để DNA polymerase
hoạt động tốt nhất. Thời gian của giai đoạn này phụ thuộc vào độ dài ngắn của trình
tự DNA, thường kéo dài khoảng 30 giây đến vài phút.
Sau đó, người ta sẽ tiến hành giải trình tự các axit nucleic
Các phương pháp nhằm xác định trình tự axit nucleic đều dựa vào 2 nguyên
tắc.
- Nguyên tắc hóa học (Phương pháp Maxam và Gilbert): dựa vào các phản
ứng thủy giải hóa học đặc hiệu phân tử DNA tạo thành một tập hợp nhiều phân
đoạn có kích thước chênh nhau 1 nucleotid.
- Nguyên tắc enzym học (phương pháp Sanger và phương pháp cải biên) :
dựa vào sự tổng hợp mạch bổ sung cho trình tự cần xác định nhờ DNA polymerase.
Với việc tổng hợp thêm các deoxynucleotid cùng với các deoxynucleotid thông
thường. Kết quả tổng hợp cũng là sự hình thành một tập hợp nhiều đoạn DNA c
ó
kích thước chênh nhau 1 nucleotid.
Ở cả 2 phương pháp, các phân đoạn DNA sẽ được phân tách qua điện di trên
gel polyacrylamid. Nếu sử dụng đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ thì kết quả trình
tự cần xác định sẽ được đọc trên bản phóng xạ ghi từ bản điện di [61].
1.2.3. Tình hình nghiên cứu NS sinh amylase.
Ở nước ta và trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về NS
sinh amylase đặt nền móng cho việc sản xuất chế phẩm enzym này và là cơ sở để
ứng dụng vào đời sống.
Trên thế giới, trong thời gian gần đây có một số công trình nghiên cứu về
amylase của NS khá nổi bật như:
Từ năm 1990, Marianne Graber và Didier Combes đã có công trình nghiên
cứu “Kiểu hoạt động của anpha-amylase từ chủng Asp.oryzae trong MT đậm đặc”
[52].
Trong công trình nghiên cứu năm 1997, P.Woloshuk đã nghiên cứu về các
chất gây cảm ứng sự s
inh tổng hợp aflatoxin từ hạt ngô bị xâm nhập tạo ra bởi hoạt
tính amylaza từ Asp. flavus [56].
Để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp trong sản xuất men phân giải tinh
bột, Akpan M.o.Bankole A.M.Adesemowo, đã sử dụng Asp.niger trong công trình
nghiên cứu năm 1999 [50].
Năm 2001, nhà khoa học Nh
ật Bản
B. N. Okolo đã tiến hành tinh sạch và
xác định một số tính chất của amylaza phân giải tinh bột sống mới từ
Asp.carbonarius vào năm 2001 [55].
G
ần đây,
tạp chí khoa học United States Patent Application có đăng công
trình nghiên cứu “Nghiên cứu về alpha amylase ngoại bào của chi Aspergillus”,
(2008) của Baldwin, Toby M,.. cho thấy sự liên quan giữa việc sinh alpha amylase
và glucoamylase của chi nấm này. [42]
Tại Việt Nam, vào năm 1974, D.V. Hợp nghiên cứu sản xuất chế phẩm
glucoamylase từ Asp.niger và L.V Chứ, Đ.T.T Thu nghiên cứu với đối tượng
Asp.awamorii năm 1977 [14].
Đến năm 1984, N.B.Ngà và N.L.Dũng nghiên cứu chọn lọc các chủng thuộc
các loài Asp.awamorii, Asp.niger và Asp.oryzae có hoạt tính α – amylase và
glucoamylase cao để thủy phân tinh bột sắn [14]
.
Năm 1977, cũng với đối tượng nghiên cứu Asp.niger, L.V.Nhương và cộng
sự đã thành công khi thu nhận và sử dụng pectinase, amylase để xử lý dược liệu
nguồn gốc TV [14].
Nghiên cứu về glucoamylase có công trình “Nghiên cứu chọn lọc được
chủng Asp.niger TH3 – 19K của Nhật Bản có hoạt tính glucoamylase cao dùng để
thủy phân tinh bột sống” của D.V.Hợp và cộng sự, năm 1993 [14].
