CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH
MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................................................1
1. Mô hình công nghiệp hóa (CNH) thời kỳ trước năm 1986......................................................................11
2. Mô hình CNH từ năm 1986 đến nay- những điều chỉnh.........................................................................14
I. Khái niệm cơ bản
1. Công nghiệp hóa
Các nhà kinh tế học phát triển đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về công nghiệp hóa,
dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau như thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế, cơ cấu công
nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển công nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất,
các hàm sản xuất cơ bản, phương thức sản xuất, v.v,
Theo các học giả Phương Tây quan niệm, công nghiệp hóa là việc đưa các đặc tính
công nghiệp cho một hoạt động, mà thực chất là trang bị các nhà máy cho một vùng hay
một nước …Quan niệm này là xuất phát từ thực tiễn công nghiệp hiện đại hóa ở các
nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Đây là quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hóa, bởi đã
đồng nhất công nghiệp hóa với quá trình phát triển công nghiệp. Họ coi đối tượng của
công nghiệp hóa chỉ là ngành công nghiệp, tức là nông nghiệp và các ngành kinh tế
khác không phải là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hóa. Và trên thực tế những
người tán thành quan niệm này đều chủ trương tập trung đầu tư phát triển ngành công
nghiệp là chủ yếu. Như vậy quan niệm này đã không thấy được mục tiêu của quá trình
cần thực hiện, không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hóa.
G.A.Cudơlốp và S.P Perơvusin, là các nhà khoa học Liên Xô cho rằng, công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là phát triển công nghiệp nặng,
nhằm đảm bảo cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến,
bảo đảm hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa chiến thắng hình thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa và hàng hóa nhỏ, bảo đảm cho nước nhà không bị lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật
vào thế giới tư bản chủ nghĩa, tăng cường khả năng quốc phòng
Quan niệm này xuất phát từ điều kiện thực tiễn của Liên Xô lúc đó là công nghiệp đã
phát triển đến một trình độ nhất định ( dù trong nội chiến chúng đã bị tàn phá nặng nề),
nhưng bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện nên không có sự trợ giúp từ bên ngoài.
Trong điều kiện đó việc phát triển thị trường trong nước là nền tảng cho sự phát triển
kinh tế, nên để tồn tại, phát triển và bảo vệ nền độc lập, Liên Xô buộc phải dốc hết
nguồn lực để phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục
vụ nông nghiệp nhằm tự bảo đảm các nhu cầu trong nước.
Vào thời gian này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác trong đó có Việt Nam cũng tán
thành và thực hiện công nghiệp hóa theo quan niệm trên.
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đưa ra quan niệm : Công
nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phần ngày
càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại. Quan niệm này coi CNH là quá trình bao trùm toàn
bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt nhiều mục tiêu ( cả kinh tế và xã hội),
chứ không chỉ là mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Vì vậy, nó chỉ phù hợp với các nước phát
triển, nơi có điều kiện để ứng dụng các thành tựu hiện đại của khoa học- kỹ thuật.
Nhiều học giả còn cho rằng, quan niệm của UNIDO là công thức lai hợp và mang tính
chất một phương hướng tác chiến nhiều hơn là một định nghĩa khoa học.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (1960) xác định :
Công nghiệp hóa là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới
về lao động xã hội và là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện
tái sản xuất mở rộng. Quan điểm này đường như đã đồng nhất công nghiệp hóa với cách
mạng kỹ thuật.
