Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hoàng Đức Lương - Quan niệm thi học và thơ . pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.36 KB, 9 trang )


Hoàng Đức Lương - Quan
niệm thi học và thơ






Đoàng Đức Lương vốn người xã Cửu Cao, huyện Gia Lâm, trú quán
tại làng Ngọ Kiều (Ngọ Cầu), nay là thôn Ngọ Cầu, xã Như Quỳnh, Gia
Lâm, Hà Nội. Hiện chưa rõ năm sinh năm mất. Năm Mậu Tuất, niên hiệu
Hồng Đức thứ 9 (1478), ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).
Mười năm sau (1488) được cử đi sứ Trung Quốc cùng phái đoàn với Đàm
Văn Lễ (1452-1505). Làm quan đến chức Tham nghị, Hộ bộ Tả thị lang.

Nói đến Hoàng Đức Lương là phải nói đến bộ sách Trích diễm thi
tập. Đây là bộ sách được ông biên soạn xong vào năm Hồng Đức thứ 28
(1497). Bộ sách khép lại cả một thời kỳ dài sưu tập thơ văn Lý - Trần từ
Phan Phu Tiên với Việt âm thi tập đến Dương Đức Nhan với Tinh tuyển
chư gia luật thi. Ý nghĩa của Trích diễm thi tập xưa nay từng được đánh
giá rất cao, ở chỗ sau chính sách hủy diệt văn hóa tàn khốc của nhà Minh
hồi đầu thế kỷ XV, thì đến thập niên cuối thế kỷ, Hoàng Đức Lương đã có
công tìm kiếm, lưu chép cho hậu thế đến 15 cuốn (trên thực tế chỉ còn 6
cuốn) về thi ca các triều đại trước Lê sơ. Sau này nhiều nhà sưu tầm,
nghiên cứu khác từ cổ đến cận, hiện và đương đại cũng đã phải dựa vào
đó rất nhiều để tiếp tục bồi đắp vốn văn chương cổ. Do đó, ngoài ý nghĩa
văn học sử, Trích diễm thi tập còn có ý nghĩa to lớn đối với văn hóa, văn
hiến nước nhà.

Quan trọng nữa là bài Tựa viết ở đầu sách. Giới nghiên cứu và bạn


đọc về sau đều hết sức tán thưởng lời Tựa Trích diễm thi tập. Ở thế kỷ
XVIII, Lê Quý Đôn đã trích dẫn một đoạn dài trong Lệ ngôn của Toàn Việt
thi lục. Đến thế kỷ XX, bài Tựa cũng được dịch và giới thiệu nhiều lần. Lý
do nào đã khiến lời Tựa của Hoàng Đức Lương được chú ý như vậy?

Trước hết, tác giả nêu bật được một quan niệm về thơ bằng cách
dùng hình ảnh so sánh thú vị: “Đối với thơ ca, người xưa thường ví với
nem chả, hoặc ví với gấm vóc. Nem chả là vị rất ngon ở đời, gấm vóc là
mầu rất đẹp ở đời. Phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng, mà
không vứt bỏ khinh thường. Có điều là: sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi
sắc đẹp, mắt thường không thấy được; cũng vậy, vị ngon của thơ lại ở
ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy. Chỉ có thi nhân mới có
thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó”
(1)
. Như thế Hoàng Đức
Lương cho rằng thơ là phải đẹp, mà phải “ở ngoài mọi sắc đẹp”, nghĩa là
cái đẹp thông thường theo quan niệm của người đời là không thể so
được. Lão Tử thường nói: “Thiên hạ tri mĩ vi mĩ tư ố hĩ” (Cái gì thiên hạ
biết là đẹp, tức là đã không còn đẹp nữa rồi). Vậy, vẻ đẹp của thơ phải là
vẻ đẹp mang tính vĩnh cửu, nó không bị biến chất, không bị mọi thứ tư
duy thông thường xâm thực. Thơ không theo quy luật chung của cái đẹp
thông thường. Thơ đã thế, người làm ra thơ cũng là loại người đặc biệt
khác thường mới có thể “thấy” và “nếm” được thơ. Ở đây, theo quan
niệm của Hoàng Đức Lương thì thi nhân vừa là người sáng tác, vừa là
người thưởng thức, phê bình. Quan niệm như thế nên khi làm sách Hoàng
Đức Lương chỉ Trích diễm, tức là chỉ chọn lựa cái hay, cái đẹp. Xem qua
có vẻ như tác giả đã “tuyệt đối hóa” vai trò của thơ và của thi nhân,
nhưng ngẫm kỹ thì dường như ông đã có lý. Thơ đối với cổ nhân đúng là
một địa hạt đặc biệt, sau này Ngô Thì Sĩ cũng cho rằng kẻ phàm không
vào thơ được