Asp.niger BS cũng được Đặng Văn Lợi, Lê Văn Hoàng đưa và
o nghiên cứu
nhằm tối ưu hoá quá trình sinh tổng hợp enzim amylase và cellulase [23].
Năm 1998, Hoàng Kim Anh, Ngô Kế Sương, Nguyễn Thị Phương Thủy có
công trình “Thu nhận amylase từ nấm mốc Asp. sp”. [2]
Nổi bật nhất trong các nghiên cứu gần đây nhất là các nhà khoa học thuộc
Viện Sinh học Nhiệt đới đã nghiên cứu và sản xuất thành công hai loại thức ăn kích
thích tăng trưởng cho mọi vật nuôi (kể cả thuỷ sản) là sản phẩm lên
men từ bã sắn
và góp phần giải quyết ô nhiễm MT. Hai sản phẩm đó có tên gọi là ProBio-S và
Bio-E (quá trình lên men tạo ra ba loại enzym là α – amylase, glucoamylase và
cellulase) . Kết quả thử nghiệm sơ bộ trên 15-20 lợn con một tháng tuổi cho thấy
sau ba tháng được ăn hai chế phẩm trên, lợn tăng trọng nhanh hơn 1,1-1,3kg so với
những con đối chứng [14, 40].
1.3. Tinh bột và hệ enzym amylase.
1.3.1. Tinh bột.
Tinh bột gồm hai cấu tử là amylose (chiếm 20 – 30%) và amilopectin (chiếm
khoảng 70 – 80%).
Amylose có phân tử lượng thấp, phân bố phía bên trong hạt tinh bột, cấu trúc
thẳng, các phân tử glucose liên kết với nhau bằng liên kết α-1,4-glucoside, dài
khoảng 300 – 1000 gốc glucose xoắn theo kiểu lò xo, mỗi vòng xoắn có khoảng 6
gốc glucose. Nhờ cấu trúc xoắn amylose có thể kết hợp với các nguyên tử khác, tạo
màu xanh khi kết hợp với iod. Nếu đun nóng liên kết hydro bị cắt đứt, chuỗi
am
ylose duỗi thẳng iod tách khỏi amylose và dung dịch mất màu xanh.
Amilopectin có các gốc glucose gắn với nhau không chỉ nhờ liên kết α-1,4-
glucoside mà còn nhờ liên kết α-1,6-glucoside, chính liên kết này hình thành cấu
trúc nhánh trong amilopectin. Phân tử amilopectin chứa khoảng 200.000 đến
1.000.000 phân tử glucose, phân bố ở mặt ngoài hạt tinh bột. Amilopectin chỉ hoà
tan khi đun nóng và tạo nên dung dịch có độ nhớt cao, amilopectin tạo màu đỏ với
iod. [7, 8, 29, 33]
1.3.2. Hệ enzym amylase.
Amylase là tên gọi của một nhóm enzym có tác dụng xúc tác t
hủy phân liên
kết glucoside trong polysaccharide (tinh bột) và các dextrin cuối. Cơ chất tác dụng
của amylase là tinh bột và glycogen. Sản phẩm tạo thành của quá trình thủy phân là
glucose, maltose và dextrin. [8,11]
Cơ chất chủ yếu của amylase là tinh bột. Đây là một polysaccharide phổ biến
ở TV, được tích lũy nhiều trong các hạt hòa thảo, trong củ, thân cây và lá cây . Tinh
bột có vai trò dinh dưỡng đặc biệt lớn vì trong quá trình tiêu hóa chúng bị thủy phân
thành đường glucose là chất tạo nên nguồn năng lượng chính cho SV.
Các amylase chủ yếu t
hủy phân tinh bột thường gặp là:
a. α – amylase hay α-1,4-glucohydrolase là enzym phân cắt các liên kết α-1,4-
glucoside trong mạch amylose và amilopectin một cách ngẫu nhiên. Đây là enzym
có ở TV, ĐV và đặc biệt có nhiều ở VSV, thủy phân tinh bột chủ yếu tạo thành
maltose và glucose. Dưới tác động của α – amylase, tinh bột sẽ mất khả năng tạo
màu với iod và độ nhớt của tinh bột giảm nhanh. Nếu thời gian tác dụng dài thì sản
phẩm thủy phân amylose chứa 13% glucose và 87% maltose, còn với amilopectin
sẽ tạo thành maltose, maltotriose và dextrin phân tử thấp cùng 5-10% glucose.
