Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết văn học dân tộc_3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.14 KB, 7 trang )

Mối quan hệ giữa văn học dân gian và
văn học viết văn học dân tộc

Cặp khái niệm trên xuất hiện chủ yếu là dựa trên phương thức tồn tại của
hai loại hình văn học. Cặp khái niệm sau chủ yếu lại muốn bộc lộ bản
chất giai cấp của hai loại hình văn học đó. Loại thứ nhất là của quần
chúng bị áp bức. Loại thứ hai là của tầng lớp trên trong xã hội xưa.
Trong thực tế nghiên cứu văn học lâu nay, đó đây hình như có xu hướng
đối lập một cách cực đoan, giả tạo hai loại hình văn học này. Sự thật thì
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết là quan hệ hai mặt: vừa
đối lập vừa tương hỗ. Trong thực tiễn nghiên cứu, từng có khuynh
hướng chú ý nhiều và chú ý một cách máy móc tới mặt thứ nhất mà
không thấy hoặc coi nhẹ mặt thứ hai. Để thấy rõ mặt thứ hai, cần biết
cùng với thuật ngữ phôncơlo (folklor) còn có thuật ngữ phôncơlôric
(folklorique: tính chất dân gian) để chỉ hiện tượng những tác phẩm văn
học viết (văn học bác học) có nội dung, có yếu tố văn học dân gian, ghi
chép nội dung văn học dân gian ví như Việt Điện u linh tập của Lý Tế
Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp Thuật ngữ
phôncơlôridê (folkloríser: dân gian hoá) để chỉ hiện tượng một tác phẩm
văn học viết hoặc một bộ phận của một tác phẩm văn học viết chuyển
nhập vào kho tàng văn học dân gian.Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
ví dụ tiêu biểu cho hiện tượng một tác phẩm văn học bác học đã được
dân gian hoá một cách cao độ hiếm có. Nó được dân gian hoá bằng
nhiều phương diện, nhiều hình thức biểu hiện trong đó chuyện bói Kiều
là điều đáng nói nhất. Một số tác phẩm từng được coi là ca dao như bài
Cảnh Tây Hồ (Gíó đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà
Thọ Xương ) mà nay đã biết tác giả của nó là Dương Khuê, bài “Anh đi
anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương mà nay biết
tác giả của nó là Trần Tuấn Khải chính là hiện tượng một tác phẩm
văn học viết đã được dân gian hoá. Sơ bộ có thể nói mối quan hệ tương
hỗ giữa văn học dân gian với nền văn học viết đã diễn ra theo qui luật


này: lúc nào sức sống của dân tộc, của nhân dân trổi dậy thì lúc đó văn
học dân gian và những bộ phận tiến bộ trong văn học viết xích gần lại
với nhau. Hiện tượng phôncơloric và phôncơloridê càng có điều kiện
bộc lộ rõ rệt. Thực tiễn văn học viết và văn học dân gian ở giai đoạn nửa
sau thế kỷ 18, ở nửa sau thế kỷ 19 chứng minh cho điều chúng ta đang
nói. Vấn đề là cần tổng kết một cách đầy đủ các dạng phôncơloric và
phôncơloridê trong lịch sử văn học dân tộc cụ thể là gì? Điều này có liên
quan tới quan điểm về thể tài văn học trong lịch sử văn học Việt Nam
mà ở đấy quả có vấn đề số phận của một số thể tài như: bi ký, thần tích,
ngọc phả, văn phong tục, văn gắn voi tín ngưỡng dân gian, với hoạt
động tôn giáo Những thể tài đó có thuộc văn học hay không? Chắc
chắn là giữa cách nghĩ của người xưa và người nay không phải là một.
Với quan niệm có tính chất hiện đại hoá và phi lịch sử thì những thể tài
đó sẽ bị gạt ra ngoài lãnh vực văn học. Nhưng gần đây trong khoa
nghiên cứu văn học dân gian theo hướng mở lại đang có khuynh hướng
tìm đến với các thể tài đó. Mà như thế là chúng ta có thêm một phương
diện tư liệu để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn
học viết. Nhưng vấn đề chính đang cần tìm hiểu lại là trong phạm vi văn
học đích thực, văn học mỹ học. Ở đấy, mối quan hệ giữa văn học dân
gian và văn học viết lại có quan hệ mật thiết với vấn đề văn tự. Với văn
học viết bằng chữ Hán, trong hoàn cảnh quần chúng không chiếm lĩnh
được văn tự thì dường như chỉ có hiện tượng phôncơloric do vai trò tích
cực của tầng lớp trí thức bình dân và những phần tử trí thức tiến bộ khác
giàu tâm huyết và có hiểu biết về văn học dân gian. Còn hiện tượng
phôncơloridê về cơ bản không có. Như thế thì quan hệ giao lưu giữa văn
học dân gian và văn học viết đã có nhưng còn bị hạn chế ở một chiều.
Đến khi có văn học chữ Nôm, dù quần chúng chỉ mới chiếm lĩnh được
âm và nghĩa mà chưa chiếm lĩnh được tự thì cũng đã xuất hiện một khả
năng mới có ý nghĩa nâng cấp chất lượng quan hệ giữa văn học viết và
văn học dân gian. Hiện tượng phôncơloric sẽ đi đôi với hiện tượng