(2)
. Hơn nữa, quan niệm của Hoàng Đức Lương còn tiến một
bước xa trên con đường nhận thức thơ. Khi viết Tựa cho Việt âm thi
tập vào năm 1433, Phan Phu Tiên cho rằng: “Trong lòng có chí hướng gì
ắt thể hiện ra lời nói, cho nên thơ là để nói lên cái chí của mình. Lời
xướng họa giữa vua tôi đời Đường - Ngu và câu ca dao dân gian thời Liệt
quốc, mặc dù trong đó dấu vết thời thịnh trị và loạn lạc không giống nhau,
nhưng cảm xúc phát ra từ trong lòng thì chỉ là một”
(3)
. Thì đó vẫn chỉ là
một cách diễn đạt khác của quan niệm “thi dĩ ngôn chí” (thơ là để nói chí).
Quan niệm đó đúng và sau Phan Phu Tiên, thơ vẫn là như vậy.
hưng rõ ràng, cạnh việc nói chí thì thơ bao giờ cũng là địa hạt của
xúc cảm thẩm mĩ, của cái đẹp. Có thể Hoàng Đức Lương còn đi xa hơn cả
quan niệm của chúng ta hiện nay khi ông cho rằng cái đẹp của thơ còn “ở
ngoài mọi sắc đẹp” như đã nói trên.

Tiếp theo, bài Tựa còn đưa ra quan niệm về sự tiếp nhận, lưu truyền
văn học, về thi học và phần nào là vấn đề tự do văn học. Sự tiếp nhận văn
học, nói như ngôn từ hiện nay, thì ở người xưa là việc thẩm bình, cái mà
tác giả đã gọi là nếm và thấy. Tức là yêu cầu người tiếp nhận phải có cả
năng khiếu và năng lực, cũng có ý chỉ người tiếp nhận phải ở một trình độ
cao, phải có một tầm đón nhận tương xứng. Biết sáng tác thơ và hiểu thơ
là khó, nhưng tác giả vẫn muốn công việc sưu tập của mình “cốt được
truyền bá rộng” di sản thơ Lý - Trần. Hẳn là có khao khát muốn bồi bổ,
nâng cao năng lực tư duy, năng lực thẩm mĩ cho các thế hệ người đọc
bằng thơ. Khái niệm thi học mà Hoàng Đức Lương dùng có ý chỉ cách
học, phép làm thơ, nhưng cũng có thể hiểu là việc nghiên cứu tìm hiểu thi
ca (Đức Lương thi học duy thị Đường chi bách gia - Thi học của Đức
Lương tôi, duy chỉ dựa vào các thi gia đời Đường). Lê Quý Đôn rất tinh

