Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động . pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.07 KB, 6 trang )

Nhà văn Lê Tràng Kiều, một
cuộc đời hành động







Những năm giữa và cuối thập kỷ ba mươi của thế kỷ XX, nhà văn Lê Tràng Kiều
có những cống hiến thực sự cho văn học, đồng thời, ông cũng gặp những khó khăn rất
đáng kể. Thời gian này, trong đời sống văn chương, báo chí, một số người đã nêu vấn đề
về Truyện Kiều của Nguyễn Du, coi đó là sách dâm ô có thể làm bại hoại đến những thuần
phong mỹ tục của bình dân. Lê Tràng Kiều đã phải viết bài Nghệ thuật để bênh
vực Truyện Kiều, đăng trên Hà Nội báo số 2 năm 1936. Ông khẳng định Truyện Kiều là
tác phẩm có thể an ủi người bình dân “sau những giờ cần lao hay là trong những giờ cần
lao, họ ngâm lên những câu như Lơ thơ tơ liễu buông mành/ con oanh học hót trên cành
mỉa mai, để họ hả hê lòng, để cho quên mệt nhọc…”. Tháng 5 năm 1936, tác phẩm Văn
chương và hành động mà Lê Tràng Kiều đồng tác giả với Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư
đã bị nhà đương cục thu tất cả đưa về nước Pháp và ra lệnh cấm lưu hành. Lê Tràng Kiều
bị chính quyền đương thời coi là kẻ đứng đầu nhóm Văn chương và hành động, nên ông
bị gọi ra toà. Chúng tôi, khi đi tìm hiểu về cuộc đời nhà văn Lê Tràng Kiều, có được gặp
và nghe những người bạn của ông, như nhà viết kịch Bùi Nguyên Cát, người cùng ông lập
ra Ban kịch Hà Nội; nhà văn Phạm Văn Kỳ, thư ký toà soạn báo TTTN; nhà văn Ngọc
Giao, thư ký toà soạn báo Tiểu thuyết thứ bảy kể cho biết việc đó. Nhà viết kịch Bùi
Nguyên Cát còn nói: “Anh Kiều bị chính quyền thực dân coi là cầm đầu nhóm Văn
chương và hành động, còn ta thì coi là chủ soái Nghệ thuật vị nghệ thuật, thực khổ!”. Cho
đến năm 1999, nhà xuất bản Hội Nhà văn in lại cuốn Văn chương và hành động, thì Lời
bạt cho cuốn sách lại viết rằng, Hoài Thanh là tác giả chủ yếu. Một lần đến thăm nhà viết
kịch Bùi Nguyên Cát, tôi nói việc đó, ông đã nói: “Sao họ cứ làm khổ anh Lê Tràng Kiều
mãi thế!”. Câu chuyện với ông Bùi Nguyên Cát hôm đó chúng tôi mới hiểu ra, tên các tác


