1
Đặt vấn đề
Đột quỵ não (ĐQN) hay tai biến mạch máu não (TBMMN) đã và đang
trở thành vấn đề quan trọng của y học do tuổi thọ trung bình ngày càng tăng
và tỷ lệ đột quỵ não tăng theo tuổi.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Ở các nước phát triển, Đột quỵ não
là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba sau bệnh ung thư và tim mạch,
Là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế. Tỷ lệ để lại di chứng mức độ vừa và
nặng khoảng 50%. Chi phí cho cấp cứu, điều trị vừa tốn kém vừa kéo dài [18,
19, 20].
Bệnh thường để lại di chứng tàn phế nặng nề không chỉ về thể xác mà
cả về tinh thần đối với bệnh nhân cũng như gia đình và xã hội. Gần đây, Đột
quỵ não đã được WHO cảnh báo xem nh- là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng.
Đột quỵ não được chia làm hai loại lớn là Đột quỵ nhồi máu não và Đột
quỵ chảy máu não, trong đó tỉ lệ Đột quỵ nhồi máu não chiếm khoảng 80%-
85%.
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số người cao tuổi ngày
càng gia tăng tất nhiên cũng không nằm ngoài quy luật trên. Do đó, trong
nhiều năm gần đây Đột quỵ não đã và đang được sự quan tâm của y học hiện
đại (YHHĐ) còng nh- y học cổ truyền (YHCT).
Vì thế đã có nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khoa học đề cập
đến vấn đề này nhằm mục đích dự phòng giảm thiểu tỷ lệ tử vong và tàn phế
cho bệnh nhân như không ngừng hoàn thiện quy trình điều trị cấp cứu giai
đoạn cấp, áp dụng các phương pháp can thiệp hiện đại tiên tiến. Tuy nhiên,
chỉ có Ýt bệnh nhân có được cơ hội này vì yếu tố thời gian và phải tiến hành
ở những trung tâm lớn có trang thiết bị hiện đại. Bởi vậy, hướng điều trị nội
khoa cho Đột quỵ não giai đoạn cấp vẫn là phổ biến.
2
Cùng với những thành tựu của Y học hiện đại, Y học cổ truyền từ xa
xưa đã luôn đóng vai trò quan trọng trong vấn đề phòng và chữa bệnh Đột
quỵ não. Y học cổ truyền mô tả Đột quỵ não trong chứng tróng phong. Đã có
nhiều nghiên cứu bào chế nhiều bài thuốc kinh điển, nghiệm phương, các chế
phẩm điều trị phù hợp cho từng giai đoạn, từng thể bệnh cũng như từng thể
trạng bệnh nhân thuộc chứng bệnh này. Ở Trung Quốc có các chế phẩm như
An cung ngưu hoàng hoàn, Luotai, Phức phương đan sâm, Hoa đà tái tạo
hoàn, Ngưu hoàng thanh tâm…trong kết hợp điều trị đã góp phần tích cực
phục hồi chức năng, rút ngắn thời gian điều trị, sớm đưa bệnh nhân hoà nhập
với cộng đồng.
Trên nền tảng cứu chữa cơ bản của Y học hiện đại chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu điều trị Đột quỵ nhồi máu não giai đoạn
cấp của thuốc AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN (ACNHH) với các
mục tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị của An cung ngưu hoàng hoàn trên lâm
sàng và cận lâm sàng.
2. Theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc An cung ngưu
hoàng hoàn trên bệnh nhân Đột quỵ nhồi máu não cấp.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. y học hiện đại.
1.1.1. Định nghĩa Đột quỵ não:
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) - 1989 định nghĩa Đột quỵ não (stroke)
“ là một hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sù mất cấp tính chức năng
của não (thường là khu trú), tồn tại quá 24 giê hoặc tử vong trước 24 giê.
Những triệu chứng thần kinh khu trú phù hợp với vùng não do động mạch bị
tổn thương chi phối, không do nguyên nhân chấn thương sọ não”.
1.1.2. Phân loại Đột quỵ não:
Theo lâm sàng Đột quỵ não được chia thành 2 thể: Đột quỵ chảy máu
não và Đột quỵ nhồi máu não.
Theo thống kê cho thấy nhồi máu não chiếm tỷ lệ khoảng 80 - 85%,
gồm các thể huyết khối động mạch não, tắc mạch não, nhồi máu não ổ
khuyết; chảy máu não và chảy máu dưới nhện chiếm tỷ lệ 10% và 5% các
bệnh nhân Đột quỵ não [17, 19].
1.1.3 . Một số đặc điểm giải phẫu tuần hoàn não:
- Não nặng trung bình 1350g (chiÕm khoảng 2% trọng lượng cơ thể)
- Não được cung cấp bởi hai hệ thống động mạch :
+ Hệ thống động mạch (ĐM) cảnh trong ở phiá trước
+ Hệ thống ĐM cột sống - thân nền ở phía sau
Hai hệ thống này nối thông với nhau ở nền sọ tạo nên đa giác Willis [15,
21, 35]
Hệ thống động mạch cảnh trong :
Cấp máu cho 2/3 trước của bán cầu đại não.
4
Sau khi tách một nhánh bên (ĐM mắt), chạy tới mám yên rồi phân bốn
nhánh cùng: ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM thông sau, ĐM màn mạch
trước.
Mỗi động mạch não chia thành hai nhánh :
+ Nhánh nông tưới máu mặt ngoài vỏ não tạo nên ĐM vỏ.
+ Nhánh sâu tưới máu các nhân xám trung ương.
Đặc điểm quan trọng của tuần hoàn này là hệ thống nông và sâu độc lập
với nhau, không có mạch nối quan trọng, nó tạo nên một đường vành đai ranh
giới với chất trắng (vùng tới hạn), là khu vực khi thiếu máu tổn thương não dễ
lan rộng. Trong hệ thống sâu, các nhánh không thông với nhau mà có cấu trúc
tận cùng nên chịu áp lực cao hơn.
Hệ thống động mạch sống - nền
Động mạch đốt sống khi đi qua lỗ chẩm vào hộp sọ tạo nên ĐM thân
nền. Cung cấp máu cho thân não (hành não, cầu não), tiểu não và 1/3 sau của
bán cầu đại não. ĐM thân nền nằm giữa cầu não có :
- Hai nhánh bên chạy vào tiểu não, cầu não.
- Hai nhánh cùng chạy vào 1/3 sau của đại não (ĐM não sau).
