Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.92 KB, 7 trang )

Giảng dạy thơ trữ tình hiện đại
trong nhà trường









* Phân tích hình tượng trữ tình: Như người hoạ sĩ, nhà thơ cũng xây dựng hình
tượng trữ tình thông qua những phần (hoặc những đoạn) khác nhau. Người ta gọi đó là
hình tượng thơ. Nhà thơ đã dùng ngôn ngữ nghệ thuật để thể hiện hình tượng đó. Người ta
có thể vẽ hoặc dựng thành phim những hình tượng trữ tình. Để nâng cao sức tưởng tượng
cho người đọc, các nhà thơ đã sử dụng phương tiện quan trọng là ngôn ngữ nghệ thuật.
Ví dụ : Phân tích hình tượng trữ tình trong bài thơ Vội vàng
Để phân tích được, người học sẽ phải đọc cả bài thơ và đọc kĩ khổ thơ 1, suy nghĩ
và phân tích để nêu được: nhà thơ nhìn thế giới bên ngoài và khát vọng được níu giữ lại
tất cả cái đẹp trong thiên nhiên để con người luôn luôn được tận hưởng và chiêm ngưỡng.
Sau đó phải nghiên cứu xem: để xây dựng hình tượng trữ tình, tác giả đã sử dụng
những loại hình ngôn ngữ nào.
Trong bài thơ, tác giả đã dùng hàng loạt các động từ mạnh để biểu đạt khát vọng
cháy bỏng đó, cho dù khát vọng đó là phi lí: Muốn tắt nắng, muốn buộc gió, muốn ôm,
thâu, riết và dùng hàng loạt điệp từ và điệp ngữ: này đây, tôi muốn, khiến người
đọc có cảm giác: nhà thơ đang cuống quýt, đang bối rối vô cùng về sự bất lực của mình
trước vẻ đẹp của tự nhiên.
Tiếp đó, người học có thể hình dung ra vị thế của nhà thơ và khát vọng cháy bỏng
của tác giả. Đó là khát vọng được thể hiện tình yêu cuộc sống mạnh mẽ, tình yêu cái đẹp
và khát vọng được hoà nhập vào thế giới của cái đẹp. Nhà thơ đã vẽ bằng ngôn từ bức
tranh phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống rất sống động với đủ các gam màu, với ánh


sáng, đường nét, với các cung bậc cảm xúc ở độ tuyệt đích của chúng, cùng với nhịp thơ,
hơi thơ và giòng thơ thật đắm say, thật hồ hởi, thật cuồng nhiệt, khiến người đọc như cũng
bị cuốn theo cái rạo rực, mê say đó.
Trên cơ sở xác định các loại hình ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm, người
học có thể tiếp tục hình dung ra các cấp độ ý nghĩa của bài thơ: Phải chăng, ngay từ khổ
thơ đầu, nhà thơ đã muốn nói với bạn đọc rằng: Cuộc sống ơi, ngươi đẹp lắm. Hãy ban
tặng cho ta, cho muôn loài cái vẻ đẹp đó và hãy làm sao vĩnh cửu hoá cái đẹp ấy cho
người đời được tận hưởng mãi cái hương vị ngọt ngào, đẫm chất men say như thế. Phải
chăng, ngay từ khổ thơ đầu, tác giả đã muốn đưa ra quan niệm: Con người phải tìm cách
vĩnh cửu hoá cái đẹp để cái đẹp trong thiên nhiên, trong tạo hoá trở nên vĩnh hằng, đó
cũng là trách nhiệm đối với người nghệ sĩ. Do đó, khát vọng của nhà thơ có vẻ như phi lí,
có vẻ như khác đời nhưng lại mang triết lí, mang một quan niệm nghệ thuật mới mẻ. Đặt
vào trong hoàn cành văn học Việt Nam những năm 1930-1945, khi các nhà thơ lãng mạn
đang đắm chìm trong mộng ảo, khi họ muốn thoát xác để bay lên cung Quế với chị Hằng,
khi họ muốn trốn vào quá khứ, vào tình yêu, vào tôn giáo thì Xuân Diệu đưa ra một cái
nhìn, một thái độ tiếp cận với thiên nhiên với cuộc sống hết sức tiến bộ. Thiên nhiên là
môi trường sống của con người, thiên nhiên còn là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn
cho người nghệ sĩ tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Bởi cái đẹp chính là cuộc sống. Không
có cái đẹp nào lại bay lơ lửng trong không trung. Vấn đề là anh nhìn về nó, nghĩ về nó với
thái độ như thế nào, có nhận thức được nó và quy luật của tạo hoá không để thể hiện,
miêu tả và phản ánh.
Tiếp sau đó là việc phân tích khổ thơ thứ hai và toàn bài.
Một ví dụ khác: Trong tác phẩm Muà xuân chín của Hàn Mặc Tử, học sinh
được tiếp xúc với một kiểu tư duy mới lạ, độc đáo của tác giả trong bài thơ. Người ta có
thể nói đến Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính, Xuân hồng của Xuân Diệu, chứ chưa ai nói
đến Xuân chín, chữ "chín" gợi cho người đọc cảm giấc khát thèm khi nhìn thấy một trái
cây đến độ chín tới, rất thơm, rất hấp dẫn. Nguyễn Bính đã tư duy nghệ thuật bằng cảm
giác, bằng khát vọng sống của riêng mình. Nhà thơ như đang thu nhận tất cả những rung
động của cuộc sống vào lúc xuân nhất, một "làn nắng ửng", một "làn khói mơ tan", cùng
những giọt nắng "lấm tấm vàng", một lần gió xuân nhẹ thổi và cả những "tiếng ca vắt