Enzym này hầu như không tác dụng trên tinh bột nguyên thủy nhưng thủy phân hồ
tinh bột rất nhanh.
Một số đặc tính của α – amylase:
- Dễ tan trong nước, dung dịch muối, rượu loãng. Phâ
n tử lượng α – amylase
giảm (14.000 – 15.000) còn canxi tăng theo nhiệt độ nuôi cấy VSV. Nếu tách hoàn
toàn canxi khỏi phân tử enzym thì α – amylase mất khả năng thủy phân cơ chất vì
canxi tham gia hình thành và ổn định enzym. Canxi còn có tác dụng đảm bảo α –
amylase có độ bền cực lớn với các tác động gây biến tính và phân hủy bởi các
protease. [7, 29]
- pH tối thích α – amylase từ NS là 4,5 – 4,8 (hoạt động 4,5 – 5,8), từ đại
mạch và thóc mầm là 5,3 (4,7 – 5,4), và VK là 5,8 – 6,0 (5,8 – 7,0). pH tối thích của
α – amylase từ As
p.oryzae là 4,8 – 5,8. pH <3, đa số α – amylase bị bất hoạt hoàn
toàn, trừ α – amylase của Asp.niger có thể chịu được pH 2,5 – 2,8. [7, 25, 29]
- α – amylase của NS rất nhạy cảm với nhiệt độ (tối thích 50
o
C), thóc mầm
và malt 58 – 60
o
C trong khi nhiều VK, chúng có thể giữ hoạt tính ở 70 – 90
o
C. Tính
bền nhiệt của α – amylase do sự có mặt của canxi trong phân tử enzym. [6, 27, 28]
Thủy phân tinh bột bằng α – amylase thường xảy ra hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu (giai đoạn dextrin hóa): chỉ một số liên kết trong phân tử cơ
chất bị thủy phân, tạo một lượng dextrin và độ nhớt từ hồ tinh bột giảm nhanh.
Giai đoạn 2 (giai đoạn đường hóa): thủy phân các dextrin phân tử lớn vừa hình
thành tiếp tục tạo các dextrin phân tử thấp hơn, m
altose, isomaltose và glucose.
Tuy nhiên, thông thường trong một thời gian ngắn (30 – 60 phút), α –
amylase chỉ thủy phân tinh bột thành chủ yếu là dextrin phân tử thấp và một ít
đường maltose. Khả năng dextrin hóa cao của α – amylase là tính chất đặc trưng của
nó. Vì vậy người ta còn gọi loại amylase này là amylase dextrin hay amylase dịch
hóa.
Những chủng VSV có khả năng tổng hợp α – amylase có ý nghĩa công
nghiệp: Baccillus subtilis, Baccillus licheniformis, Asp.oryzae [7].
b. β – amylase (α -1,4 – glucan – mantohidrolase) chỉ phân cắt các liên kết
α – 1,4 glucoside ở đầu mạch. Enzym này phổ biến ở TV, nhiều ở hạt nảy mầm. β –
amylase kém bền ở nhiệt độ cao, vô hoạt hoàn toàn ở 70
o
C nhưng trong dịch nấu thì
nhiệt độ tối thích là 60 – 65
o
C. Enzym này khá bền trong MT axit ở pH 3 – 4. Đa số
β – amylase hoạt động mạnh hơn ở MT pH 4,5 – 5 và vẫn giữ được hoạt tính khi
không có canxi.
Điểm khác biệt cùa enzym này so với α – amylase là hầu như không tác dụng
lên tinh bột sống mà chỉ phân giải mạnh hồ tinh bột. Chúng phân giải 100%
amylose và 54 – 58% amylopectin thành maltose.
β – amylase vẫn giữ được hoạt tính khi không có canxi. [15, 29].
c. Glucoamylase (γ – amylase hay α – 1,4 – glucan – glucohydrolase) thủy
phân liên kết α-1,4 glucosid và α-1,6 glucosid trong chuỗi polysaccharide. Enzym
này có khả năng thủy phân hoàn toàn tinh bột, gl
ycogen, amylopectin dextrin cuối,
panose, isomatose và maltose tới glucose (Azarova, 1981; Jerebtxov, Pankratov,
1977; Dobrolinxkaia, Rodzevits, 1974; Logina Karpukhina, 1978).