Tuần hoàn bàng hệ:
Não được tưới máu bởi các vòng nối, các vòng nối này có 3 mức:
- Mức 1: Nối ĐM cảnh ngoài và ĐM cảnh trong thông qua ĐM võng
mạc trung tâm, ĐM xương đá và ĐM xoang hang. Giữa ĐM đốt sống và ĐM
cảnh ngoài qua ĐM chẩm.
- Mức 2: Vòng Willis :
+ Động mạch thông trước nối thông hai ĐM não trước.
+ Động mạch thông sau nối hai hệ ĐM cảnh trong và ĐM đốt sống - nền.
Đây là vòng nối quan trọng nhất trong việc lưu thông máu giữa 2 bán cầu.
5
- Mức 3: Những đường nối ở bề mặt của vỏ não: Các ĐM tận thuộc hệ
ĐM cảnh trong và hệ đốt sống thân nền vùng vỏ hình thành một mạng nối
chằng chịt trên bề mặt vỏ não. Mạng nối này được coi là nguồn tưới máu bù
quan trọng giữa khu vực ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM não sau.
Đặc điểm tuần hoàn trên dẫn đến nơi tắc mạch càng xa não, càng gần quai
ĐM chủ thì khả năng tưới máu bù càng lớn. Sự tắc mạch xảy ra càng chậm thì
hệ thống tưới máu bù càng hiệu nghiệm. Riêng ở tiểu não không có mạch nối
trên bề mặt nên khi tai biến xảy ra tiên lượng thường nặng.
Hình 1.1. Hệ thống mạch máu não [41]
1.1.4. Mét số đặc điểm về sinh lý tuần hoàn não :
Có nhiều yếu tố liên quan đến trạng thái chức năng của não như: Lưu lượng
máu não, tốc độ tuần hoàn, sự tiêu thụ oxy và Glucoza.
6
- Lưu lượng máu não là yếu tố cơ bản liên quan đến trạng thái chức năng của
não, lưu lượng máu não là lượng máu qua não trong một đơn vị thời gian
(thường tính bằng phót). Bình thường một phót có khoảng 750ml máu qua
não, theo Kety và Schmit (1977) thì sè lượng máu não trong một phót là: 50 -
52 ml/100g/ phót.
- Lưu lượng máu ở chất xám cao hơn ở chất trắng và giữa các vùng
cũng có sự khác nhau cao nhất ở vùng đỉnh và thấp nhất ở vùng chẩm. Lưu
lượng máu não thay đổi theo tuổi, tuổi càng cao lưu lượng máu não càng
giảm, ở trẻ dưới 15 tuổi lưu lượng máu não là: 100ml /100g/ phót, ở người 60
tuổi lưu lượng máu não là: 36ml/ 100g /phót, lưu lượng máu não tăng khi lao
động chân tay, lao động trí óc hoặc khi các giác quan bị kích thích.
- Huyết áp động mạch (HAĐM) và sức cản thành mạch là hai yếu tố
chủ yếu ảnh hưởng đến lưu lượng máu não. Theo Ingvar và cộng sự lưu lượng
tuần hoàn não trung bình ở người lớn là 49,8 5,4ml/100g não/phút, lưu
lượng trong chất xám là: 79,7 10,7 ml/100g não/ phót.
- Đột quỵ nhồi máu não sẽ xảy ra khi lưu lượng máu não giảm xuống
dưới 18 - 20ml/100g não/phút, trung tâm của ổ NMN là vùng hoại tử có lưu
lượng máu từ 10 - 15 ml/100g não/phút, còn xung quanh vùng này có lưu
lượng máu là 20 - 25 ml/100g não/phút tuy các tế bào não vẫn còn sống
nhưng không hoạt động đây là vùng tranh tối tranh sáng - điều trị tai biến
nhằm hồi phục tưới máu cho vùng này, do vậy đây còn gọi là vùng điều trị [4,
36 ].
1.1.5 . Các yếu tố nguy cơ
- Không tác động được : Tuổi, giới, màu da, địa lý, sắc téc
7
- Tác động được: Tăng HA, vữa xơ ĐM, rối loạn chuyển hoá lipid, tiểu
đường, nghiện rượu, hót thuốc lá, ăn mặn, tăng axit uric, căng thẳng tâm lý,
bệnh tim mạch, tiền sử ĐQN, thay đổi thời tiết, uống thuốc tránh thai
…[22,35]
1.1.6. Tình hình bệnh đột quỵ não:
Đột quỵ não là bệnh mang tính toàn cầu có tỷ lệ cao trong các bệnh về
thần kinh. Trên thế giới tỷ lệ mới mắc hàng năm là 200/ 100.000 dân.
Nam : 124 - 388/100.000. Nữ : 61 - 312/100.000
Ở các nước phát triển, ĐQN là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng
thứ ba sau bệnh ung thư và tim mạch. Theo thống kê năm 2005 thế giới có
khoảng 16 triệu BN đột quỵ xảy ra lần đầu, tử vong là 5,7 triệu( 36%). Dự
báo đến năm 2030 sẽ là 32 triệu BN và tử vong sẽ là 7,8 triệu (34%).
Ở Hoa Kỳ tỷ lệ mắc bệnh là 794 BN/ 100.000 dân, trong đó 85%
người đột quỵ do nhồi máu não. Chi phí cho chăm sóc sức khoẻ và phí tổn
của việc mất khả năng lao động do ĐQN hàng năm gần 60 tỷ đôla.
Ở Pháp, năm 1994: Dân sè 52.346.000 người thì có 65.000 người bị
ĐQN. Chi phí cho điều trị chiếm 2,5 - 3% tổng số chi phí y tế cho cả nước.
Ở Trung Quốc hàng năm có 1.300.000 người mắc trong đó ĐQNMN
chiếm 62% [11], [36]
Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh dao động:
+ Miền bắc: Thái nguyên 152/100000 người (T.V.Tuấn – 2007)
Sơn la 263,3/100000 người ( P.Q. Phước – 2007)
Hà tây 169,9/100000 người (N.V.Thắng – 2007)
8
+ Miền nam: 415/100000 người (L.V.Thành – 1994)
+ Miền trung: 288/100000 người ( H.Khánh - 1993)
Bệnh nhân ĐQNMN chiếm 68 - 70% các trường hợp ĐQN, thường gặp ở
những người 60 - 70 tuổi, nam nhiều hơn nữ, tỷ lệ tử vong từ 28 - 39% [17, 23, 13].