vẻo "của các cô thôn nữ đang dạo chơi xuân Dường như nhà thơ đã căng hết mọi giác
quan để thu nhận tất cả những âm vang của cuộc sống với tất cả nỗi khao khát và tình yêu
cuộc sống đến rạo rực, mê say nên đã tạo nên trong bài thơ hình ảnh một mùa xuân vừa cụ
thể, vừa hấp dẫn, vừa gợi cảm, khiến người đọc cũng cảm nhận được sức sống bất tận của
mùa xuân đất nước và tình yêu mùa xuân đến mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ trẻ.
* Phân tích các cung bậc của giọng điệu thơ
+ Phân tích phương thức diễn đạt của chủ thể trữ tình.
Phương thức diễn đạt của chủ thể trữ tình được xác định bởi tình huống thơ, trong
đó chủ thể trữ tình phát ngôn, suy nghĩ và cảm nhận theo quan điểm của họ, thể hiện qua
các hình thức ngôn ngữ. Chủ thể trữ tình có thể nói về mình, nói về người khác hoặc nói
về một cái gì đó. Phương thức nói hoặc phương thức diễn ngôn được xác định bởi các
hàng, các dòng thơ và ngữ điệu. Phương thức diễn đạt đó có khi là một hình tượng nhỏ, có
lúc là hình tượng bộ phận giữa các cấp độ hình tượng và các cung bậc của giọng điệu thơ.
+ Xác định vần điệu: để xác định vần điệu, cần chú ý đến các hình thức vần điệu
mà các nhà thơ hay sử dụng nhất
- Vần cặp đôi (aabb)
VD: hai câu thơ
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Tác dụng: Vần cặp đôi xuất hiện khi các câu thơ kế tục nhau, giải thích, bổ sung
cho nhau.
- Vần chéo (abab):
VD: Hai câu thơ
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
(Từ ấy - Tố Hữu )
Tác dụng: Tạo ra sự thống nhất bên trong cho các câu thơ. Thông qua sự chuyển
đổi các giòng thơ, nó được vận động và tạo nên nhạc điệu.
- Vần gián cách (abcd): Chẳng hạn các câu thơ sau

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp…
Củi một cành khô lạc mấy giòng
(Tràng giang - Huy Cận )
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến - Quang Dũng )
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
(Tây Tiến - Quang Dũng )
Tác dụng: Là một hình thức đặc biệt của các âm chéo nhau, qua đó, nó đặt vần theo
từng cặp một bằng, một trắc.
- Vần hỗn hợp theo dạng (aaba)
VD: hai khổ thơ cuối trong bài Đây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mạc Tử
… Gió theo lối gió mây đường mây
Ai biết tình ai có đậm đà
hay hai khổ đầu bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang…
Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh
- Vần ôm (abba)
VD: Các câu thơ
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Tác dụng: Hình thức vần này góp phần tạo độ âm vang cho các câu thơ, nó mang
giá trị nghệ thuật và giá trị biểu cảm cao.Các nhà thơ rất thích chọn loại vần này để trình
bày, biểu đạt tình cảm và tư tưởng.
+ Xác định nhịp điệu: Đây là dạng thức cơ bản nhằm nhấn mạnh các âm và âm vận
với những âm tiết bổng trầm xem kẽ nhau. Nhịp điệu được xác định thông qua việc nhấn