Phân tử lượng gucoamylase thường không ổn định, dao động từ 50.000 đến
95.000 dalton. Đa số chế phẩm glucoammylase của VSV đều hoạt động tốt ở vùng
axit, pH tối thích 4,5 – 5,0. Tuy hoạt động tốt trong vùng axit nhưng glucoamylase
của một số chủng VSV cũng bền ở pH kiềm. Ví dụ glucoamylase của loài
Coniphora cerebella và Corticum rolfsii tương đối bền ở pH 9, glucoamylase của
Mucor rouxianus bền ở pH 8 [25].
Nhiệt độ tối thích của gluc
oamylase 50 – 60
o
C. Hầu hết các glucoamylase bị
mất hoạt tính khi đun nóng trên 70
o
C. Tuy nhiên cũng có trường hợp glucoamylase
hoạt động tốt nhất ở 65 – 70
o
C, ví dụ như ở loài C. thermosaccharolytium. Enzym
này bị ức chế mạnh bởi Hg
+
nhưng các ion Mn
2+
và Fe
2+
lại có tác dụng kích thích.
Sản phẩm của giai đoạn đường hóa chủ yếu tạo ra glucose.
Một số VSV có khả năng tổng hợp glucoamylase có ý nghĩa công nghiệp:
nấm mốc Rhizopus, Asp.awamori, Asp.niger; nấm men Endomycopsis. [25, 29]
1.3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh tổng hợp amylase của VSV.
a. Giống VSV
Giống VSV là điều kiện đầu tiên và cơ bản nhất quyết định sự hì
nh thành và
lượng amylase.
Không phải tất cả các chủng VSV đều có khả năng tổng hợp amylase như
nhau. Các chủng cùng chi và thậm chí cùng loài vẫn rất khác nhau về lượng enzym
tổng hợp được. Vì thế, để thu được lượng amylase cao, công việc tuyển chọn chủng
NS có khả năng sinh enzym này cao là điều quan trọng đầu tiên. Ngoài ra chủng NS
thu được cũng cần được bảo quản và nuôi cấy trong những điều kiện tốt nhất, nhằm
hạn chế việc bị biến tính, nhất là trong điều kiện N
S phân lập từ RNM. Trong
nghiên cứu cũng như sản xuất, việc tuyển chọn và bảo quản giống là điều rất quan
trọng. Vì nếu chủng VSV tuyển chọn không giữ được hoạt tính ban đầu thì những
thành quả thu được cũng vô ích. Vì tầm quan trọng như vậy, nhiều nước trên thế
giới đã đưa
công tác này lên tầm cỡ quốc gia và đã thành lập các trung tâm, các chi
nhánh giữ giống gọi là bảo tàng VSV [31,33].
b. Nguồn dinh dưỡng.
Các yếu tố trong thành phần MT ảnh hưởng lớn đến hoạt động sống và tạo
thành enzym của VSV. MT nuôi cấy VSV phải bảo đảm có đầy đủ các thành phần
dinh dưỡng và tỉ lệ các chất dinh dưỡng hợp lý, phù hợp với nhu cầu của từng VSV
cụ thể.
Ảnh hưởng của nguồn C.
Thà
nh phần và hàm lượng C có ảnh hưởng lớn đến sinh tổng hợp enzym.
Nhiều tác giả cho rằng: muốn thu được hàm lượng amylase cao thì trong MT nuôi
cấy VSV không được chứa nguồn C dễ hấp thu. Nói chung amylase thủy phân tinh
bột là enzym cảm ứng nên sự có mặt của cơ chất tinh bột thường thúc đẩy quá trình
tạo amylase [25].
Theo Grigorev, ảnh hưởng nguồn C đến cường độ sinh tổng hợp amylase có
thể xếp theo thứ tự sau:
- Đối với α – amylase: tinh bột > dextrin > maltose > lactose > glucose >
saccharose > galactose > manose > arabinose.
- Đối với glucoamylase: tinh bột > dextrin > maltose > saccharose >
glucose > lactose > arabinose > galactose > manose [31].
Nồng độ nguồn C trong MT cũng ảnh hưởng lớn đến sự tạo thành enzym.