1.1.7. Một số đặc điểm của nhồi máu não:
Định nghĩa nhồi máu não:
- Thiếu máu cục bộ não (nhồi máu não) xảy ra khi một mạch máu bị tắc
một phần hoặc toàn bộ, hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn
não khu vực không được nuôi dưỡng sẽ bị hoại tử.
- Vị trí của ổ nhồi máu thường trùng hợp với khu vực tưới máu của
mạch, cho phép trên lâm sàng phân biệt được tắc mạch thuộc hệ ĐM cảnh hay
hệ ĐM sống - nền.[12]
Phân loại nhồi máu não:
Theo phân loại quốc tế các bệnh lần thứ X (ICD - 1992):
- I63.0. Nhồi máu não do huyết khối các ĐM ngoài não.
- I63.1. Nhồi máu não do tắc các ĐM ngoài não.
- I63.2. Nhồi máu não do tắc hoặc hẹp các ĐM ngoài não.
- I63.3. Nhồi máu não do huyết khối các ĐM não.
- I63.4. Nhồi máu não do tắc các ĐM não.
- I63.5. Nhồi máu não do tắc hoặc hẹp ĐM não.
- I63.6. NMN do huyết khối TM não không do nhiễm khuẩn gây mủ.
- I63.7. Các loại nhồi máu não khác.[39]
9
1.1.8. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của nhồi máu não:
Nguyên nhân tắc mạch não:
- Cục tắc từ mạch tới mạch não: Cục tắc thường là mảnh - mảng vữa xơ
hoặc các tổ chức bệnh lý của các ĐM lớn như ĐM chủ, ĐM cảnh bong ra đi
theo dòng máu gây tắc mạch não.
- Cục tắc từ tim tới mạch não: Trong bệnh hẹp van 2 lá, rung nhĩ, hội chứng
yếu nót xoang, loạn nhịp tim, bệnh Osler, viêm sùi van ĐM chủ, u nhầy nhĩ
trái
- Cục tắc ngoài hệ tim mạch tới não: Tắc mạch do khí trong bệnh khí áp,
tắc mạch hơi do tiêm truyền - phẫu thuật, tắc mạch do nước ối trong sinh đẻ
của sản phụ, tắc mạch do phần mềm trong vÕt thương dập nát lớn [7, 20].
Nguyên nhân gây huyết khối ĐM não:
- Vữa xơ động mạnh não (VXĐM): Là nguyên nhân hàng đầu của
NMN, mảng vữa rất giàu cholesterol và chất xơ, VXĐM làm líp áo trong
động mạch dày lên, làm hẹp lòng động mạch, mạch trở lên thô ráp gây lắng
đọng fibrin, tạo điều kiện cho tiểu cầu bám vào và tạo thành huyết khối, hoặc
lớn dần lên và vỡ ra thành nhiều mảnh, trôi theo dòng máu gây tắc mạch
- Tăng HA mạn tính: Làm tăng sinh tế bào cơ trơn, làm dầy líp áo giữa
của thành mạch làm hẹp lòng ĐM, giảm khả năng tạo tuần hoàn bên, tạo tiền
đề cho thiếu máu vùng ngoại vi ổ tắc. Mạch máu bị tổn thương do thành mạch
thoái hoá Hyalin, hoại tử fibrinoid gây tổn thương nhiều đám, nhiều ổ. Tăng
HA thóc đẩy quá trình VXĐM, đầu tiên là các ĐM trước não, sau đó hướng
tới đa giác Willis và các ĐM nhá hơn.
- Viêm ĐM: Trong các trường hợp viêm nót quanh ĐM, viêm ĐM do
giang mai, HIV, phình bóc tách ĐM cảnh, ĐM não, ĐM nền não gây hẹp lòng
mạch, tổn thương nội mô mạch máu dẫn đến NMN.
10
- Các nguyên nhân khác: Bệnh hồng cầu hình liềm, đông máu rải rác
trong lòng mạch, leucemie cấp và mãn, đa hồng cầu, ngộ độc khí CO, nhiễm
độc chì mạn tính
Nguyên nhân của nhồi máu ổ khuyết:
- Nhồi máu ổ khuyết là do tắc một nhánh xiên nhỏ của ĐM não lớn,
đặc biệt là các nhánh nuôi hạch nền, đồi thị, bao trong và cầu não. Ổ khuyết
có thể do VXĐM hoặc thoái hoá thành mạch do tăng HA gây ra, cũng có khi
nó là hậu quả của ổ chảy máu hoặc ổ phù não nhỏ.
1.1.9. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng :
Lâm sàng:
* Lâm sàng huyết khối động mạch não:
Tiền sử bệnh nhân có tăng hoặc giảm HA, rối loạn lipid máu, đái tháo
đường, có những cơn thiếu máu thoáng qua, tuổi thường ở những người trung
niên và cao tuổi, có cảm giác choáng váng, tê bì chi thể.
Thời gian xảy ra nhồi máu não thường vào nửa đêm gần sáng, khởi phát
cấp tính, các triệu chứng lâm sàng tăng dần theo từng nấc, ý thức tỉnh táo hoặc ló
lẫn, đau đầu, nôn, rối loạn ý thức nặng Ýt gặp nếu có thì ổ nhồi máu não rất lớn.
Liệt dây VII trung ương và liệt nửa người bên đối diện khi tổn thương
ở bán cầu đại não. Hoặc liệt dây III, dây VII ngoại vi bên tổn thương, liệt nửa
người kiểu trung ương bên đối diện, nếu tổn thương ở cầu não và hành não
(hội chứng giao bên), rối loạn ngôn ngữ: Kiểu Broca nếu tổn thương thuỳ
trán, kiểu Wernick.
Rối loạn cơ tròn: bí tiểu tiện hoặc tiểu tiện không tự chủ.
Rối loạn thần kinh thực vật như tăng HA nhẹ, thở nhanh nông, có thể
tăng tiết đờm rãi khi bệnh nhân có rối loạn ý thức nặng.
Rối loạn tâm thần: dễ xúc động, trầm cảm.
11
* Lâm sàng tắc mạch não :
- Bệnh khởi phát hết sức đột ngột, không kể thời gian, thường hay xảy ra
vào ban ngày sau các yếu tố thuận lợi như: Ở người trẻ, sau gắng sức, tiền sử
bệnh hẹp van hai lá, có loạn nhịp hoàn toàn rung nhĩ.