Trong bài Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam ,đăng trên Tạp chí Cộng sản số
11, tháng 6/2006, tác giả Đỗ Quốc Sam đã đưa ra quan niệm CNH, HĐH theo nghĩa
hẹp và nghĩa rộng:
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông
nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ
trọng lao động nông nghiệp chiếm đa số giảm dần và nhường chỗ cho lao động công
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay
tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Tuy nhiên, khi bàn tới khái niệm CNH, người ta thường đề cập tới CNH theo nghĩa hẹp,
tức là nói tới quá trình hình thành phương thức sản xuất dựa trên cơ sở kĩ thuật, cơ khí
và tổ chức sản xuất theo lối công nghiệp trong một thời kì lịch sử nhất định
Dù có những điểm khác nhau, nhưng trong quan niệm của các tác giả cả trong và ngoài
nước vẫn đều có những điểm chung. Trên cơ sở các quan điểm đó có thể khái quát lại
như sau:
Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp với cơ cấu
kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế công nghiệp
với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao động bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động
cao.
2. Mô hình công nghiệp hóa
- Mô hình: theo nghĩa hẹp: là mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà chế tạo ra
sản phẩm hàng loạt; còn theo nghĩa rộng, mô hình là hình ảnh (hình tượng, sơ đồ,
sự mô tả…) ước lệ của một khách thể, các quá trình hoặc hiện tượng. Theo đó, có
thể hiểu mô hình chính là sản phẩm chủ quan của cong người dựa trên cơ sở sự vật
khách quan.
- Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào chính thống thế nào về mô hình
công nghiệp hóa. Ngay cả trong các văn kiện Đảng cũng chưa nói cụ thể về vấn đề
này. Song, trên cơ sở các khái niệm về mô hình, mô hình kinh tế và công nghiệp
hóa, chúng ta có thể đưa ra quan niệm về mô hình công nghiệp hóa như sau: Mô
hình công nghiệp hóa là một tổng thể bao gồm nhiều thành phần, nhiều mối quan
hệ lôgic (mục tiêu, bước đi, cách thức thực hiện…) được kết hợp trong một cấu
trúc nhất định đại diện cho một quá trình công nghiệp hóa trên thực tế.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình công nghiệp hóa ở Việt
Nam
1. Khoa học công nghệ
Trước hết, và là điều quan trọng nhất để rút ngắn thời kì công nghiệp hóa là phải
có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của khoa học kĩ thuật và công
nghệ. Nếu được tiếp thu và có các tiền đề vật chất của khoa học công nghệ cao có
thể phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách
so với các nước đi trước, thậm chí trong một số lĩnh vực còn có thể vượt các nước
đi trước. Vi dụ: như các nước NICs và ASEAN đã được có ưu thế hơn trong việc
thừa hưởng các thành tựu công nghệ của các nước như Nhật Bản, Anh…., thêm
vào đó học hỏi kinh nghiệm của các nước khác và nhờ đó tránh được những rủi ro,
tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, và sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ thế giới đã có tác động tới nhiều mặt đến
đời sống kinh tế của nước ta giúp chúng ta có thể rút ngắn được thời kì công
nghiệp hóa đất nước. Việt Nam có điều kiện áp dụng các thành tựu mới nhất của
khoa học công nghệ ngay từ đầu (thông qua nhập khẩu), bỏ qua một bước trung
gian trong phát triển để đạt tới trình độ hiện đại nhất trong thời gian ngắn hơn so
với các nước đi trước và đây chính là tiền tề rất quan trọng để Việt Nam có thể rút
ngắn thời kì công nghiệp hóa của mình.