Mỗi loài VSV chỉ có thể tạo lượng amylase cao nhất ở một nồng độ hydratcacbon
nhất định. Ví dụ trên MT Czapek, nồng độ tinh bột ảnh hưởng rõ rệt đến sinh tổng
hợp enzym amylase. Nồng độ tinh bột tối thích cho sinh tổng hợp α – amylase là
6% , đối với glucoamylase là 3%.
Nguyên liệu sử dụng trong nuôi cấy NS thu amylase thường là những nguyên
liệu có nguồn gốc tự nhiên như cám mì, cám gạo, gạo, ngô mảnh, đậu nành và các
loại hạt ngũ cốc khác. Trong đó, cám gạo
, cám mì được sử dụng nhiều hơn cả vì có
đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho VSV phát triển. Mặt khác khi tạo MT,
chúng thường có tính chất vật lý rất thích hợp để vừa đảm bảo khối kết dính cần
thiết, vừa đảm bảo lượng không khí lưu chuyển trong khối nguyên liệu [25].
Bảng 1.1. Ảnh hưởng cơ chất đến sinh tổng hợp α – amylase và glucoamylase của
Asp.oryzae [25].
Hoạt độ enzym (đv/100ml) Hoạt độ enzym (đv/100ml)
Nguồn C
α - amylase glucoamylase
Nguồn C
α - amylase glucoamylase
Tinh bột % Bột
6 300 800 Ngô 250 760
4 220 800 Mì 250 760
2 110 800 Mì đen 300 770
1 70 710 Đậu nành Vết 810
Ngoài ra, để giảm giá thành sản phẩm khi ứng dụng sản xuất amylase cho
chăn nuôi, người ta có thể dùng khoai mì hay bã khoai mì như một chất cảm ứng rẻ
tiền và thường có sẵn trong thức ăn gia súc.
Ở nước ta, các phụ phẩm nông nghiệp trên như: rơm, cám gạo, cám mì, bã
khoai mì, trấu,.. có đến hàng 20 – 30 tấn/năm. Đây là nguồn thức ăn tốt cho chăn
nuôi cũng như là các cơ chất lên men rẻ tiền trong công nghệ lên men VSV [47,56].
Ảnh hưỏng của nguồn N.
N cần cho sự hình thành các axit amin để cấu tạo nên protein cấu trúc cũng
như các enzym. Nguồn N bổ sung vào MT nuôi cấy c
ó thể là N vô cơ hay N hữu cơ.
Việc chọn nguồn N bổ sung vào MT nuôi cấy là rất cần thiết để bảo đảm hiệu suất
sinh tổng hợp cao đồng thời có lợi về mặt kinh tế. Nguồn N vô cơ thường dùng là
nitrat amon, nitrat natri (có hiệu quả hơn các loại khác) hay sulfat amon, urê,..Nitrat
natri là nguồn dinh dưỡng N thường dùng để nuôi nhiều loại NS s
inh amylase với
hàm lượng 0,91%. Các hợp chất N hữu cơ có thể là nguyên liệu giàu đạm như cao
ngô, bột đậu tương, khô lạc, khô đâu,..Ngoài ra, một số axit amin cũng thường được
bổ sung vào MT nuôi cấy VSV. [7].
Khi sử dụng nguồn N nhất định cho vào MT nuôi cấy VSV có thể kích thích
tổng hợp amylase này và ức chế tổng hợp amylase khác. Theo mức độ tiêu thụ
muối, MT bị acid hóa, quá trình tổng hợp enzym sẽ chuyển the
o hướng tích cực
tổng hợp glucoamylase và ức chế tổng hợp α – amylase.
Sự cân bằng giữa C và N trong MT có ý nghĩa lớn đối với sinh tổng hợp sinh
khối VSV và sự tạo thành amylase. Khi MT có đủ lượng C và N cần thiết sẽ tích lũy
được lượng amylase cực lớn. Tỉ lượng tối ưu của C và N cho sinh tổng hợp amylase
là 10:1 đến 40:1. Trong MT Czapeck, tỉ lượng giữa tinh bột và NaNO
3
tối ưu cho
sinh tổng hợp các amylase vào khoảng 18:1.[25]
Các nguồn dinh dưỡng khoáng.
