Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

LỊCH SỬ CHÂU ÂU TỪ SAU CÁCH MẠNG PHÁP ÐẾN HỘI NGHỊ VIENNE_1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.21 KB, 6 trang )

LỊCH SỬ CHÂU ÂU TỪ SAU CÁCH
MẠNG PHÁP ÐẾN HỘI NGHỊ VIENNE


I. TỪ CHẾ ÐỘ TỔNG TÀI ÐẾN ÐẾ CHẾ

Sau khi phái Jacobins bị thất bại, tư sản phản động lên nắm chính quyền
dưới hình thức quốc ước Thermidor và chế độ Ðốc chính. Những năm
dưới thời cai trị của quốc ước Thermidor và chế độ Ðốc chính là những
năm nhân dân Pháp sống trong bầu không khí chính trị đen tối và thiếu
thốn về kinh tế. Nhân dân đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa chống chính
quyền. Tình hình này làm cho bọn bảo hoàng mạnh lên và ráo riết hoạt
động giành chính quyền. Trong khi đó chế độ Ðốc chính tỏ ra mất uy tín
do những khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó là khuynh hướng tả của
một số đại biểu trong quốc hội làm cho tư sản Thermidor lo ngại sẽ trở
lại chế độ chuyên chính dân chủ cách mạng. Do đó, giai cấp tư sản cầm
quyền lo sợ. Họ cho rằng cần phải có một chính quyền mạnh để bảo đảm
quyền lợi của họ, vì vậy, họ đã nhờ đến bàn tay của Napoléon để làm
cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng sương mù (11.1799). Sau cuộc đảo
chính, chính quyền nằm trong tay một ban Tổng tài lâm thời gồm 3
người: Napoléon Bonaparte, Sièyes và Ducot.

1. Chế độ Tổng Tài.

Một tháng sau ngày đảo chính, một bản Hiến Pháp mới được ban hành
vào tháng 12.1799. Theo Hiến Pháp, đứng đầu nhà nước là ba vị Tổng
tài. Napoléon là Tổng tài thứ nhất, nắm toàn bộ quyền hành, hai vị kia
chỉ là tư vấn.

Quyền Lập Pháp nằm trong tay hai viện: Viện Bảo dân gồm100 người
trên 25 tuổi và đoàn Lập Pháp gồm 300 người trên 30 tuổi. Cả hai viện


đều không có quyền đề ra luật mà chỉ thảo luận những dự án do chính
phủ đưa ra.

Bộ máy tinh vi của Napoléon thiết lập trong chế độ Tổng tài nhằm làm
tê liệt những quyền dân chủ của nhân dân. Thực chất của chế độ mới là
nền chuyên chế quân sự của phe đại tư sản mà Napoléon là người đại
diện. Chính sách nội trị của ông đã chứng tỏ rằng chính phủ tư sản đã
thủ tiêu những thành quả của cách mạng Pháp và chỉ giữ lại những thành
quả nào của cách mạng có lợi cho giai cấp tư sản.

2. Ðế chế I. (1804 - 1815).

Năm 1802, Napoléon tự phong cho mình chức Tổng tài suốt đời, đến
1804 thì xưng là Hoàng đế, lập ra Ðế chế I. Ðế chế I thực chất là nền
quân chủ tư sản nằm trong tay cá nhân Napoléon.

Sau khi tuyên bố đế chế, một triều đình mới được tổ chức, họ Bonapate
trở thành một dòng vua mới của Pháp. Ðể kiện toàn bộ máy chính
quyền, Napoléon tiến hành những cải cách và ban hành nhiều bộ luật,
một số các bộ luật đó hiện nay vẫn được thi hành ở Pháp.

2.1. Các bộ luật của Napoléon:

- Bộ Dân luật: thông qua vào tháng 3.1804. Ðây là một văn bản có hệ
thống mà mục đích chính là đảm bảo quyền tư hữu của giai cấp tư sản.
Bộ luật này đặt địa vị người phụ nữ rất thấp kém và bất lợi đối với anh
em về quyền thừa kế. Những nhà bình luận dù thiên vị nhất cũng đều
cho rằng so với pháp chế thời cách mạng, bộ luật này là một bước lùi.