tường khi nói về Hoàng Đức Lương là người cực thích thi học (“khốc hiếu
thi học”). Do đó, có thể thấy ngay từ thế kỷ XV, Hoàng Đức Lương đã nói
đến vấn đề thi học, một trong những vấn đề cốt tử của thi ca. Khái niệm
thi học bấy giờ nghĩa có thể chưa rộng như ngày nay, nhưng quả là cái
gốc rễ thì đã thấy rõ. Bài Tựa cũng nêu ra một thực tế: “Qua sách vở thời
Lý - Trần truyền lại đến ngày nay, chỉ thấy sách nhà chùa là nhiều. Thật ra,
đâu có phải vì các nhà Nho học không giỏi bằng các nhà Phật học. Mà
chính là trong nhà chùa không có sự cấm đoán in sách, cho nên mới có
bản khắc truyền về sau. Còn thơ ca của các nhà Nho nếu như chưa được
nhà vua cho phép, thì không được in ra để lưu hành”
(4)
. Đó là sự chặt chẽ
và lề luật quá nghiêm khắc đương thời. Toàn bộ thơ văn phải qua tay kiểm
duyệt của một ông vua. Mặc dù nhà vua có cả một đội ngũ để giúp việc,
nhưng việc “dắt bò qua cổ chai” đó đã khiến thơ văn mất hẳn sinh sắc.
Người sáng tác lúc nào cũng nơm nớp húy phạm, nơm nớp câu chuyện
“văn tự ngục”. Thể chế đã luôn câu thúc và kiềm chế sự hồn nhiên và hồn
toàn của văn thơ, khiến văn thơ buộc phải có hình hài và đặc tính khu biệt.
Nghĩa là phải tìm ra rất nhiều hình thức thể hiện khác nhau để che đậy,
giấu đi điều muốn nói.

Sau cùng bài Tựa của Hoàng Đức Lương cũng đề cập đến thực
trạng của tư liệu thơ văn ngay ở thời của ông (thế kỷ XV). Tác giả đã nêu
ra bốn lý do khiến văn thơ mất mát: người sành thơ không nhiều là một,
cái sự quá nghiêm khắc kia là hai; và hai lí do quan trọng nữa là: Không
có người làm công việc sưu tập và nếu có cũng không làm đến nơi đến
chốn. Ông cũng đề cập đến sự tàn phá của thời gian và “binh hỏa”, nhưng
lỗi chủ yếu vẫn là con người; và ông cũng thể hiện tâm sự của mình: “Mỗi
khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách
than thở, có ý đổ lỗi cho tiền nhân thời bấy giờ. Than ôi! Một nước văn

hiến, trải mấy nghìn năm xây dựng, lẽ nào không có quyển sách nào để
làm chứng tích, mà phải tìm đọc xa xôi qua thơ Đường, như thế chẳng
đáng đau xót lắm sao”
(5)
.

Tóm lại qua lời Tựa và qua Trích diễm thi tập có thể khẳng định
Hoàng Đức Lương có tư cách một nhà sưu tập, phê bình văn học. Những
ý kiến mà tác giả đề xuất còn có tác dụng gợi mở về lý luận thơ ca. Trong
khi lý luận, phê bình văn học của ta ở vào thế kỷ XV còn khá nghèo nàn,
thì đó là những đóng góp rất đáng quý.

Nhưng Hoàng Đức Lương còn có tư cách một nhà thơ.
Cuối Trích diễm thi tập tác giả có chép cả thơ của mình với lời chua khiêm
nhường: “Thiết phụ dĩ chuyết tác, dụng vi gia đình chi huấn” (Trộm chép
phụ vào đây những sáng tác vụng về của tôi, dùng làm lời dạy bảo trong
gia đình). Khi soạn Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có chép 25 bài thơ của
Hoàng Đức Lương. Chưa rõ số bài đó có trùng với số bài mà Hoàng Đức
Lương “chép phụ” không; nhưng xem kỹ thì 25 bài đó tính giáo huấn rất ít
mà phần nhiều là những bài thơ tả cảnh tình, tỏ bày tâm trạng tác giả,
những bài mà Lê Quý Đôn đã khen là: “Từ chương thanh lệ, tình cảnh
kiêm đáo” (Từ chương đẹp sáng, cảnh tình kiêm đủ, sâu sắc).

Cảnh sắc trong thơ Hoàng Đức Lương thường là những nét chấm
phá. Đây là một cảnh làng quê:
Tang ám tàm chính miên,
Thiềm đê yến sơ nhũ.
Lực quyện hà sừ quy,
Trú vĩnh cưu thanh ngọ.
(Thôn cư)


(Tằm ngủ dưới lá dâu mát,
Dưới mái hiên, én đang mớm con.
Sức mỏi thì vác bừa về nghỉ,
Chim cu gáy lúc đứng bóng)
(Ở làng quê)
Tác giả vừa có những quan sát tinh tế khi tả cảnh “én đang mớm
con”, lại vùa có sự phác họa chung một không gian quê mang tính đặc
trưng cho những vùng nông tang yên ả, thanh bình, nơi mọi vật đang sinh
sôi, nảy nở. Vẫn cái cách như vậy, nhà thơ viết về cảnh Thụ hạ quan
thư (Đọc sách dưới bóng cây):
Khai quyển lương âm ngọ,
Dung quang chiếu tự minh.
Tĩnh trung tâm dị động,
Lạc diệp tác thu thanh.