- Rối loạn ý thức: Tuỳ theo vị trí và đường kính cục tắc, có thể rối loạn ý
thức nhẹ hoặc hôn mê.
- Có thể co giật (nếu cục tắc gây tắc các nhánh nhỏ ở vỏ não)
- Các triệu chứng thần kinh khu trú: Phô thuộc vào vị trí tắc ở các ĐM
nuôi não
Gồm các hội chứng:
Hội chứng tắc ĐM cảnh trong:
* Hội chứng ĐM não trước:
- Liệt nửa người : Chân nặng hơn tay.
- Có thể có rối loạn cơ vòng tạm thời do tổn thương tiểu thuỳ cạnh
trung tâm.
* Hội chứng ĐM não giữa:
- Nếu tắc ở gốc ĐM não giữa: Bệnh cảnh biểu hiện nặng nề như liệt và
mất cảm giác nửa người bên đối diện.
- Nếu tổn thương ở bán cầu trội: Mất sử dông động tác bên đối diện, mất
ngôn ngữ kết hợp.
- Nếu chỉ tắc một nhánh nông sẽ có triệu chứng thần kinh khu trú: Liệt
mét chi thể tay hay chân kèm theo liệt mặt kiểu trung ương cùng bên hoặc liệt
nửa người nhưng liệt mặt và tay nặng hơn chân.
- Nếu tổn thương ĐM sâu như ĐM bèo vân: Liệt nặng đồng đều nửa
người bên đối diện.
* Hội chứng ĐM mạc mạch trước:
12
- Liệt nửa người nặng, đồng đều, tăng trương lực cơ, bán manh bên đối
diện, có thể có rối loạn cảm giác kiểu đồi thị và rối loạn thần kinh thực vật
(chủ yếu thuộc chi trên) thuộc nửa người bên đối diện.
Hội chứng tắc ĐM sống nền:
* Hội chứng ĐM não sau:
- Bán manh bên đối diện, mất ngôn ngữ giác quan, mất đọc (nếu tổn
thương bán cầu ưu năng)
- Có thể thấy bại nhẹ nửa người, mất sử dụng động tác và hội chứng
ngoại tháp bên đối diện.
* Nếu tổn thương ở cuống, cầu, hành não sẽ có các hội chứng giao bên:
bên tổn thương liệt ngoại vi các dây thần kinh sọ não; bên đối diện liệt 1/2
người kiểu trung ương như các hội chứng sau:
+ Hội chứng cuống não (hội chứng Werber):
- Bên tổn thương: Liệt giây III ngoại vi: Sụp mi, lác ngoài, nhìn đôi,
giãn đồng tử.
- Bên đối diện tổn thương: Liệt trung ương nửa người .
+ Hội chứng Millard - Gubler:
- Liệt dây VII ngoại vi bên tổn thương.
- Liệt 1/2 người kiểu trung ương bên đối diện.
* Lâm sàng nhồi máu ổ khuyết :
Lâm sàng chung thường có cơn thiếu máu não thoảng qua.
Triệu chứng thần kinh khu trú xuất hiện cấp tính hoặc từ từ.
Có 5 hội chứng ổ khuyết cổ điển được công nhận phổ biến nhất là:
+ Thiếu sót vận động đơn thuần.
+ Liệt nửa người thất điều vận động.
+ Khó nói - bàn tay vông về.
+ Thiếu sót cảm giác đơn thuần.
13
+ Thiếu sót cảm giác vận động [36, 18]
Cận lâm sàng:
* Chụp cắt líp vi tính (CT Scaner) sọ não:
- Chụp CT Scaner sọ não là thăm dò cận lâm sàng quan trọng nhất, giúp
chẩn đoán NMN và phân biệt một cách chính xác NMN với CMN. Hơn nữa
kỹ thuật này còn xác định vị trí, kích thước của ổ nhồi máu và đánh giá tình
trạng phù nề não, góp phần vào điều trị và tiên lượng.
- Hình ảnh chụp CT Scaner sọ não: Trong NMN có hình ảnh giảm tỷ trọng ở
khu vực mạch máu bị tổn thương tuỳ thuộc thời gian của nhồi máu não mà hình
ảnh tổn thương trên chụp CT Scaner sọ não có những biến đổi khác nhau:
+ Sau 24h: Hình ảnh giảm tỷ trọng xuất hiện, rõ nhất vào ngày thứ 3 đến
ngày thứ 8.
+ Sau ngày thứ mười: Hiện tượng phù nề giảm dần và hết.
+ Từ tuần 2 đến tuần thứ 3: Hiện tượng giảm tỷ trọng giảm dần và có
thể trở thành đồng tỷ trọng so với tổ chức não bình thường xung quanh (có
thể phân biệt được khi tiêm thuốc cản quang).
+ Cuối tuần lễ thứ 3: Giảm tỷ trọng xuất hiện trở lại do hiện tượng dịch
hoá nhu mô não bị hoại tử hình thành một khoang dịch hay một sẹo.
+ Sau tuần lễ thứ 5: Di chứng dịch hoá vĩnh viễn
- Trường hợp điển hình: Cã ổ giảm đậm độ thuần nhất, hình thang, hình
tam giác đáy quay ra ngoài, hình tròn nhỏ, hình oval hoặc hình dấu phẩy phù
hợp với vùng phân bố của ĐM não.
- Trường hợp không điển hình: Các dấu hiệu sớm như mất dải đảo, mờ
nhân đậu, xoá mờ rãnh cuốn não, dấu hiệu ĐM não tăng tỷ trọng.
- Trường hợp hội chứng lỗ khuyết: Cã các ổ giảm đậm độ hình tròn hoặc
hình oval trong chất trắng và các hạch nền não, đường kính nhỏ hơn 1,5 mm .
14
- Hình ảnh nhồi máu - chảy máu: Sự kết hợp một hình ảnh tăng tỷ trọng
tự nhiên ở trong một vùng giảm tỷ trọng.
- Trên thực tế chụp CT Scaner sọ não âm tính xấp xỉ 1/3 của các bệnh
nhân ĐQ đã được chẩn đoán lâm sàng:
Chụp CT Scaner sọ não có thể không phát hiện một tổn thương nhồi
máu nhỏ trong hệ thống động mạch sống - nền, các ổ nhồi máu gần nền sọ (do
xương làm nhiễu) các ổ nhồi máu nhỏ hơn 5mm đường kính.