- Bộ Hình luật: ra đời vào năm1811. Bộ luật này qui định những vụ xử

có tính chất hình sự. Hình luật qui định duy trì tội tử hình, khôi phục
hình phạt đánh bằng roi đã bị cách mạng thủ tiêu, công nhận điều luật Le
Chapelier. Các công đoàn công nhân đều bị nghiêm cấm hoạt động và
những cuộc bãi công đều bị trừng trị nghiêm khắc. Công nhân bị đặt
dưới sự kiểm soát của chính phủ và bị kiểm tra bằng sổ lao động (tiểu bạ
công nhân). Công nhân cũng bị cấm không được tổ chức và tham gia
vào các cuộc bãi công.

- Bộ Thương luâtû (1807): pháp lý hóa những quan hệ sản xuất TBCN
dựa trên sự bảo đảm những quyền tư hữu của giai cấp tư sản. Nó còn đề
ra những khế ước trong việc kinh doanh hoặc thành lập công ty, những
qui định về việc thanh toán nợ.

Tất cả những bộ luật này tuy so với pháp chế thời kì cách mạng là một
bước lùi nhưng so với những luật lệ phong kiến đang tồn tại ở châu Âu,
thì đây làì những công trình tiến bộ của giai cấp tư sản.

2.2. Chính sách đối với nhà thờ:

Napoléon đã dùng tôn giáo như một công cụ phục vụ sự thốïng trị của
mình. Napoléon cho phép các Giáo hoàng được bổ nhiệm các giám mục,
đạo Thiên chúa được truyền bá phổ biến và công khai. Ông tuyên bố đạo
Thiên Chúa trở thành tôn giáo thống trị trong nước Pháp.

2.3.Tổ chức hành chính:

Bộ máy hành chính chuyên chế được xây dựng nhằm bảo đảm cho sự
thống trị của Napoléon. Ông đã thiết lập một mạng lưới cảnh sát và hệ
thống quận trưởng ở hầu khắp các nơi trên nước Pháp. Mạng lưới cảnh
sát này nhằm tăng cường sự độc tài của chính quyền Napoléon.


II. CÁC CUỘC CHIẾN TRANH THỜI NAPOLÉON

1. Tính chất.

Những cuộc chiến tranh thời Napoléon mang tính chất xâm lược rõ ràng,
khác hẳn về bản chất chiến tranh thời kì cách mạng Pháp.

2. Mục đích.

Mục đích chủ yếu của các cuộc chiến tranh Napoléon I là giành lấy thị
trường mới, giành lấy bá quyền của Pháp trong công thương nghiệp,
chính trị và quân sự ở châu Âu. Ngoài việc vơ vét nguyên liệu, tiền của
ở các nước, Napoléon còn tước đoạt những tài sản tinh thần ở các nước
mà ông xâm lược.

3. Các cuộc chiến tranh.

3.1. Giai đoạn thắng lợi của những cuộc chiến tranh của Napoléon.

Trong giai đoạn đầu, nhờ được rèn luyện trong cách mạng, quân đội
Napoléon đã đánh bại được những liên minh chống Pháp do Anh cầm
đầu.

10.1805, quân Pháp bắt được quân Áo ở Ulm.

12.1805, Pháp thắng Áo ở Austerlitz, Áo hoàng phải ký hiệp ước
Bratislava.

7.1806, Napoléon I lập ra hiệp bang Sông Rhin dưới quyền bảo hộ của

mình.

7.1807, thắng Phổ, Nga và ký hiệp ước Tilsit. Napoléon đề nghị cùng
Nga hoàng phân chia châu Âu: Nga chiếm Ðông Âu, Pháp chiếm Tây
Âu. Nga hoàng công nhận những thành quả của Napoléon và cùng
Napoléon tham gia vào cuộc phong tỏa lục địa của Pháp chống Anh.

Thời kỳ này với sự thất bại của Phổ, Pháp lập ra một hiệp bang sông
Rhin mới dưới quyền bảo hộ của mình, đế quốc La Mã Thần Thánh
thành lập từ năm 962 đến lúc bấy giờ đã bị tan rã.

Trong những cuộc xâm lược của mình, Napoléon đã dùng nhiều biện
pháp đối với các nước bị chiếm như: sát nhập thẳng vào Pháp, hoặc chia
thành từng quận thuộc Pháp. Napoléon thiết lập chế độ tư sản ở những
nước bị chiếm.

×