Magie ảnh hưởng đến độ bền nhiệt của enzym. Thiếu MgSO
4
sẽ ảnh hưởng
xấu đến tổng hợp mọi amylase của NS (Fenikxova, Muxaeva, 1967). Nồng độ tối
ưu của muối này cho sự tổng hợp α – amylase và glucoamylase là 0,05%.
Phosphore ảnh hưởng trực tiếp đến sinh sản của NS nên sẽ tăng cường tổng
hợp các amylase. Khi bổ sung phosphore hữu cơ vào MT sẽ làm tăng giá trị dinh
dưỡng MT và làm tăng tổng hợp amylase 2- 3 lần.
Canxi cần cho tổng hợp và ổn định α – amylase hoạt động vì là thành phần
không thể thiếu được của enzym này và bảo vệ amylase khỏi tác động của protease.
Ngoài ra, sự có mặt của Mn, Cu, Hg sẽ kìm hãm sự tổng hợp amylase.
Nguồn S t
hích hợp nhất đối với sự sinh tổng hợp amylase là methionin, muối
sulfat (trừ CuSO
4
).
Điều kiện nuôi cấy
Ngoài các yếu tố dinh dưỡng, trong MT nuôi cấy VSV các yếu tố như nhiệt
độ, độ ẩm, pH, thời gian nuôi cấy cũng ảnh hưởng đến sự sinh tổng hợp amylase
của VSV.
- Nhiệt độ
Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng của đa số NS là 28 – 32
o
C. Chu kì sinh
trưởng NS có thể chia làm 3 thời kì: thời kì trương và nảy mầm của đính bào tử (10
– 11giờ đầu tiên), nhiệt độ cần cung cấp không thấp hơn 23 – 30
o
C. Thời kì sinh
trưởng nhanh hệ sợi (4 – 18giờ), nấm hô hấp mạnh nên giữ nhiệt độ phòng nuôi
khoảng 28 – 29
o
C. Ở thời kì sinh amylase mạnh (10 – 12giờ), nên giữ nhiệt độ
khoảng 28 – 29
o
C. Đây chính là nhiệt độ tối thích cho sinh trưởng và sinh tổng hợp
amylase của đa số NS trên MT rắn.
- pH của MT.
Khi nuôi cấy VSV bằng phương pháp nuôi cấy bề mặt thì pH MT ít bị thay
đổi trong quá trình nuôi do MT có dung đệm cao và hàm độ ẩm thấp. Tuy nhiên, pH
ban đầu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và hình thành enzym của
VSV. Ở pH 4,5 – 5,0 NS tạo hệ amylase tốt nhất sau đó đến hệ pectinase còn
protease thì kém hơn. Đa số NS phát triển và tạo amylase ở MT axit yếu trong khi
VK lại phát triển và sinh enzym cao ở MT trung tính. pH MT không chỉ ảnh hưởng
đến lượng enzym tổng hợp mà còn ảnh hưởng đến chủng loại enzym được tổng
hợp. Ví dụ, A.oryzae khi MT pH 6,5 thì ưu thế tổng hợp thuộc về α – amylase, trong
khi đó ưu thế thuộc về glucoamylase khi pH MT là 4,5 [45].
Trong suốt quá trình nuôi cấy NS, ta có thể điều chỉnh pH MT bằng axit
HCl, H
2
SO
4
, NaOH, KOH. Việc điều chỉnh pH thích hợp trong quá trình nuôi cấy
NS còn hạn chế sự tạp nhiễm do VK làm ảnh hưởng đến hoạt tính enzym [54].
- Độ ẩm MT
Khi nuôi cấy bằng phương pháp bề mặt, độ ẩm MT là một trong những yều
tố cần thiết cho sự sinh trưởng NS. Trong điều kiện sản xuất, độ ẩm ban đầu thích
hợp với NS là 58 - 60%, độ ẩm MT cần phải được duy trì trong quá trình sản xuất.
Độ ẩm cao sẽ làm giảm độ thoáng khí của MT, còn khi độ ẩm thấp lại kìm
hãm sự
sinh trưởng và phát triển của VSV cũng như kìm hãm sự tạo amylase [25, 31].