giả Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư trên bìa sách là xếp theo vần A, B, C,
không có ý nghĩa gì khác. Trở lại với Lê Tràng Kiều năm 1936. Đúng là hoạ vô đơn chí,
chưa qua khỏi tai ương về Văn chương và hành động, thì đến Hà Nội báo cũng bị đình
bản. Dù vậy, ông và các bạn văn cùng chí hướng vẫn kiên định và tâm huyết với văn
chương. Lê Tràng Kiều gây dựng một tờ báo mới, là tuần báo Tiểu thuyết Thứ
năm (TTTN). Ngay từ những số đầu, TTTN đã đăng các tác phẩm của Đồ Phồn, Nguyễn
Đình Lạp, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Can, Phạm Huy Thông… Rồi bắt đầu đăng tiểu
thuyết Quý phái của Vũ Trọng Phụng. Báo đăng những tác phẩm như truyện ngắn Nghỉ
mát Chapa của Bùi Huy Phồn, mô tả sự thối nát của quan chức đương thời; như phóng
sự Gặp một ông nghị lôi thôi của Vũ Trọng Phụng, nói về những tệ hại của các nghị
viên… Do vậy, mới ra được 13 số thì TTTN lại bị đình bản! Lê Tràng Kiều và các bạn
văn lại lao đao, vất vả. Mãi đến tháng 10 năm 1938, tờ TTTN mới được xuất bản trở lại.
Để có thể ra báo, Lê Tràng Kiều phải chấp nhận với chủ báo Lê Cường là, lương cho anh
em trong toà soạn và nhuận bút cho tác giả thì toà báo phải lo lấy, còn tiền bán báo thì chủ
báo thu. Vừa làm chủ bút, vừa lo chạy quảng cáo để có tiền nuôi anh em trong toà báo, Lê
Tràng Kiều vẫn viết nhiều. Cả đời viết, ông còn ký nhiều bút danh khác nữa, như Lê
Tùng, Phan Hữu, Trường Thiên… Riêng bút danh Lê Tràng Kiều và Nàng Lê ông dùng
nhiều nhất trong thời kỳ làm báo TTTN. Qua những số báo TTTN mà chúng tôi có trong
tay, ông viết tới hơn hai mươi bài phê bình, tiểu luận văn học, tản văn, ngoài ra còn có các
bài bình luận xã hội và cả tản văn dưới hình thức ký sự điều tra. Đó là chưa kể một số
truyện ngắn của Tình Thiên mà chúng tôi ngờ rằng đó là một bút danh khác của ông.
Có thể thấy rõ, giai đoạn từ 1936 đến 1939, Lê Tràng Kiều viết được khá nhiều.
Năm 1936, nhà xuất bản Phương Đông đã giới thiệu sách sắp in, có thiên tiểu
thuyết Ngoài vườn trăng giãi do Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư là đồng tác giả. Rất tiếc,
đến nay chúng tôi không có trong tay ấn bản hoặc bản thảo tiểu thuyết này. Ông sống rất
tận tâm với văn nghệ nước nhà. Cũng thời kỳ này, ông đã cùng với Chu Ngọc, Vũ Trọng
Can, Bùi Nguyên Cát lập ra Ban kịch Hà Nội, được khán giả đương thời rất yêu chuộng.
Với một tài năng và tâm huyết như vậy thì không khó khăn nào có thể khiến ông ngừng
hoạt động, ngừng cống hiến cho xã hội. Và ngay sau khi báo TTTN ngừng bản cuối năm
1939, Lê Tràng Kiều vào Nam. Và rồi ông lại chủ trương một tờ báo khác tại Sài Gòn, là

báo Lá lúa. Những năm này đất nước trải qua nhiều đau thương, biến động khôn lường,
nghề văn chương báo chí thực vô cùng khó khăn. Rồi Cách mạng tháng Tám. Rồi toàn
quốc kháng chiến chống xâm lược Pháp. Ngay thời điểm cuối năm 1946, Lê Tràng Kiều
lại tập hợp được một nhóm bạn cùng chí hướng gồm Thiết Can, Lý Hải Châu, Thê Húc
Phạm Văn Hạnh, Mai Văn Bộ, Vũ Tùng… Ông cùng các bạn xuất bản tờ báo Dân
quyền với khẩu hiệu in ngay bên tên báo: Một dân tộc- Việt Nam; một lực lượng- đoàn
kết; một phương pháp- tranh đấu; một tinh thần- dân chủ; một mục đích- độc lập.
Báo Dân quyền theo đường hướng chống đế quốc, thực dân và chính thể bù nhìn, nên lại
bị cấm. Nhưng, nhóm các ông lại ra tờ báo khác. Lại bị cấm. Rồi lại có tờ báo mới thay
thế. Thực chất, toà soạn các báo Ngày nay, Việt báo,rồi Lẽ sống, và rồi Phụ nữ… đều do
nhóm Lê Tràng Kiều làm. Vậy là, từ khi vào Nam, Lê Tràng Kiều hoạt động chuyên sâu
hơn trong lĩnh vực báo chí chính trị xã hội. Cả đời ông đã viết thật nhiều, nhưng có lẽ chỉ
mới có một tác phẩm xuất bản thành sách, là cuốn Văn chương và hành động mà ông
đồng tác giả với Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư. Trong tác phẩm này, ngay dưới tên sách,
tác giả ghi: “Thay lời tuyên ngôn của văn phái Phương Đông”. Nội dung chính của
sách gồm những tiểu luận văn chương, mang tính mỹ học cao. Sau Lời nói đầu là tiểu
luận ý nghĩa đời người. Trong tiểu luận này, nhà văn có luận về tín ngưỡng, rằng: “Phải
tin ở cuộc sống, phải hăng hái sống, phải làm thế nào cho đời ta và đời của mọi người
chung quanh ta ngày một đầy đủ thêm, dồi dào thêm- đó là một tín ngưỡng căn bản…”.
Thế rồi, hầu như cuộc đời Lê Tràng Kiều đã được dẫn dắt bởi lý tưởng tin ở cuộc sống và
hết mình vì cuộc sống đó. Ông đã hành động, luôn luôn hành động, viết văn, làm báo và
viết báo, viết rất nhiều những bài vun đắp cho tinh thần chiến đấu của nhân dân vì độc lập,
hạnh phúc, tự do và thống nhất… Suốt thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước, bà con Nam
bộ đã thân mật gọi Lê Tràng Kiều và các bạn ông là Nhóm ký giả kháng chiến…
*
Sau năm 1975, đất nước hòa bình thống nhất. Trong một buổi làm việc của đại diện
Văn nghệ ngoài Bắc với đại diện Văn nghệ Giải phóng, tại trụ sở Hội Văn nghệ Giải
phóng, Lê Tràng Kiều gặp lại Nguyễn Xuân Sanh mới từ Hà Nội vào. Hai ông ôm riết lấy
nhau hồi lâu. Sau gần bốn mươi năm xa cách, trong câu chuyện hàn huyên, Lê Tràng Kiều
chỉ muốn nghe Nguyễn Xuân Sanh kể về những tiến triển của văn chương ngoài Bắc. Ông

