Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhìn nhận thêm về vị trí của Vũ Đình Long (1896 1960) trong lịch sử văn học_2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.95 KB, 8 trang )

Nhìn nhận thêm về vị trí
của Vũ Đình Long (1896 -
1960) trong lịch sử văn học





Vũ Đình Long quê gốc ở thôn Mộc Xá, xã Cao Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà
Đông (nay là Hà Tây). Sinh ngày 19-12 năm 1896, mất ngày 14-8-1960 tại Hà Nội. Hội
viên Hội Nhà văn (1957) và Hội viên Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.
Lúc thiếu thời, ông học chữ Nho. Từ 1907 đến 1915, ông theo học Trường
Tiểu học Pháp-Việt và Trường Trung học Paul Bert. Năm 1916 ông theo học ngành
bào chế trường Thuốc. Sau đó, ông chuyển sang dạy học tại Thị xã Hà Đông. Từ
năm 1925, ông mở hiệu sách và Nhà xuất bản Tân Dân; làm chủ Nhà in Tân Dân và
chủ trương các báo: Tiểu thuyết thứ Bảy(1934-1942); Phổ thông bán nguyệt
san (1936-1941); Tuần báo Ích Hữu (1937-1938); Tạp chí Tao Đàn (1937-1938);
Năm 1943 ông trở lại sáng tác với vở Đàn bà mới. Thời kì kháng chiến chống Pháp
ông tản cư cùng gia đình ở Hà Đông, Việt hóa và phóng tác nhiều vở kịch Pháp.
Các tác phẩm chính:
Chén thuốc độc (Kịch 3 hồi – 1921); Tây Sương tân kịch
(2)
(Kịch 5 hồi –
1922); Toà án lương tâm (Bi kịch 4 hồi – 1923); Đàn bà mới (Kịch 4 hồi – 1944), Thờ
nước (1947), Việt hóa vở Servir của Henri La Vedan; Công tôn nữ Ngọc Dung (1947) –
Việt hóa vở L’Averturiére của Emile Augier; Tổ quốc trên hết hay là Tình trong khói
lửa (1949), Việt hóa vở Horace của Corneille; Gia tài (1958), Việt hóa vở Le Legrataire
Universel của Regnard; Ép duyên hay là Trên đường cải tạo (1958).
*
Nhìn vào danh mục tác phẩm, ta thấy Vũ Đình Long sáng tác không nhiều. Nhưng
với vở Chén thuốc độc (1921), ông lại có vị trí rất đặc biệt trong lịch sử văn học Việt


Nam hiện đại. Ngay khi vở kịch được gửi đến Toà soạn Hữu Thanh tạp chíngày 26-7-
1921 và công diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn Hà Nội đêm 22-10-1921, nhiều văn sĩ, ký
giả, nhiều nhà hoạt động xã hội và công chúng đương thời đã tôn vinh Vũ Đình Long là
người mở đầu cho thể loại kịch trong lịch sử văn học nước ta. TrênHữu Thanh tạp chí số
3 năm 1921, nhân khi nhận được vở kịch do tác giả gửi đến, chủ bút Tản Đà - Nguyễn
Khắc Hiếu đã viết những lời cảm khái sau đây: “Vở kịch của ông Vũ Đình Long in ra
sau đây, so với văn giới các nước thời chưa dám biết ra làm sao, so với quốc văn sau này
cũng chưa dám biết ra làm sao. Nhưng cứ trong áng văn chương hiện thời của ta hiện
nay, thời vở kịch của ông tưởng cũng đáng là có giá trị. Ông Vũ Đình Long mang một
cái văn tài như thế, sao trước không thấy ông ra với xã hội? Nay, nhân một ông Vũ
Đình Long mà suy nghĩ, trong xã hội chắc cũng còn nhiều người có mang cái văn tài ấy
như ông Vũ Đình Long, hơn ông Vũ Đình Long mà ngọc náu đầu non, châu chìm đáy
biển, khiến cho kẻ tháng ngày mong mến ngóng nước thu man mác ngọn khiêm hà. Nay,
nhân một ông Vũ Đình Long mà tôi sinh ra vô hạn cảm khái cho văn giới nước nhà.
Cũng nhân một ông Vũ Đình Long mà tôi có một chút mừng cho văn vận nước ta vậy
In vở kịch này của ông Vũ Đình Long tưởng cũng là có một chút công với quốc văn”
(3)
.
Ba tháng sau, nhân lần công diễn đầu tiên do Hội Bắc Kỳ công thương đồng
nghiệp và Hội đồng diễn kịch tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội đêm 26-10-1921 để lấy
tiền giúp đỡ trẻ mồ côi, nhiều bài diễn thuyết đã đưa Vũ Đình Long và vở Chén thuốc
độc lên vị trí mở đầu của kịch cũng như của nền văn học mới. Đây là lời ông Nguyễn
Mạnh Bổng – Tổng thư ký Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp: “Văn học sử nước ta
sau này chép đến lối văn kịch có lẽ sẽ kể đầu từ bản kịch Chén thuốc độc này của ông
Vũ Đình Long. Vì kịch bản nước ta soạn theo lối mới này, ông Vũ Đình Long là người
xuất hiện thứ nhất. Bản kịch đầu tiên của ông ở trong làng văn lại là bản kịch xuất sắc
hơn Ngày 22 tháng 10 năm 1921 này thực sự là một ngày kỷ niệm lớn trong văn học
sử nước ta về việc diễn kịch theo lối mới mà thuần nhiên dùng văn ta tả những cảnh xã
hội ta”
(4)

