1
Đặt vấn đề
Gãy hở hai xương cẳng chân là loại gãy khá phổ biến. Theo thống kê tại
Bệnh viện 103 gãy hở 2 xương cẳng chân chiếm 40,5% trong các trường hợp
gãy hở xương dài, nguyên nhân chủ yếu là tai nạn giao thông (TNGT).
Do đặc điểm giải phẫu mặt trước trong xương chày nằm sát ngay dưới
da nên dễ dẫn đến gãy hở, mô mềm tổn thương nặng, khả năng nhiễm bẩn
nhiều, nguy cơ nhiễm khuẩn cao gây khó khăn cho điều trị. Các phương pháp
cắt lọc cố định bằng bột, kết hợp xương bên trong hay xuyên đinh kéo liên
tục đã bộc lộ các nhược điểm, đặc biệt trong các trường hợp gãy hở có
thương tổn mô mềm nặng và đến muộn.
Trong thực tế hiện nay việc xử trí gãy hở hai xương cẳng chân ở các
tuyến còn một số sai sót gây nhiều tai biến và biến chứng. Ngoài ra một số
trường hợp bệnh nhân gãy hở hai xương cẳng chân đến viện chỉ sơ cứu rồi
chuyển về các bệnh viện tuyến trên gây nên sự tốn kém, chậm thời gian phẫu
thuật và gây nên sự quá tải ở các bệnh viện tuyến sau.
Trong thời gian gần đây việc sử dụng cố định ngoài (CĐN) để cố định
xương gãy kèm theo một số biện pháp can thiệp như tưới rửa dồi dào dưới áp
lực, cắt lọc triệt để và che phủ xương bằng các vạt tại chỗ trong trường hợp lộ
hoặc khuyết hổng xương đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước áp dụng
có kết quả.
Hiện nay tại khoa ngoại dã chiến B15 Bệnh viện 103 thường chỉ định
điều trị gãy hở hai xương cẳng chân bằng cố định ngoài hai bên cân xứng
với bộ cọc Ðp răng ngược chiều, cố định ngoài một bên (FESSA) cố định
vòng tròn (khung Ilizarov). Khung cố định này không những cố định vững
2
chắc xương gãy, kỹ thuật đặt khung không mấy phức tạp và là loại khung
đơn giản gọn nhẹ giúp cho việc chăm sóc vết thương sau mổ dễ dàng, điều trị
các khuyết hổng phần mềm, xương và thiếu da thuận lợi.
Để có một đánh giá đầy đủ về khung cố định ngoài trong điều trị gãy hở
phức tạp hai xương cẳng chân chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Đánh giá tác dụng khung CĐN trong điều trị gãy hở hai xương cẳng
chân tại khoa ngoại dã chiến B15 Bệnh viện 103 trong năm 2008 – 2010".
Mục tiêu đề tài:
1. Đánh giá kết quả điều trị gãy hở 2 xương cẳng chân bằng khung
CĐN tại khoa ngoại dã chiến B15 Bệnh viện 103 .
2. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị gãy hở hai
xương cẳng chân bằng khung CĐN.
3
Chương 1
Tổng quan
1.1. Đặc điểm giải phẫu cẳng chân.
Hình 1.1. Xương cẳng chân [11]
4
- Cẳng chân gồm 2 xương, xương chầy là xương chính ở phía trước,
xương mác ở phía sau ngoài là xương phụ. Xương chầy là xương hơi cong
chữ S, tiếp khớp ở trên với xương đùi, một mình chịu sự tỳ nén của cả thân
người. Thân xương chầy hình lăng trụ tam giác trên to dưới nhỏ gồm 3 mặt
(trong, ngoài, sau) và 3 bờ. Bờ trước cứng nên thuận lợi cho việc bắt các
cọc vít (fiche) [17, 4].
Hình 1.2. Cơ cẳng chân [11]
- Sự phân bố các cơ ở cẳng chân không đều, mào chầy và mặt trong
xương chầy ở ngay dưới da, không có cơ nào che phủ; da vùng này dính vào
xương và kém di động. Mặt trước ngoài có các cơ duỗi che phủ nhưng ở phía
trước cũng rất mỏng. Riêng mặt sau xương chày được các cơ gấp nhất là cơ
tam đầu cẳng chân to, dày che phủ có lực co gấp mạnh gấp 4 lần các cơ duỗi
[20, 10]. Do vậy nên khi bị chấn thương gãy xương chầy thì rất dễ gãy hở do
5
đầu xương chọc thủng da ở mặt trước trong và những trường hợp lực chấn
thương mạnh sẽ gây lóc da rộng, bầm dập cơ nhiều.
- Mạch máu nuôi xương chày có ba hệ thống chính là:
+ Hệ thống trong ống tuỷ.
+ Hệ thống đầu hành xương
+ Hệ thống màng xương.
Hình 1.3. Thiết đồ ngang ngay trên điểm giữa cẳng chân trái [11]
- Hệ thống tĩnh mạch trong ống tuỷ qua các vi tĩnh mạch trong vỏ
xương nối với hệ tĩnh mạch màng xương
6
- Xương chầy có hình dáng thay đổi từ trên xuống dưới nên khi bị gãy
rất khó nắn chỉnh.