nhớ quê hương trong nỗi nhớ văn chương thật sâu thẳm, thật diết da. Đó là những giờ
phút bừng dậy trong Lê Tràng Kiều một sức sống văn chương to lớn tiềm ẩn nơi đáy lòng
mấy chục năm trường… Khi đi tìm hiểu về đời sống nhà văn Lê Tràng Kiều, chúng tôi
gặp gỡ được một số bạn văn từng cùng ông làm báo, cùng ông hoạt động trong Ban kịch
Hà Nội, từng chia sẻ buồn vui cùng ông; và, gặp cả nhà thơ lão thành Nguyễn Xuân Sanh,
để hỏi chuyện. Vậy nên chúng tôi mới biết được một số chuyện về cuộc sống của ông,
một số công việc ông đã làm, như chúng tôi viết ở trên. Chúng tôi cũng được biết, nhà văn
Lê Tràng Kiều đã qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, do bệnh nặng. Từ ngày
ông qua đời đến nay, ngót một phần ba thế kỷ đã trôi qua. Trong bộ sách đồ sộ Tổng tập
văn học Việt Namdày hàng mét, phần ghi về Lê Tràng Kiều chỉ có dăm dòng mà lại chưa
rõ năm sinh, năm mất, cũng không viết về quê quán! Cuối thế kỷ XX, sự nghiệp đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã trở nên sâu rộng trong đời sống. Các bạn Pháp đã
tặng lại ta bản in tác phẩm Văn chương và hành động; và nhiều số báo Tiểu thuyết Thứ
năm mà Lê Tràng Kiều cùng các bạn văn làm những năm ba mươi, thế kỷ XX cũng từ
Pháp trở về. Đó là niềm vui cho đời sống văn chương Việt Nam. Nhưng không ngờ, Lê
Tràng Kiều lại được một vài nhà nghiên cứu lý luận văn học hôm nay nhìn nhận và ứng
xử rất khác nhau. Như nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện, trong Lời bạt cuốn Văn chương và
hành động, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 1999, không biết đã dựa vào chứng
cớ nào mà viết: “Nhưng công lao biên soạn nội dung là thuộc về Hoài Thanh. Ông chủ
biên và chấp bút hầu như toàn bộ cuốn sách… Hoài Thanh là đại diện có thẩm quyền cao
nhất đối với bản quyền bài vở trong sách”(!) Tác phẩmVăn chương và hành động gồm hai
phần. Phần phụ lục có 2 bài dịch gồm Lời tựa tập Lá thu của V. Hugo; và, bài diễn văn
của A. Gide đọc ngày 22 Juin 1935 tại Hội nghị quốc tế các nhà văn, phụ thêm lời bình
luận của Hoài Thanh. Còn phần nội dung chính gồm 11 bài, từ bài 1 là Lời nói đầu, đến
bài 11 là Kết luận. Cuối bài Kết luận, cả ba tác giả cùng đứng tên. Nhà văn Nguyễn Ngọc
Thiện đã cố gắng lấy cớ có 4 bài trong 11 bài đã in lại trên tạp chí Tao đàn năm 1939 chỉ
ký một mình tên Hoài Thanh, để coi Hoài Thanh là tác giả chủ yếu của Văn chương và
hành động. Việc coi tác giả của 4 bài trên 11 bài là đã “có thẩm quyền cao nhất đối với
bản quyền bài vở trong sách” chứng tỏ nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã không biết phép
tính trừ đơn giản, mà anh còn làm một việc rất tổn thương đến tình bạn đã có từ hơn bảy