Mặt khác trong 24h đầu sau nhồi máu. Chụp CT Scaner sọ não có thể
âm tính khoảng 50% các trường hợp.
Vì vậy một kết quả âm tính không loại trừ được mét ĐQN.
* Chụp cộng hưởng từ (MRI).
Có độ nhạy cao, không bị nhiễu ảnh ở vùng hè sau. Nhưng có nhược
điểm là: Khó phân định, dễ gây nhầm lẫn với một số tổn thương khác không
do thiếu máu não nhưng cũng có thay đổi tương tự như: U não, các tổn
thương viêm nhiễm. Hình ảnh: Chủ yếu tăng tín hiệu trong thì T2.
* Các thăm dò cận lâm sàng khác:
- Chụp mạch máu não mã hoá xoá nền cho hình ảnh tắc mạch chính
xác nhất.
- Siêu âm doppler mạch cảnh: để phát hiện hẹp, tắc hoặc vữa xơ động
mạch đoạn ngoài sọ.
- Siêu âm doppler xuyên sọ để phát hiện co thắt mạch não và huyết động
học trong tuần hoàn não .
- Xét nghiệm máu: Công thức máu (đánh giá độ tăng hồng cầu, tiểu cầu, độ
quánh của máu), xét nghiệm lipid máu (Cholesterol, Tryglycerid, LDL, HDL),
xét nghiệm đường máu, điện giải đồ, chức năng gan thận.
- XQ tim phổi; Điện tim; Điện não, siêu âm tim.[36, 44]
15
1.1.10. Chẩn đoán bệnh ĐQNMN:
Đánh giá lâm sàng toàn diện và có hệ thống, kết hợp với các xét
nghiệm cơ bản chung và chụp CT Scaner sọ não đảm bảo chẩn đoán chính
xác và hiệu quả cho bệnh nhân.
* Chẩn đoán bệnh ĐQN:
Dùa vào định nghĩa của WHO( 1989).
Chẩn đoán lâm sàng ĐQN theo tiêu chuẩn của WHO đúng được 88-
95% [31]
* Chẩn đoán nhồi máu não:
Dùa vào triệu chứng lâm sàng và cắt líp vi tính.
Nhìn chung nhồi máu não chiếm 80%- 85% các ĐQN .
- Chụp CT Scaner sọ não cho phép phân biệt NMN và CMN: Cho thấy
tổn thương của NMN hoặc những dấu hiệu sớm của NMN.
- Mét số tác giả dùa vào các triệu chứng lâm sàng đưa ra các thang điểm,
hệ số nhận dạng để chẩn đoán phân biệt CMN với NMN.
- Lương Văn Chất (1991) đưa ra hệ số nhận dạng để chẩn đoán phân biệt
nhồi máu não và chảy máu não.[8]
- Năm 1985, Poungvarin N và cộng sự đưa ra thang điểm Siriraj (Siriraj
Stroke Score= SSS) chẩn đoán phân biệt các thể ĐQN.
- Theo Nguyễn Văn Chương và cộng sự (2008) áp dụng chẩn đoán ĐQN
theo thang điểm lâm sàng ĐQ CMN mang lại nhiều lợi Ých trong lâm sàng
(clinical stroke score = CSS )[8]
Bảng lâm sàng ĐQ chảy máu não:
+ Bệnh xuất hiện đột ngột và các triệu chứng nặng tối đa ngay từ đầu
+ Đau đầu
16
+ Nôn và/ hoặc buồn nôn
+ HA tâm thu khi khởi phát tăng trên 190 mmHg
+ Cã hội chứng màng não
+ Rối loạn ý thức
+ Rối loạn cơ vòng
+ Co giật hoặc kích thích vật vã
+ Quay mắt, quay đầu về một bên
+ Co cứng mất vỏ, duỗi cứng mất não
Các triệu chứng trên mỗi triệu chứng 01 điểm, tổng số là 10 điểm lâm
sàng đột quỵ chảy máu não.
CSS ≥ 03 điểm: Theo dõi chảy máu não;
CSS từ 0 -> 02 điểm: Theo dõi nhồi máu não.
* Chẩn đoán vị trí nhồi máu não thuộc vùng cấp máu của động mạch não.
- Dùa vào triệu chứng lâm sàng chỉ điểm cho vùng tổn thương.
- Dùa trên vị trí ổ nhồi máu trên phim chụp CT Scaner sọ não .[7, 20]
1.1.11. ĐiÒu trị bệnh Đột quỵ nhồi máu não:
- Vận chuyển nhẹ nhàng khi không có các triệu chứng đe doạ tính
mạng bệnh nhân.
- Hồi sức cÊp cứu điều trị theo nguyên tắc: A, B, C.
+ A (Airway support): Khai thông đường thở - để bệnh nhân nằm đầu
cao 25
o
-
30
o
nghiêng về một bên, tháo răng giả (nếu có), móc đờm dãi.
+ B (Breathing support): Đảm bảo thở hiệu quả: oxy, đặt nội khí quản,
thở máy, mở khí quản.
17
+ C (Circulation control): Điều chỉnh mạch, HA hợp lý, chỉ hạ khi HA >
180/110 mmHg; Nâng HA khi HA < 100/60 mmHg.
- Chống phù não tích cực: Mannitol 20%, glycerin.
- Điều trị đặc hiệu theo thể:
* Li giải cục máu đông: rtPA
* Lấy cục máu đông: bằng phương pháp Penumbra.
* Thuốc chống đông: Heparin 2500 - 3000 đv/ngày
* Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu: Acid acetylsalicylic (Aspirin), Pyridamol,
Clopidogrel
* Các thuốc bảo vệ và dinh dưỡng thần kinh: Citicoline, Gliatidine,
Piracetam, Praxillene, Ginkgo biloba (Tanakan, Giloba), Cerebrolysin
- Điều trị triệu chứng: Chống co giật, chống kích thích. Chống tăng đường
huyết, hạ thân nhiệt xuống dưới 37ºC
- Điều chỉnh nước, điện giải và thăng bằng toan kiềm: NaCl 9‰.
- Kháng sinh chống bội nhiễm phổi và đường niệu:
Nhóm Cephalosporins + nhóm Aminoglycosides.
- Dinh dưỡng: Đảm bảo đủ calo cho BN hàng ngày (Nuôi dưỡng bằng
đường miệng; đặt sonde; đường truyền).