.
Cũng trong đêm diễn đó, ông Dương Nhữ Tiếp – Hội trưởng Hội đồng diễn kịch
nhận xét: “Chưa bao giờ có bản tuồng tả phong tục Annam, diễn theo đúng thể cách
Annam như bản kịch Chén thuốc độc của ông Vũ Đình Long mà chúng tôi diễn ngày
hôm nay”
(5)
.
Sau đêm diễn, các báo xuất bản trong nước bằng tiếng Việt như: Nam Phong,
Thực nghiệp dân báo, Hữu Thanh tạp chí và tiếng Pháp như: L’avenir du Tonkin, Le
courrier d’Hai phong, France-Indochine, v.v đều đăng các bài tường thuật, giới thiệu,
phê bình, tạo dư luận rất sôi nổi xung quanh vở diễn. Người ta xem đây là trường hợp
thành công có ý nghĩa mở đường, là dấu hiệu của một thời kỳ văn học mới.
Vị trí của Vũ Đình Long và ý nghĩa của sự ra đời vở kịch Chén thuốc độc theo đánh
giá của những người đương thời như ta vừa thấy ở trên là hoàn toàn chính xác và thoả
đáng. Sau sự xuất hiện của vở kịch, một thể loại mới trong lịch sử văn học dân tộc đã ra
đời và phát triển, khiến cho diện mạo văn học Việt Nam thời kỳ này đổi khác, đầy đủ hơn,
hoàn thiện hơn và hiện đại hơn. Nó không chỉ làm thay đổi tính chất mà còn làm thay đổi
cả cấu trúc của nền văn học. Cũng như nhiều nước trong khu vực Đông và Đông Nam
châu Á, trước khi có kịch nói, Việt Nam chỉ có Tuồng, Chèo và Rối nước vốn là những
loại hình nghệ thuật trình diễn với đặc trưng hàng đầu là phi văn bản. Tuy đến thời kỳ cận
đại, với vai trò của Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, Bùi Hữu Nghĩa (Tuồng), Nguyễn Đình
Nghị, Nguyễn Thúc Khiêm (chèo) thì các tích Tuồng, tích Chèo đã được san nhuận, chỉnh
lý và biên soạn để trở thành một nghệ thuật có văn bản, nhưng chủ yếu vẫn là những văn
bản hình thành dựa trên những tích truyện có sẵn cho nên vai trò bác Thơ, vai trò ông
Trùm, vai trò thầy Tuồng vẫn lấn át vai trò nghệ sĩ sáng tạo và văn bản các vở Tuồng,
Chèo do họ thiết lập vẫn chưa mang đầy đủ tính chất của một sáng tác văn học. Khi kịch
nói xuất hiện, đồng thời với sự xuất hiện kịch bản là sự hiện diện của vai trò tác giả với tư
cách là nhà văn, nhà nghệ sĩ sáng tác. Kịch bản là phương thức tồn tại đời sống văn học
của kịch để từ đó người ta tạo lập đời sống sân khấu (vở diễn) cho nó. Như vậy, với Kịch
nói, kịch bản văn học là cái có trước vở diễn sân khấu. Tư cách là một thể loại văn học