mươi năm trước của Lê Tràng Kiều với Hoài Thanh mà đến nay nhiều ngưòi còn biết!
Nếu có người lại tính rằng, Lưu Trọng Lư đảm nhận phần dịch thuật trong phần phụ lục
của Văn chương và hành động, vậy còn lại 6 bài tiểu luận sẽ là do Lê Tràng Kiều viết, thì
nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện sẽ nghĩ sao? Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ, tính toán thế cũng lại
làm tổn thương đến người xưa, như Nguyễn Ngọc Thiện đã làm! Lại có nhà nghiên cứu
văn học đã kiểm định văn bản có phần quá rạch ròi dẫn đến nhận định rằng, Hoài Thanh
“đạo” văn của Lê Tràng Kiều (Bài Bản quyền thuộc về ai? của Lại Nguyên Ân, đăng
trên Văn Nghệ Trẻ số 39 năm 2004). Những ý mà nhà văn Lại Nguyên Ân nêu ra sau khi
khảo chứng văn bản học, theo chúng tôi, ta nên coi đó là việc thừa kế chí lự, ý tưởng và
xúc cảm thẩm mỹ của bạn bè. Những chuyện mà chúng tôi được nghe những người gắn
bó nhiều với Lê Tràng Kiều ngày xưa, kể cho biết, thì ông là người có thể bán nhà đi để
nuôi bạn, dù ông không giàu có gì. Không khéo, những ứng xử của chúng ta hôm nay lại
làm người đọc thấy đau lòng, khi nghĩ tới người xưa.Việc chúng ta làm, nếu có liên quan
đến Lê Tràng Kiều, thì cũng là làm cho chúng ta thôi. Còn Lê Tràng Kiều, ông đâu có
cảm thấy gì về những ứng xử nơi đời sống trần thế nữa! Có chăng, chỉ bạn đọc yêu văn
học dân tộc mới là những người bị tổn thất, nếu không được biết về văn tài và cuộc đời
nhà văn Lê Tràng Kiều…
Viết những dòng về nhà văn Lê Tràng Kiều, chúng tôi nghĩ về cuộc sống hôm nay.
Cuộc sống tươi mới, mạnh mẽ đang chảy cuồn cuộn ngoài kia, trên đất nước vẹn toàn.
Chúng ta đã hoà nhập với thế giới, vươn tới công bằng, vươn tới văn minh, vươn mãi tới
những vẻ đẹp nhân bản! Chúng tôi lại nhớ đến tác phẩm Văn chương và hành động, thiên
tiểu luận ý nghĩa đời người, Lê Tràng Kiều có luận cả về văn minh: “Văn minh chẳng qua
là những sức sống của con người xung đột với cái tàn ác của vũ trụ, là sự nỗ lực vĩ đại của
loài người để thoát mình khỏi cái chết, cái hư vô…”. Và, chúng tôi bỗng muốn nói với
nhà văn Lê Tràng Kiều, một câu thôi, rằng, những gì ông đã làm được suốt cuộc đời rong
ruổi ngoài Bắc, trong Nam, một cuộc đời hành động, đâu có chết được, những ý nghĩa của
nó càng không thể bị chìm vào hư vô!

×