- Phục hồi chức năng, chống loét, chống teo cơ, cứng khớp
- Xét điều trị phẫu thuật.
- Điều trị dự phòng tái phát.
1.2. y học cổ truyền :
- Trong Y học cổ truyền (YHCT) không có bệnh danh của ĐQN hay
TBMMN căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng được các y văn đề cập đến trong
chứng tróng phong đó là tình trạng bệnh nhân đột nhiên ngã, bất tỉnh nhân
sự, bán thân bất toại, nói không rõ hoặc không nói được, chi thể tê bì. Bệnh
thường xảy ra đột ngột, diễn biến phức tạp, nặng nề, hay gặp ở người cao tuổi.
18
Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột
như trong giai đoạn cấp của YHHĐ thì YHCT xếp ĐQN vào chứng tróng
phong, giai đoạn sau cấp của YHHĐ với triệu chứng liệt nửa người nổi bật thì
YHCT xếp vào chứng bán thân bất toại.
Chứng Tróng phong
1.2.1. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
ĐQN thuộc phạm trù tróng phong của YHCT, được mô tả bệnh nhân đột
nhiên chóng mặt, ngã, mét bên người không cử động được, méo mồm, nói
ngọng, nặng thì bất tỉnh hôn mê, chết hoặc không chết.
Tróng phong là chứng bệnh đã được đề cập tới từ hơn 2.000 năm nay
trong các y văn cổ như “Nội kinh”, “Kim quỹ yếu lược”, qua các thời kỳ lịch
sử được bổ sung và hoàn thiện dần.
Các Y gia Trung Quốc qua các thời đại, đưa ra nhiều học thuyết về
nguyên nhân khác nhau.
- Từ thời Hán, Đường về trước:
+ Trong Linh Khu cho rằng: Hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh vệ,
dinh vệ yếu thì chân khí mất, còn mình tà khí ở lại trở thành khô cứng nửa
người.
+ Kim quĩ yếu lược viết: “Kinh mạch trống rỗng phong tà thừa cơ xâm
nhập gây chứng tróng phong, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng hậu
ở kinh lạc hay tạng phủ”.
- Thời kỳ Hán, Đường về sau:
+ “Hà gian lục thư” cho rằng “Tâm hoả quá mạnh”; Nhiệt khí uất kết gây
ra bệnh.
+ Trong “ Đan khê tâm pháp - Tróng phong luận” cho rằng người ăn
nhiều chất béo bổ sẽ sinh đàm thấp trong cơ thể. Thấp lâu ngày hóa đàm, đàm
sinh nhiệt, nhiệt sinh hỏa, hỏa sinh phong, phong động gây tróng phong.
19
+ “Đông đán thập thư” cho rằng “chính khí hư ”: Chân khí hư tổn nên dễ
bị tróng phong.
+ Diệp Thiên Sỹ thiên về phong dương: Do huyết kém, thuỷ yếu không
nuôi dưỡng được can méc, phần dương của can quá mạnh sinh nội phong, nội
phong nổi nên gây ra tróng phong hoặc do huyết táo sinh nhiệt, nhiệt được
phong khí đưa lên thành tróng phong, làm đường lạc và các khiếu nghẽn lấp.
- Ngày nay các nhà y học cổ truyền cho rằng nguyên nhân của tróng
phong là do:
+ Nội thương hao tổn: Tố chất cơ thể âm huyết suy, dương thịnh hoả
vượng, phong hoả dễ tích hoặc do cơ thể già yếu can thận âm suy, can
dương thiên thịnh, khí huyết thượng nghịch, thượng bít thần khiếu đột
nhiên mà phát bệnh.
+ Lao dục quá độ: Hao khí thương âm dễ gây lên dương khí bạo loạn,
khí huyết thượng nghịch mà gây bệnh.
+ Èm thực bất tiết: Do ăn uống không điều độ, uống nhiều rượu, ăn
nhiều chất cay béo ảnh hưởng đến công năng tỳ vị, thấp nội sinh tích tụ sinh
đàm, đàm thấp sinh nhiệt, nhiệt cực sinh phong cuối cùng là phong hoá đàm,
thấp nhiệt nội thịnh phạm vào mạch lạc, thượng tắc thanh khiếu gây bệnh.
+ Tình chí thương tổn: VÝ như uất né thương can, can khí bất hoà, khí
uất hoá hoả, can dương bạo cang, dẫn động tâm hoả, khí huyết thượng xung
lên não mà gây bệnh.
+ Khí xung tróng tà: Thường còn được gọi dưới tên "thốt tróng", mà hiện
nay dễ liên hệ với trường hợp đột quỵ do xuất huyết não.
Như vậy, nguyên nhân và cơ chế gây tróng phong rất phức tạp nhưng quy
lại không ngoài sáu yếu tố là phong (nội phong, ngoại phong), hỏa (can hỏa,
tâm hỏa), đàm (phong đàm, thấp đàm, nhiệt đàm), huyết (huyết hư, huyết ứ),
khí (khí hư, khí trệ, khí nghịch) và hư (tú hư, thận hư, âm hư). Trong những
20
yếu tố đó thì can thận âm hư là căn bản. Huyết ứ thường xuyên xảy ra, tác
động tương hỗ lẫn nhau làm cho phong động, khí huyết nghịch loạn, gây
tróng phong. Mà:
Ngoại phong: Do ảnh hưởng của khí hậu, phong tà nhân chính khí suy
giảm, mạch lạc trống rỗng mà xâm nhập vào.
Nội phong: Phong do trong cơ thể sinh ra, do âm dương mất cân
bằng, chính khí suy kém làm hao tổn chân âm, ảnh hưởng đến can thận, can
là tạng thuộc phong, nếu can huyết hư suy sẽ sinh nhiệt, nhiệt hóa hỏa, hỏa
thịnh thì phong động, che lấp các khiếu, rối loạn thần minh gây nên chứng
tróng phong.
NÕu nhẹ chỉ liệt nửa người không có hôn mê gọi là tróng phong kinh lạc
(TPKL), nếu nặng có hôn mê gọi là trúng phong tạng phủ (TPTP).