của kịch nói cũng được khẳng định trước hết ở đặc điểm này.
Như ta đã biết, trước khi xuất hiện vở Chén thuốc độc, dưới ảnh hưởng của các vở
kịch dịch, đặc biệt là vở Người bệnh tưởng của Moliere do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, các
trí thức Việt Nam thời đó gồm: Đoàn Ân, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Hữu Kim, Vũ Đình
Long, Hồ Trọng Hiếu, Nguyễn Ngọc Sơn, v.v… đã thành lập Hội Uẩn hoa, “sáng tác
những vở “thời kịch” mô phỏng theo kịch Thái Tây để bổ ích cho nhân tâm thế sự nước
nhà”. Các vở Mảnh gương đời, Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải; Cô giáo
Phượng của Nguyễn Ngọc Sơn; Dây oan của Đoàn Ân… ra đời như một sự tập dượt,
một sự chuẩn bị cho sự ra đời của vở Chén thuốc độc.
Theo Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu – Chủ bút Hữu Thanh tạp chí
(6)
, vở kịch Chén
thuốc độc được tác giả Vũ Đình Long gửi đến Toà soạn ngày 26 tháng 7 năm 1921. Đến
tháng 9 năm 1921, toàn bộ vở kịch 3 hồi được đăng trên Hữu Thanh tạp chí các số 4 và
5. Sau đó, vở kịch được dàn dựng và công diễn trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội đêm
22 tháng 10 năm 1921.
Người đương thời gọi đây là vở bi hài kịch được soạn theo “lối kịch thái Tây”,
chủ yếu là theo hài kịch của Molière, bi kịch của Corneile và Racine – là những tác giả
của kịch cổ điển Pháp thế kỷ XVII được các tầng lớp Tây học ở Việt Nam biết đến qua
các bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh in trên Đông Dương tạp chí và Nam
Phong tạp chí từ mấy năm trước đó. Về cơ bản, nghệ thuật biên kịch ở Chén thuốc
độc vẫn tuân theo qui tắc tam nhất của kịch cổ điển. Nhưng về thể loại, ở Chén thuốc
độc là sự pha trộn giữa bi kịch và hài kịch như xác nhận của người đương thời. Nếu ở
đây có sự lẫn lộn hoặc sự không nhận thức thấu đáo về đặc trưng mĩ học của bi kịch và
hài kịch thì cũng là điều dễ hiểu. Đến tận đầu những năm 30, khi ảnh hưởng phương Tây
và ảnh hưởng Pháp đã đạt đến độ chín muồi, nhiều tác giả vẫn còn tỏ ra chưa có ý niệm
thật đầy đủ và chính xác về vấn đề này thì ở buổi đầu trứng nước, còn đầy những mới lạ,
ngỡ ngàng như Vũ Đình Long, tránh sao nổi hiện tượng đó?
Nội dung câu chuyện kịch Chén thuốc độc kể về gia đình thầy Thông Thu – một
công chức khá giả trong xã hội đương thời. Trước những tác động của xã hội, mỗi thành