- Thời gian nuôi cấy
Thời gian nuôi cấy ảnh hưởng rất lớn đến sự tạo thành enzym. Trong quá
trình nuôi cấy NS, sự hình thành bào tử làm giảm khả năng tạo amylase. Tùy thuộc
vào tính chất sinh lý của từng chủng nấm và sự ngừng tổng hợp enzym mà có thể
ngừng sinh trưởng N
S vào lúc cần thiết. Ở đa số NS, sự hình thành amylase cực đại
thường kết thúc khi NS bắt đầu sinh bào tử. Thời gian kết thúc sự tạo thành amylase
thường từ 30 đến 42 giờ. [31, 33].
1.3.4. Các phương pháp thu nhận amylase từ NS.
a. Phương pháp nuôi bề mặt - MT nuôi dạng rắn.
NS phát triển trên bề mặt MT chất dinh dưỡng dạng rắn, xốp, ẩm. Nguyên
liệu chính thường là cám mì, cám gạo, cám nếp, bắp xay nhỏ, tấm gạo, gạo
nếp,…được bổ sung lượng nhỏ (10 – 20%) trấu, mạt cưa,..MT sau khi đư
ợc bổ sung
thêm một số chất dinh dưỡng khác thì hấp thanh trùng ở 1 – 1,5 atm/45 – 60 phút,
để nguội rồi cho bào tử nấm hay NS vào. MT đã cấy giống được trải trên khay nuôi
ở điều kiện tối thích. Sau khoảng thời gian thích hợp, người ta thu nhận MT đem
sấy nhẹ ở 40
o
C để đạt độ ẩm 8 – 12%, nghiền nhỏ. Đây chính là chế phẩm enzym
dạng rắn – thô. Sau đó, chế phẩm này còn phải trải qua giai đoạn tinh chế để thu
được enzym bán tinh khiết hay tinh khiết.
b. Phương pháp nuôi bề sâu (chìm) - MT nuôi dạng lỏng.
Nguyên liệu chính thường dùng là dịch đường hay dịch thủy phân cellulose,
tinh bột có bổ sung nguồn N vô cơ (NaNO
3
). Để tạo điều kiện cho NS sinh trưởng
tốt và tổng hợp nhiều amylase, người ta thường bổ sung thêm vào MT một số chất
thích hợp như: nước chiết mầm mạch, nước chiết ngô,….Phương pháp này đòi hỏi
phải có cánh khuấy hay máy lắc để đảo trộn MT cung cấp oxy cho NS phát triển.
Để thu nhận enzym, dịch lên men được cô đặc ở nhiệt độ thấp.
Phương pháp nuôi cấy bề mặt được sử dụng từ rất lâu và hiện na
y cũng được
ứng dụng nhiều hơn so với phương pháp nuôi bề sâu vì chi phí thấp mà khả năng
sinh tổng hợp enzym cao [26].
1.3.5. Một số ứng dụng amylase trong công nghệ sinh học.
a. Công nghệ rượu, bia, cồn.
Vài chục năm gần đây, người ta đã bắt đầu sử dụng chế phẩm amylase từ NS
Asp. oryzae hay Asp.awamori, VK Baccillus subtilis để thay thế malt trong việc
đường hóa tinh bột sản xuất rượu, bia từ nguyên liệu có c
hứa tinh bột. Việc sử dụng
chế phẩm amylase từ VSV thay malt đã tiết kiệm được hàng vạn tấn đại mạch tốt,
giảm giá thành sản phẩm và rút ngắn quá trình sản xuất [35].
Trước đây, sản xuất cồn từ nguyên liệu chứa tinh bột thường sử dụng malt
giống trong sản xuất bia. Sau đó, các nhà khoa học Nhật Bản đưa ra phương pháp
sản xuất amylase từ NS thay thế amylase của malt và được ứng dụng đến nay.
Amylase đầu tiên sử dụng trong sản xuất cồn là am
ylase thu được từ Asp.oryzae.
Tại Việt Nam hiện nay, người ta thường dùng chế phẩm Asp.usamii để sản
xuất rượu từ tinh bột [26].
b. Sản xuất bánh mì.