(Mở sách dưới bóng cây râm buổi trưa,
Ánh trời lọt chiếu xuống, dung mạo sáng tươi.
Giữa cảnh tĩnh lặng, lòng dễ xao động,
Lá rụng nghe như tiếng thu rơi)
Cảnh này phông nền hẹp hơn cảnh Thôn cư, chỉ là dưới một gốc
cây. Nhưng phải nói rất đẹp. Có gì đó thư thả, nho nhã mà đầy mơ mộng,
lãng mạn. Rõ ràng là cái tiếng thu rơi ấy không phải đợi đến hơn 400 năm
sau người ta mới được nghe: “Em không nghe mùa thu/ Lá thu rơi xào
xạc ”; thêm nữa, tác giả còn nói được một quy luật tưởng như trái
ngược của hồn thơ là càng ở trong cảnh tĩnh thì lòng người càng dễ xao
động, tức là rất cần lắng sâu suy tư để nghe thấy từ những tiếng va rơi
nhỏ nhất, nhẹ nhất. Đấy rất có thể là một trong những trải nghiệm thi ca.

Lại nữa, trong bài Du Phật Tích sơn Thiên Phúc tự (Du chơi chùa

Thiên Phúc núi Phật Tích), người ta vẫn thấy cảm hứng nhàn nhã, thanh
sạch, tĩnh lặng đó:
Thiềm hạ chẩm thạch miên,
Thụ lão thu âm tỗn.
Dữ nhân mộng vật kinh,
Không đình sơn diệp lạc.

(Dưới thềm gối lên đá ngủ,
Bên gốc cây già tiếng thu xạc xào.
Chớ làm động đến giấc mộng của người,
Sân vắng lá cây núi rơi)
Điểm đặc sắc là trong cảnh luôn có người, khi thì là một nông phu
thanh thản làm mỏi vác bừa về, khi là một thư sinh nhàn hạ đọc sách, và ở
bài vừa rồi là một kẻ thích phóng khoáng, thích đắm mình vào giữa cảnh
vật. Đó chính là sự phân thân của chủ thể sáng tạo vào vai các nhân vật
trữ tình để ngụ gửi tâm sự của mình. Rồi cũng đến lúc tác giả nói thẳng ra
cái ước muốn quay về với thiên nhiên cảnh vật:
Lâm hác tiền duyên hữu,
Thanh sơn nhận trứ nhân.
Thử thời sơ thức diện,
Tha nhật dĩ tương thân.
(Chu quá Lai Quan giang)

(Thú lâm tuyền đã có tiền duyên định sẵn,
Núi xanh như nhận rõ người.
Lúc này là lúc mới biết mặt,
Hẹn ngày sau sẽ thân thiết nhau hơn)
(Thuyền qua sông Lai Quan)
Cảnh ở đây là lâm tuyền - rừng suối, nơi thường gắn với các bậc ẩn
sĩ thích nhàn, thích lánh tục. Mà quả là thơ Hoàng Đức Lương từng nói

đến chuyện quan trường với một giọng điệu chán chường, có gì đó như
phải cam chịu:
Thắng địa du tuy biến,
Khai sơn diệc hữu thi.
Quan thân vô định tích,
Vị cảm dữ tăng kỳ.
(Du Kính Chủ sơn tự)

(Thắng cảnh du chơi tuy đã nhiều khắp,
Nhưng mỗi lần lên núi cũng vẫn có hứng thơ.
Thân làm quan tung tích vốn vô định,
Đâu dám hẹn kỳ hẹn nào với nhà sư)
(Du chơi chùa núi Kính Chủ)

×