viên trong gia đình thầy hư hỏng theo mỗi cách khác nhau. Mẹ và vợ thì nhiễm thói
đồng bóng, chỉ ham mê buôn thần bán thánh, chăm lo lễ lạt, chầu ngự; em thì hư hỏng,
chửa hoang; còn bản thân thầy thì đam mê hát xướng, thường xuyên lui tới “xóm Bình
Khang”, lại thêm bọn du đãng bợ đỡ, nịnh hót, dắt díu vào các cuộc chơi bời Nề nếp
gia đình đảo lộn; nợ nần chồng chất ngày một nhiều; gia phong bại hoại. Khi sực tỉnh,
nhận ra thảm kịch đó thì cơ sự đã muộn, gia sản bị tịch thu. Trong cơn bế tắc, thầy
Thông Thu không biết làm gì khác hơn là tìm đến chén thuốc độc để giải thoát. Kết cục
bi đát sắp diễn ra thì may sao, có người mang thư và giấy mời nhận tiền đến. Đó là món
quà của người em lưu lạc sang Lào đã biệt tích từ lâu, nay khá giả gửi tiền về biếu mẹ và
anh. Có được món tiền, thầy Thông Thu qua được cái chết, trả được nợ, cứu vãn được
gia đình và từ đó tu tỉnh bản thân.
Câu chuyện đơn giản và kết thúc một cách ngẫu nhiên, tình cờ nhưng ý nghĩa của
nó lại rất thực, rất hợp với xã hội Việt Nam đương thời nên nó được công chúng đón
nhận và dư luận đánh giá cao. Trong bài diễn thuyết của ông Nguyễn Huy Hợi – Hội
trưởng Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp tại buổi công diễn đầu tiên có đoạn: “Chén
thuốc độc tưởng tượng ra một cái gia đình ở trong buổi giao thời này, tả ra những cái
nhầm nhỡ gây nên tai vạ khiến cho người xem rõ được nhẽ phải chăng, thật là có ích cho
phong hoá nước nhà”.
Có thể nói, những hiện tượng và những nguyên nhân suy thoái đạo đức đẩy gia
đình thầy Thông Thu đến nguy cơ đổ vỡ, tan nát là hiện tượng và nguyên nhân khá phổ
biến trong xã hội Việt Nam thời kỳ này. Trước sự xâm nhập của lối sống phương Tây,
xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã diễn ra những thay đổi khá căn bản, đặc
biệt là ở thành thị và lớp người mới chịu sự đào luyện của môi trường giáo dục Pháp.
Bên cạnh những thay đổi theo hướng tiến bộ, những giá trị tích cực phù hợp với qui luật
phát triển của lịch sử và văn hoá, có không ít những cái kệch cỡm, lai căng, những biểu
hiện của lối sống vị kỷ, chạy theo sở thích cá nhân, chà đạp lên đạo lý và thuần phong
mĩ tục dân tộc. Thực trạng đó không chỉ diễn ra trên bình diện xã hội mà còn tấn công
vào từng gia đình, từng cá nhân, phá vỡ những thiết chế đạo đức và tinh thần tưởng như
“không di dịch” (Hoài Thanh) trong xã hội Việt Nam hàng nghìn năm trước.
Ở vở kịch này ta thấy, Vũ Đình Long tuy không đứng hẳn trên lập trường đạo đức