phôncơloridê và cả hai đều có khả năng phong phú hơn lên. Chính nhìn
thấy đặc điểm đó trong sự vận động của lịch sử văn học dân tộc, của mối
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết mà nhà nghiên cứu văn
học quá cố Cao Huy Đỉnh đã gọi thể loại truyện nôm bình dân là “văn
học thành văn của quần chúng” trong khi nhà nghiên cứu Hoàng Hữu
Yên trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thuộc tủ sách Đại học
Tổng hợp Hà Nội cũ xuất bản năm1963 thì coi đó là văn học dân gian và
nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng (sau này lấy bút danh Từ Sơn) lại
cho là sai, bởi theo ông nó là văn học viết. Văn học chữ quốc ngữ ra đời.
Xét trên lý thuyết thì khả năng tăng cường mối quan hệ giữa văn học dân
gian và văn học viết sẽ cao hơn vì với văn tự chữ quốc ngữ dù sao đối
với quần chúng cũng dễ chiếm lĩnh hơn so với chữ Nôm đặc biệt là so
với chữ Hán. Mà về thực tế, sơ bộ cũng thấy như vậy qua mấy hiện
tượng tiêu biểu như sau:

- Dùng chữ quốc ngữ để sưu tầm ghi chép văn học dân gian. Công việc
này bắt đầu với Trương Vĩnh Ký từ nửa sau thế kỷ XIX bằng các tác
phẩm như Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, được tiếp tục với một số
người ở nửa đầu thế kỷ XX như Nguyễn Văn Ngọc (ví dụ Truyện cổ
nước Nam, Đông Tây ngụ ngôn, Để mua vui). Đặc biệt từ sau 1954 thì
công việc này đã đạt tới những thành tựu bề thế chưa từng có. Trong lịch
sử Việt Nam chưa bao giờ văn học dân gian bao gồm văn học dân gian
của người Kinh, đặc biệt là văn học dân gian của các dân tộc ít người lại
được sưu tầm,thành văn hoá như trong thời đại ngày nay do có chữ quốc
ngữ nhưng quan trọng hơn là do ý thức của con người một khi đã tự giác
sâu sắc về kho báu văn học dân gian.

- Khai thác kho tàng văn học dân gian trong khi sáng tác văn học hiện
đại. Điều này thể hiện rõ ở hai hình thức sau: a) Tìm nguồn cảm hứng
cho thơ ca bằng cách đưa thơ ca trở về tắm mát trong suối dân ca. Phong

dao trong thơ ca Tản Đà, Trần Tuấn Khải là tiêu biểu cho hai hiện
tượng phôncơloric và phôncơloridê trong mối quan hệ giữa văn học viết
và văn học dân gian. b) Viết tiểu thuyết huyền thoại và tiểu thuyết lịch
sử bằng cách khai thác nguồn dạ sử vốn là sản phẩm thuộc phạm trù văn
học dân gian. Tiểu thuyết Qủa dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, hầu hết
các tiểu thuyết lịch sử ở nửa đầu thế kỷ XX tiêu biểu là của Nguyễn Tử
Siêu, đã nói lên điều đó. Hiện tượng này sẽ được tiếp tục trong tình hình
văn học sau ngày cách mạng thành công.