Việt Nam là nước đi sau nên có rất nhiều cơ hội để lựa chọn công nghệ tiên tiến
mà không nhất thiết phải trải qua những bước phát triển tuần tự về công nghệ với
thời gian hàng trăn năm như các nước đi đầu đã từng trải qua. Nhưng để chuyển
giao công nghệ mới từ các nước phát triển một cách có hiệu quả, đòi hỏi phải có
những điều kiện trong nước tương thích, đó là phải có một nguồn nhân lực trình độ
cao đủ sức nắm bắt và áp dụng công nghệ hiện đại một cách sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Đó là phải có một chính phủ đủ năng lực để điều hành nền
kinh tế trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Hội nhập kinh tế
Nền kinh tế thị trường sẽ có khả năng giải quyết nhanh nhậy các vấn đề kinh tế xã
hội đặt ra, do đó được coi là phương thức tích lũy vốn hữu hiệu để tăng trưởng
kinh tế. Nguyên tắc thị trường là giới doanh gia tự do di chuyển vốn, tự do sản xuất
và phân phối các nguồn tài lực, còn vai trò Nhà nước tuy là điều không thể thiếu
đối với sự tiến bộ xã hội nhưng cũng chỉ can thiệp khi cần thiết. Vì vậy, chỉ có
thông qua thị trường các nước đi sau mới có cơ hội nắm bắt thành tựu của các nước
đã tạo ra, cũng như chuyển giao những thế mạnh của mình cho nước khác. Cho
nên, kinh tế thị trường càng phát triển thì những cơ hội này càng lớn và việc nắm
bắt cơ hội đó sẽ tác động mạnh mẽ đế hiệu quả tiến trình công nghiệp hóa nền kinh
tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những biến
động như trên, đòi hỏi phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Thị trường toàn cầu ngày càng phát triển tạo cơ hội cho du nhập những kiến thức,
khoa học kĩ thuật, những thành tựu mới nhất của thế giới, giành được sự phân công
sản xuất hoặc thực thi những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong toàn bộ chuỗi
giá trị của từng ngành công nghiệp, đó chính là cơ hội để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa của mỗi nước. Công nghiệp hoá theo quan điểm mới bảo đảm kế hợp
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ của đất nước, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và phù hợp với đặc điểm của thời đại, phù hợp
với xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế, khai thác những ưu thế về vốn,
công nghệ, thị trường… của thế giới và khu vực để đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh
tế và hiện đại hoá đất nước.
3. Nguồn vốn
Vốn được hiểu là các của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ lại. Nó có thể
tồn tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Công nghiệp hoá hiện đại hoá của
nước ta hiện nay đòi hỏi phải có nhiều vốn, trong đó nguồn vốn trong nước đóng
vai trò quyết định, vốn ngoài nước đóng vai trò chủ đạo.
Vốn trong nước bao gồm các tài nguyên thiên nhiên, các tài sản được tích luỹ qua
nhiều thế hệ, vị trí địa lý... Việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện
trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao
động thuộc mọi thành phần kinh tế. Tăng năng suất lao động xã hội là con đường
cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước.
Vốn ngoài nước bao gồn các khoản đầu tư trực tiếp, vốn viện trợ, các khoản vốn
vay tín dụng... Biện pháp cơ bản để thu hút được nguồn vốn ngoài nước là đẩy
mạnh mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho
các nhà kinh doanh nước ngoài.
Thực tiễn Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu với công nghiệp hóa cũng như với
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế phải có vốn lớn. Vấn đề huy động vốn cho quá
trình công nghiệp hóa có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết
là huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết
định, là nhân tố nôi lực. Nguồn vốn nội bộ được tạo ra từ sự liên doanh liên kết
giữa các ngành, các lĩnh vực, vùng, miền của nền kinh tế đất nước, từ sự phát triển
mạnh mẽ của các công ty cổ phần, thông qua việc huy động tiền nhãn rỗi của dân,
của các cơ sở kinh tế, các khoản thuế nộp ngân sách nhà nước. Nguồn vốn nội bộ
của nền kinh tế có tính chất quyết định trong quá trình công nghiệp hóa còn hạn
hẹp, các quốc gia khác trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp
để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: Liên doanh, hợp tác
kinh doanh, vay với lãi suất thấp viện trợ. Trong điều kiện tích lũy vốn còn chậm
thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọn. Từ nguồn vốn bên
ngoài biến thành nguồn lực trong nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa. Để huy động vốn đầu tư nước ngoài cần có cơ chế chính sách thỏa
đáng để thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên tiến. Muốn
tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải có một nguồn vốn tương ứng trong