YHCT xếp “trúng phong” là chứng bệnh dẫn đầu trong 4 loại bệnh lớn
của nội khoa và gắn các triệu chứng bệnh với tạng phủ sau: “ miệng há, tay
buông thõng là Tỳ tuyệt; mắt nhắm là Can tuyệt; hôn mê bất tỉnh, mòi phập
phồng là Phế tuyệt; đái dầm là Thận tuyệt; lưỡi ngắn không nói được là Tâm
tuyệt; nấc cụt không dứt là Vị khí tuyệt”. [45]
* Tú hư đàm thấp, đàm trọc thượng nhiễu
Biểu hiện lâm sàng: Đau đầu, chóng mặt, tức ngực, ăn Ýt, dễ nôn. Đột
ngột xuất hiện huyễn vựng, nôn, buồn nôn, nhìn đôi hoặc mắt mờ, lưỡi bệu,
nói khó, chân tay tê bì, liệt nửa người. Chất lưỡi bệu màu xám tối, rêu lưỡi
trắng dính hoặc vàng dính. Mạch huyền hoạt hoặc hoạt sác [25], [44].
Nguyên nhân bệnh sinh: Do ăn nhiều chất béo ngọt hoặc nghiện rượu
làm tỳ vị tích trệ, tân dịch tích tụ sinh đàm; hoặc uất giận ưu tư làm khí trệ
sinh đàm. Đàm uất hóa hỏa mà sinh bệnh.
Pháp điều trị: Táo thấp hoá đàm, tức phong khai khiếu.
21
Phương thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang gia giảm [15], [25], [44].
Tróng phong tạng phủ
Tróng phong tạng phủ có: Chứng bế và chứng thoát. Phân biệt chứng bế
và chứng thoát có sự khác nhau về sự mạnh yếu của chính khí và tà khí. Giữa
chứng bế và chứng thoát có thể chuyển hoá lẫn nhau [25], [42], [44].
* Chứng bế: Người bệnh đột nhiên ngã lăn ra, bất tỉnh nhân sự, miệng
mím, răng cắn chặt, hai bàn tay nắm chặt, bí đại tiểu tiện. Lâm sàng chia
thành dương bế (thuộc nhiệt chứng) và âm bế (thuộc hàn chứng).
+ Dương bế:
Biểu hiện lâm sàng: Ngoài triệu chứng nh- trên còn biểu hiện mặt đỏ,
hai gò má đỏ, người nóng, đờm dãi nhiều, hơi thở thô, vật vã không yên, có
thể có nôn, nấc. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, dính. Mạch huyền hoạt, hữu lực.
Nguyên nhân bệnh sinh: Do thể trạng thuộc thể can dương cang thịnh,
khi tinh thần bị kích thích quá mức làm cho can dương thăng phù lên trên gây
nên phong động. Huyết theo khí nghịch lên trên, kết hợp với đàm, hỏa làm
che lấp thanh khiếu, tâm không tàng được thần dẫn tới mê man, bất tỉnh nhân
sù.
Sách Tố vấn: Huyết theo khí nghịch lên trên thì gây chứng đại quyết.
Chứng dương bế là do phong hỏa nội bế, đàm nhiệt hỗ kết gây bế trở kinh
mạch, che lấp tâm khiếu.
Pháp điều trị: Tân lương khai khiếu, thanh can tức phong.
Phương thuốc: Chí bảo đan hoặc An cung ngưu hoàng hoàn để tân lương
khai khiếu, sau đó dùng bài Linh dương giác câu đằng thang để thanh can tức
phong, dục âm tiềm dương [25], [42].
+ Âm bế:
22
Biểu hiện lâm sàng: Ngoài các triệu chứng nh- chứng bế, còn có thêm
biểu hiện sắc mặt trắng nhợt, tình trạng li bì, Ýt dãy dụa, chi thể lạnh, nhiều
đờm dãi. Bụng trướng, nhiều mồ hôi. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng dính [42],
[44].
Nguyên nhân bệnh sinh: Thể trạng dương hư, âm thịnh, tỳ thận bất túc,
tâm dương hư suy, vận hoá thất thường. Nếu tinh thần u uất thì nội phong
nhiễu động, phong hợp với đàm thấp làm che lấp thanh khiếu gây nên bệnh.
Pháp điều trị: Tân ôn khai khiếu, trừ đàm tức phong.
Phương thuốc: Tô hợp hương hoàn, khi đã tỉnh dùng bài Điều đàm thang
gia giảm [15], [44].
* Chứng thoát:
Biểu hiện lâm sàng: Bệnh nhân đột ngột ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự, mắt
mở, miệng há, hơi thở yếu, tay chân lạnh, ra mồ hôi đầm đìa, đại tiểu tiện dầm
dề không tự chủ, sắc mặt nhợt nhạt, chất lưỡi tím tối, rêu lưỡi trắng nhờn,
mạch vi muốn tuyệt.
Nguyên nhân bệnh sinh: Tình trạng dương khí suy đến cực điểm, dễ dẫn
tới âm dương ly thoát, khí của tạng phủ và cơ thể suy kiệt sắp tuyệt. Do vậy,
tình trạng bệnh nhân thường rất nặng nề.
Pháp điều trị: Ých khí hồi dương, phù chính cố thoát.
Phương thuốc: Sâm phô thang gia vị [42], [44].
1.3. Một số nghiên cứu về điều trị tróng phong bằng thuốc y học cổ truyền
1.3.1. Nghiên cứu một số bài thuốc YHCT
* Thanh khai linh:
Trần Mậu Nhân sử dụng 40 - 60 ml Thanh khai linh pha với 500 ml
dung dịch Glucose 10% truyền tĩnh mạch chậm. Nghiên cứu trên 124 BN đột
quỵ, trong đó 111 ca ĐQNMN, 23 ca ĐQXHN. Nhóm chứng 32 ca dùng
23
dung dịch Nicotinic acid pha với 500ml dung dịch Glucose 10%. Cả 2
nhóm đều dùng mỗi ngày một lần, liệu trình là 28 ngày.
Kết quả: Nhóm ĐQNMN đạt kết quả 81,1%, nhóm chứng đạt 50%, sù
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Nhóm ĐQXHN đạt hiệu quả 91%.
Một nghiên cứu khác điều trị cho 50 BN trong 14 ngày đạt kết quả 80% [51].
* Hoa đà tái tạo hoàn:
+ Bệnh viện Phóc Kiến: nghiên cứu trên 56 BN tróng phong cấp tính dùng Hoa
đà tái tạo hoàn thấy kết quả chung đạt 89%, trong đó 43% đạt kết quả tốt [50].
+ Bệnh viện Quảng Châu nghiên cứu thấy Hoa đà tái tạo hoàn tác dụng
điều trị phục hồi sau ĐQNMN tốt hơn Nhân sâm tái tạo hoàn [33], [50].