Khi thêm 0,002 – 0,003% chế phẩm amylase vào bột nhào sẽ nâng cao chất
lượng bánh mì về hương vị, màu sắc, thể tích riêng và độ xốp. N
hiệt độ vô hoạt α –
amylase của NS tương đối cao (70
o
C) nên có thể dùng enzym này với liều lượng
lớn mà vẫn không có hiện tượng dextrin hóa khi nướng. Hơn nữa, hoạt độ α –
amylase cao nên có thể đạt đến độ đường hóa cần thiết rất nhanh chóng, sau đó bị
vô hoạt ngay. Tuy nhiên, chế phẩm enzym NS (thường dùng từ Asp.oryzae) thường
là phức hệ enzym. Trong đó protease có thể làm cho chất lượng bánh mì xấu đi, do
đó phải loại bỏ protease trước khi sử dụng [26].
c. Sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Bổ sung chế phẩm amylase của Asp.oryzae, Asp. awamorii vào khẩu phần ăn
của ĐV nhất là ĐV non làm tăng khả năng đồng hóa dẫn đến tăng trọng nhanh.
Amylase là một trong những e
nzym được chú trọng trong chăn nuôi gia súc,
đặc biệt là lợn con cai sữa và sau cai sữa (từ 5 – 20kg). Đây là giai đoạn mà việc bổ
sung enzym vào thức ăn có tác dụng nhất để tăng trọng vả bảo vệ lợn. Enzym bổ
sung sử dụng theo 2 cách: trộn vào thức ăn hay dùng enzym xử lý thức ăn rồi mới
cho ĐV ăn nhằm làm tăng hệ số sử dụng thức ăn [36].
Tại Việt N
am, các nhà khoa học thuộc Viện Sinh học Nhiệt đới đã nghiên
cứu và sản xuất thành công hai loại thức ăn kích thích tăng trưởng cho mọi vật nuôi,
kể cả thuỷ sản từ bã sắn là sản phẩm lên men từ bã sắn sử dụng làm thức ăn gia súc
và giải quyết ô nhiễm MT: ProBio-S và Bio-E.
d. Một số ứng dụng khác.
-Trong y học và lâm sàng, chế phẩm amylase cho phép phát hiện các
oligosaccharide phân tử lượng lớn với độ nhạy cao.
- Trong công nghệ dệt, chế phẩm amylase đư
ợc dùng để phân hủy tinh bột trên
sợi vải.
Chương 2
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên vật liệu
2.1.1. Giống VSV
- Các chủng NS phân lập từ các mẫu đất, thân, lá cây,.. vào mùa khô ở RNM
Cần Giờ tại các xã: Long Hòa, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Bình
Khánh.
- Các VSV kiểm định: Escherichia coli, Bacillius subtilis.
2.1.2. Hoá chất và thiết bị.
a. Hóa chất
- Cồn, NaNO
3
, NaNO
2
, (NH
4
)
2
SO
4
, K
2
HPO
4
, MgSO
4
.7H
2
O, KCl, FeSO
4
.7H
2
O,
NaCl, HCl, NaH
2
PO
4
, Na
2
HPO
4
, Dinitrosalisilic, sodium potassium tartrate
(Trung Quốc), dầu DO (Việt Nam).....
- Glucose, maltose, lactose, sucrose, galactose, tinh bột tan, pepton, cao thịt,
casein (Trung Quốc) , thuốc thử lugol, HgCl
2
, nước chiết khoai tây, agar (Việt
Nam), cao nấm men (Mỹ), cao malt (Đức), cao thịt (Đức),...
- Cám, bã khoai mì, bột bắp, bột đậu nành, trấu (Việt Nam)
- Chế phẩm amylase Ter của Viện sinh học nhiệt đới cung cấp.
b. Dụng cụ
Bình tam giác, ống nghiệm, đĩa petri, pipet, que cấy, que gạt, bông không
thấm nước, bông thấm nước, khoan nút chai, đèn cồn, cốc thủy tinh, cối, chày,
phiến kính, lá kính,..
c. Thiết bị
Tủ cấy vô trùng (Việt Nam), tủ lạnh Nationa
l (Nhật Bản), tủ giữ mẫu Sanyo
(Nhật Bản), máy giập mẫu, máy lắc Gerhardt (Đức), cân điện Sartorius (Đức), tủ
ấm, tủ sấy Memmert (Đức), nồi hấp l
ực
Huxley (Đài Loan), máy đo mật độ quang,
kính hiển vi, máy chụp hình kỹ thuật số Olympus 5.1 (Nhật), máy đo pH Pometer
KL-009 (II) (Trung Quốc), máy ly tâm Rotina (Đức), thiết bị đo độ ẩm..