mạnh hoặc không của các âm. Nhịp điệu là quan trọng và hay gặp nhất trong một bài thơ.
Trong bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu đã sử dụng sự thay đổi dồn dập nhịp điệu các
câu thơ, sự phối hợp các từ ngữ, các hình ảnh nhằm khơi gợi hành động, nhằm tạo ra
những kích thích tâm lí mạnh mẽ, đem lại cho người đọc cảm giác hối hả, gấp gáp, bồn
chồn, mong được sống hết mình để tận hưởng cuộc sống - Thiên đường trên mặt đất.
+ Xác định âm điệu chủ đạo: âm điệu được các tác giả sử dụng để nhấn mạnh hoặc
không nhấn mạnh một cái gì đó. Âm điệu có thể được tạo nên bằng điệp từ, từ láy hay từ
các câu thơ cắt dòng, từ các hình ảnh
- Chức năng của âm điệu: Các câu thơ cần được tác giả nhấn mạnh phải vang lên
một cách mạnh mẽ, quả quyết và có ảnh hưởng lớn nhất tới người nghe, đôi khi có trường
hợp nó còn tạo cho người nghe cảm giác nặng nề, khó chịu. Ví dụ như câu thơ:
Mày ngài tràng giang buồn muôn đời
Nhài đàn giót nguyệt vú đôi thơm
Cũng có khi âm điệu góp phần làm tăng tốc độ cũng như nhịp điệu cảm xúc trong bài
thơ. Chẳng hạn trong bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu viết 2 câu thơ:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Tác giả muốn nhấn mạnh sự tuần hoàn nhanh chóng của thời gian, cũng có nghĩa
là của tuổi trẻ. Trong sự nhấn mạnh này, người đọc cảm thấy có sự nuối tiếc, khiến cho
câu thơ vừa có sức ngân vang vừa có âm điệu buồn.
+ Xác định trọng âm: (nhấn mạnh, không nhấn mạnh), nhằm gây ấn tượng trực tiếp
đến người đọc, người nghe, tạo cảm xúc bất ngờ hoặc căng thẳng. Ví dụ: trong bài Vội
vàng có câu thơ sau:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Trong câu thơ, tác giả đã sử dụng một từ rất lạ và độc đáo: "Cắn". Cắn là một động
từ, miêu tả một hành động mạnh: Dùng răng cắn vào một vật nào đó để ăn hoặc để làm
cho đau. Ở đây, động từ này đã được tác giả chuyển nghĩa thành sự chiếm lĩnh, sự tận
hưởng, nhằm biểu đạt một ham muốn, một mong muốn, một niềm đam mê cháy bỏng của
mình đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người.
Đặt từ "cắn" vào câu thơ và đặt câu thơ trong mối tương quan với cả bài thơ, chúng

ta hiểu: Đến đây, cảm xúc của tác giả dâng trào, mãnh liệt đến cuồng nhiệt, nhà thơ muốn
được tận hưởng đến tận độ cái đẹp, muốn được biến cái đẹp thành của riêng mình để được
sở hữu, chiếm lĩnh. Trọng âm của câu thơ dồn vào chữ "cắn", nó có tác dụng như kéo
căng dòng ý thức, đẩy cường độ của câu thơ lên cao, mạnh và tạo nên điểm nhấn cho cả
câu thơ với sự ngắt nhịp: 3/2/1/2. Câu thơ cũng là trung tâm thẩm mĩ của cả bài thơ và thể
hiện chủ đề của tác phẩm.
+ Xác định ngữ điệu: ngữ điệu khiến cho câu thơ vang lên, sống động hẳn lên, góp
phần biểu lộ một cách sinh động cảm xúc cũng như tình cảm của chủ thể trữ tình. Nó còn
có thể tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, lâu dài, thức nhọn các giác quan hay tạo cảm giác vui
tươi, phấn khởi, gây ảnh hưởng tới người đọc và người nghe.
Cả bài thơ Vội vàng luôn có sự thay đổi ngữ điệu, lúc thì nhanh, mạnh, lúc thì dồn
dập, khiến người đọc như bị cuốn theo các câu thơ, các dòng thơ, cuốn theo dòng cảm xúc
mãnh liệt, sự sôi nổi, cuồng nhiệt, cuống quýt của tác giả.
Tất nhiên, để dạy học thơ trữ tình còn phải sử dụng những phương pháp và biện
pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể.
Riêng dạy học thơ trữ tình trong nhà trường, với những đặc trưng trên, sẽ góp phần
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh, mảng văn
học này chiếm thời lượng khá nhiều trong chương trình văn ở các cấp, nhất là ở trung học
phổ thông. Do vậy, chúng tôi hi vọng, với bài viết này chúng tôi có thể góp phần nhỏ vào
việc tìm ra cách dạy học thơ trữ tình nói riêng, dạy học văn nói chung, một môn học vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật trong nhà trường

×