* Địa hoàng Èm tử thang:
Tôn Khang Thái điều trị 101 BN đạt kết quả tốt, Vương Hân điều trị 30
BN đạt kết quả tốt 26 BN [50].
* Huyết phủ trục ứ thang:
Chu Trường Hữu dùng bài Huyết phủ trục ứ thang gia giảm điều trị
tróng phong thấy triệu chứng thần kinh khu trú cải thiện rõ [50].
* Tứ vật đào hồng:
Tô Văn Đệ dùng bài Tứ vật đào hồng điều trị thiếu máu não cục bộ đạt
kết quả 92%, Chu Thác Lâm điều trị NMN đạt kết quả 93% [50].
* Theo biện chứng luận trị:
Cao Giáp Khương nghiên cứu kết hợp YHCT và YHHĐ điều trị 195 BN
thể NMN, tác giả chia nhiều thể, mỗi thể lại dùng 1 bài thuốc, kết quả khỏi
53%, chuyển biến tốt 36% [52].
Ngoài ra, còn có các bài thuốc khác dùng điều trị NMN như: Bổ âm
thông lạc thang, Song bổ thông lạc hoàn, viên nang Sâm kỳ, viên nang Ých
thận thông lạc, Bổ âm thông não thang, thuốc nước “Phức phương bắc kỳ”,
24
Thuốc tiêm “Phức phương đan sâm”, Xuyên khung, dịch truyền Hoàng kỳ,…
[51], [52], [53].
1.3.2 Nghiên cứu về thuốc An cung ngưu hoàng hoàn
* Giới thiệu thuốc
Năm thứ VIII triều đại Khang Hy (1669) nhà thuốc Đồng Nhân Đường
chính thức ra đời với thiên hướng nghiên cứu các dược liệu quý, bài thuốc
dành riêng cho các vị Hoàng đế. Đến năm 1723 đích thân Hoàng đế Ung
Chính đã duyệt phê thuốc tiến cung của nhà thuốc Đồng Nhân Đường và cho
phép sử dụng trong hoàng cung. Những bài thuốc này trong đó có An cung
ngưu hoàng hoàn đã phục vụ cho 8 đời Hoàng đế (188 năm). ACNHH là
thuốc cấp cứu đông y truyền thống dùng trong ĐQN nhanh chóng và hiệu
quả.
An cung ngưu hoàng hoàn có thành phần chủ yếu do 11 vị thuốc tạo nên
gồm: Ngưu hoàng, bét sõng tê giác, xạ hương, trân châu, chu sa, hùng hoàng,
hoàng liên, hoàng cầm, chi tử, uất kim, băng phiến.
- Bào chế: Tán bột thật mịn, luyện với mật ong lâu ngày thành hoàn, mỗi
hoàn 3g, áo nhò vàng rồi bao sáp. Thuốc có mùi thơm mạnh, vị hơi đắng.
* Một số tác giả nghiên cứu dược lý học của viên ACNHH trên thực
nghiệm thấy có tác dụng sau:
+ Nghiên cứu của Lưu Khởi Tần chứng minh tác dụng hạ nhiệt của An
cung ngưu hoàng hoàn: ACNHH có tác dụng hạ sốt rõ rệt ở thá bị sốt do nội
độc tố vi khuẩn, sau 1 giê uống thuốc so với nhóm đối chứng có sự khác biệt
rất cao (P < 0,001), một lần uống thuốc có thể duy trì trên 5 - 6 giê [54].
+ Nghiên cứu của Diệp Tổ Quang, Vương Kim Hoa và các cộng sự đã
nghiên cứu dược lực học của bài thuốc ACNHH kết luận ACNHH có tác
dụng thanh nhiệt, giải độc, trấn tĩnh qua đó mà có tác dụng bảo hộ tổ chức
não [55].
25
+ Chu Thừa Hỷ [61] khi nghiên cứu trên thá bị gây hôn mê chứng minh:
ACNHH có thể giảm nhẹ hôn mê ở động vật, ức chế các chứng trạng thần
kinh, giảm các sóng bệnh lý trên điện não đồ líp vỏ não, đồng thời giảm tỷ lệ
tử vong của động vật thực nghiệm.
+ Một nghiên cứu khác [62, 63, 64] khi nghiên cứu về thành phần hoá
học trong dịch não tuỷ và trong tổ chức não: sau khi bị nhiễm độc 16 h chỉ sè
men Lactate Dehydrogenaza (LDH) trong dịch não tủy của nhóm đối chiếu
tăng rõ rệt. Đồng thời làm tăng cường phản ứng của men (LDH) trong tổ chức
hoá học của não, nhưng nhóm nghiên cứu (dùng thuốc ACNHH) thì lượng
LDH ở dịch não tuỷ lại không bị tăng sau khi gây nhiễm độc cho động vật
thực nghiệm, đồng thời phản ứng của men LDH trong tổ chức hoá học của
não cũng không tăng mạnh so với nhóm đối chiếu. Điều đó chứng minh
nguồn gốc hoạt tính LDH tăng cao trong dịch não tuỷ là do tổ chức TB não bị
tổn hại gây nên, và nh- vậy thì một lần nữa chứng minh ACNHH có tác dụng
bảo hộ tổ chức TB não.
- ACNHH có tác dụng phòng và điều trị tổn thương gan gây nên bởi độc
tố vi khuẩn thực nghiệm. Thông qua tăng cường hoạt tính của men, thúc đẩy
oxy hoá của TB gan, hô hấp, chuyển hoá năng lượng và chuyển hoá axid
nucleoic đạt tới tác dụng bảo vệ gan, tác dụng bảo vệ gan của ACNHH có thể
liên quan tới tác dụng thanh nhiệt giải độc của nó.
- ACNHH có tác dụng hạ áp rõ rệt trên động vật thực nghiệm mô hình
tăng cao huyết áp, huyết áp nhìn chung giảm từ 10 - 40 mmHg, đối với chã bị
chậm nhịp tim do tác dụng của thuốc mê, huyết áp tuy vẫn tiếp tục bị giảm
nhưng lưu lượng mạch vành lại tăng rõ, tăng sức bóp tâm thu, điều đó chứng
minh thuốc có tác dụng cải thiện công năng cơ tim; ngoài ra ACNHH kéo dài
thời gian sống của chuột khi bị Ðp vào trạng thái thiếu oxy.