phong kiến để phê phán, nhưng trong khi phê phán ta vẫn thấy ông là người nhân danh
truyền thống, đại diện cho truyền thống là chính chứ chưa phải là người nhân danh cái
mới, cái tiến bộ. Nói đúng hơn, ở vở kịch này, cũng như vở Toà án lương tâm được sáng
tác 2 năm sau (1923), Vũ Đình Long mới chỉ đứng về phía lương tri, nhân danh lương tri
để phanh phui, phê phán và kết án dục vọng (chủ yếu là dục vọng cá nhân) là chính.
Qua sự phê phán của Vũ Đình Long ta nhận thấy rất rõ những vấn đề xã hội đạo
đức diễn ra trong xã hội Việt Nam ở buổi giao thời.
Cũng như rất nhiều vở kịch khác được viết vào những năm 20, hạn chế lớn nhất
của Chén thuốc độc là tính thuyết giáo, một căn bệnh có nguồn gốc cả từ trong nghệ
thuật truyền thống của dân tộc lẫn nguồn gốc từ kịch cổ điển châu Âu. Như nhận xét của
người đương thời, các tác giả đã nhảy xổ cả vào nhân vật của mình để thuyết giáo về đạo
đức, để răn dạy về đạo lý. Sự say sưa đó khiến cho tác giả không còn tôn trọng được
lôgíc khách quan của vở kịch, không chế ngự được tình huống. Do đó tác giả phải mượn
đến cái cớ ngẫu nhiên để can thiệp vào vở kịch như bức thư và tờ giấy nhận tiền trong
vở Chén thuốc độc là chuyện dễ hiểu.
Dẫu sao, với sứ mệnh mở đầu, vở Chén thuốc độc xứng đáng được lịch sử văn
học ghi nhận, và tác giả của nó – Vũ Đình Long xứng đáng đứng vào hàng những tác giả
tiên phong của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Sau vở Chén thuốc độc (1921), năm 1922 Vũ Đình Long phóng tác vở Tây Sương
tân kịch (Kịch 5 hồi) dựa theo Tây Sương ký của Vương Thực Phủ, nhưng vở kịch
không gây được dấu ấn gì đặc biệt. Đến năm 1923, Vũ Đình Long viết tiếp vởToà án
lương tâm – một vở bi kịch 4 hồi, 1 cảnh.
Khác với vở Chén thuốc độc kết thúc có vẻ có hậu, vở Toà án lương tâm kết thúc
trong cảnh sân khấu la liệt xác chết giống như cảnh tượng trong một số vở bi kịch của
W. Shakespeare vậy.
Trong Lời nói đầu của vở kịch, tác giả Vũ Đình Long tiết lộ: “Chúng tôi vốn thích
đọc kịch Tây nên đã hiểu qua loa được những phép tắc của thuật soạn kịch. Chúng tôi
tập làm quốc văn, thấy hiện trong văn giới nước ta chưa ai lưu tâm đến việc soạn kịch
theo lối mới nên đánh bạo thử viết Toà án lương tâm này, là bản kịch thứ ba của chúng
tôi, nhưng kể về bi kịch thì mới là bản thứ nhất mà chúng tôi tự xét hãy còn nhiều

khuyết điểm”.
Rõ ràng trong ý thức tác giả, đây là vở bi kịch học theo lối viết của kịch Tây.
Nội dung vở kịch có phần giống với vở Chén thuốc độc. Đó là câu chuyện xẩy ra trong
một gia đình công chức (thầy Ký Phú) “gia thế sa sút nhưng vẫn giữ lối Nho phong”
(lời dẫn của tác giả về bài trí). Thầy Ký Phú tuy làm công chức nhưng lại yêu văn
chương nghệ thuật, thích sống trong sạch theo đạo lý Nho gia và là người chồng chỉn
chu, chí thú trong công việc. Nhưng trái lại, vợ thầy là cô giáo Quý lại thích đua đòi ăn
chơi, khao khát phú quí vật chất. Từ chỗ chê bai chồng, cô đã tiến đến chỗ phản bội
chồng, bắt nhân tình với một thanh niên nhà giàu, có học nhưng bất lương với mục
đích vừa để thoả mãn ham muốn nhục dục cá nhân, vừa để bòn rút của cải. Vì muốn
được tự do thực hiện ý đồ của mình, cô đã cùng với tình nhân mưu giết chồng là Ký
Phú. Sợ bị bại lộ, họ đã giết luôn cả người bạn tốt và người đầy tớ trung thành của
chồng. Thực hiện xong âm mưu, gian phu, dâm phụ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật,
hết lăn lóc trong các cuộc truy hoan lại lăn lóc trong các cuộc bài bạc. Nhưng mọi
chuyện rồi cũng đến lúc phai nhạt. Lương tâm cắn rứt, chịu không nổi, trong sự hối
hận muộn màng, cả hai đã kết thúc cuộc đời bằng súng lục. Đến trước khi chết họ mới
nhận ra: “Nghiêm ngặt, ghê gớm thay là toà án lương tâm. Luật pháp của xã hội thì còn
có thể vượt qua được, chứ đến cái lưới của toà án lương tâm thì tội nhân, ác phạm
không tài nào tránh thoát” (Lời ả Quay – Scène thứ VIII).

×