♦♦♦


Những gì được trình bày trên đây thực tế chỉ mới là sự luận bàn trên cơ
sở văn học của dân tộc Kinh với tư cách là nền văn học chủ công của
lịch sử văn học dân tộc. Do đó một câu hỏi vẫn phải đặt ra là: với một số
dân tộc ít người khác đã có chữ viết riêng và ít nhiều có văn học viết
riêng thì mối quan hệ giữa v ăn học dân gian và văn học viết đó là thế
nào? Thêm nữa giữa văn học dân gian của các dân tộc ít người nói
chung với nền văn học viết của dân tộc Kinh có hay không? Có tới mức
nào? Đây là những câu hỏi rất lý thú. Nhưng xin được treo lại chưa có
trả lời vì chưa có sự nghiên cứu. Mong được các bạn đồng nghiệp bổ
cứu tiếp sức cho. Tuy vậy thì vẫn muốn dự đoán rằng: trên đại thể,
những gì đã diễn ra trong văn học của dân tộc Kinh, ít nhiều cũng diễn
ra trong văn học của một số dân tộc đã có chữ viết và văn học chữ viết.
Sơ bộ nhìn vào văn học viết của dân tộc Thái ở Tây Bắc bằng chữ Thái
riêng và chữ Nôm đã có chút căn cứ bước đầu để dự đoán như thế đối
với câu hỏi thứ nhất.

Cuối cùng, một vấn đề nữa cũng có thể đặt ra để suy nghĩ là trong nền
văn học Việt Nam hiện đại, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học

dân gian là thế nào? Văn học dân gian có còn đóng vai trò làm nền kết
tinh cho văn học viết nữa không? Qủa thật đây cũng lại là một vấn đề rất
thú vị, nhưng rất phức tạp. Bởi lẽ chung quanh vấn đề có hay không có
văn học dân gian trong thời hiện đại, và nếu có thì việc đánh giá nó thế
nào đã là có chuyện tranh chấp nhau khá gay gắt, thậm chí có thể qui kết
nhau khá nặng nề. Không phải không có người đã cho rằng duới chế độ
mới mà nhân dân được làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước
trong đó có sự làm chủ về văn hoá thì còn gì phải có văn học dân gian.
Nếu có thì đó chỉ là tiếng nói phản động cần lên án, cần loại bỏ. Đây là
cách nói của một vài người trên báo chí mà trong bối cảnh xã hội một
thời, nó dường như là tiếng nói chính thống do đó không phải không có
người đồng tình, ít ra thì cũng không dám phản bác. Đến hôm nay thì
chắc là không ai nghĩ đơn giản và thô thiển như thế nữa một khi đã thấy
sự có mặt của văn học dân gian hiện đại dưới hình thức ca dao hò vè,
nhất là giai thoại, truyện kể với đủ nội dung trong đó có cả nội dung
chọc trời, nói là táo bạo cũng được, nói là trắng trợn được. Có điều là
dường như với các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa hết ngợp
trước hiện tượng vốn dĩ nhạy cảm, phức tạp đó. Cho nên ở đây cũng khó
nói được gì hơn. Nhưng vẫn có thể nghĩ rằng, gì thì gì, mối quan hệ giữa
văn học dân gian (nếu có thừa nhận) với văn học viết trong thời hiện đại
này về cơ bản đã khác trước. Bởi trong thời hiện đại này, dù còn nhiều
hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhưng không
có nghĩa là nhân dân chưa làm chủ được gì trong cuộc sống nói chung,
trong văn hoá,văn học nói riêng. Từ thực tế đó, sẽ có sự hoà quyện giữa
văn học của mọi tầng lớp nhân dân trong một đất nước. Và như thế thiết
tưởng cũng khó nói đến cái gọi là vai trò làm nền của văn học dân gian
đối với nền văn học viết như ở các thời đại trước.

×