1.2. Thương tổn giải phẫu trong gãy hở hai xương cẳng chân
Đối với gẫy hở hai xương cẳng chân, lực chấn thương gây gãy xương
cũng gây tổn thương da, cơ, mạch máu thần kinh. Có nhiều cách phân loại
gãy hở khác nhau.
- Tác giả Couchoix (1957) dựa vào thương tổn da đã phân ra 3 loại [15].
- Tác giả Duparc và Huten (1981) dựa trên cách phân loại của tác giả
Couchoix đã đề nghị một bảng phân loại có tính tiên lượng. Cách phân loại
này cũng chủ yếu dựa vào thương tổn phần mềm [15].
Đa số các tác giả ở Bệnh viện Việt Đức, Saint-Paul, Bệnh viện Quân đội
108, 103, v.v đều dựa theo cách phân loại của tác giả GUSTILO (Mỹ).
Cách phân loại này tính đến cả tổn thương phần mềm và xương [3, 17, 20].
Bảng 1.3. phân loại của Gustilo
Phân loại
Mô tả thương tổn
Độ I
Vết thương sạch đường kính < 1cm
Độ II
Vết thương đường kính > 1cm nhưng không có tổn thương
phần mềm rộng
Độ IIIA
Chấn thương nhiều tổn thương phần mềm rộng nhưng xương
vẫn được che phủ thích hợp bởi các mô mềm
Độ IIIB
Vết thương mất mô mềm rộng, lộ xương và nhiễm bẩn nặng
Độ IIIC
Thương tổn nh- độ IIIB nhưng kèm theo tổn thương mạch
máu thần kinh
7
1.3. Tình hình sử dụng khung cố định ngoài để điều trị gãy hở hai xương cẳng chân
trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
1.3.1. Tình hình sử dụng khung cố định ngoài để điều trị gãy hở 2
xương cẳng trên trên thế giới
Trên thế giới các khung CĐN nh- Hoffmann ASIF, Guduosairi,
Judet, Ilizarov đã được sử dụng nhiều để điều trị gãy hở hai xương
cẳng chân và di chứng.
Từ năm 1978 đến năm 1988 J.Hofmann, B.Grose và K.Weise ở Tubige
đã điều trị cho 475 trường hợp gãy hở xương dài độ 2,3 (theo Gustilo) bằng
khung CĐN, trong đó 2/3 gãy hở 2 xương cẳng chân [20].
W.N.Ueng và C.H.Shih (Đài Loan - 1990) công bố kết quả điều trị 80
trường hợp viêm xương sau mổ gãy hở xương chày kết xương ĐNT. Trong
đó có 12 ca dùng khung Hoffmann cho kết quả liền xương tốt với thời gian
liền xương trung bình là 5,2 tháng [19].
Ở Hy Lạp, G.Anastopoulos và A.Asimakapoulos (1987 - 1990) đã sử
dụng khung cố định ngoài một bên để điều trị cho 32 trường hợp gãy thân
xương chầy và xương đùi cùng bên. Trong đó 22 ca gãy hở xương chầy và 7
ca gãy hở xương đùi. Cả 32 ca với ổ gãy xương chày dù kín hay hở đều kết
xương bằng khung cố định ngoài một bên còn xương đùi 29/32 ca đóng
ĐNT, 3 ca kết xương cố định ngoài. Kết quả liền xương tốt là 89%. Kết quả
trung bình và xấu là 11%. Thời gian liền xương trung bình của xương chày
là 18,5 tuần, còn xương đùi là 15,5 tuần [15]. Rindenco, Kors đã công bố kết
quả điều trị 45 trường hợp gãy thân 2 XCC bằng khung CĐN SKD1 trong
2 năm 1987 - 1988. Có 10 ca mở vào ổ gãy nắn chỉnh. Thời gian mang
8
khung CĐN là 8 - 12 tuần sau đó tháo khung bó bột ôm gối thêm 2 - 3
tháng. Kết quả liền xương và hồi phục chức năng tốt [18].
C.Krettek, N.Hass và H.Tseherne (Mỹ) từ 1982 - 1986 đã điều trị 202
trường hợp gãy thân xương chầy bằng khung CĐN một bên gồm có 70 gãy
xương kín và 132 gãy xương hở. Thời gian liền xương trung bình từ 15,4 đến
18,4 tuần. Tỷ lệ nhiễm trùng trong gãy hở là 5,1%, gãy kín là 0%. Nhiễm
trùng chân đinh 2,5%, không liền xương là 8,85 % [19].
1.3.2. Tình hình sử dụng khung cố định ngoài để điều trị gãy hở 2
xương cẳng ở Việt Nam
Ở Việt Nam từ những năm 1976, tác giả Nguyễn Văn Nhân đã sáng chế
ra bé CERNC để điều trị các trường hợp gãy xương hở, đặc biệt là gãy hở
nhiễm trùng và khớp giả nhiễm trùng thu được kết quả tốt. Hiện nay bé
CERNC vẫn đang sử dụng rất rộng rãi ở các bệnh viện quân y và dân y trong
cả nước.
Từ những năm 1977 đến 1986, tại Trung tâm chấn thương chỉnh hình
thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Vũ Tam Tỉnh và cộng sự đã sử dụng khung
tự tạo theo mẫu khung Judet điều trị cho 57 trường hợp gãy xương hở cẳng
chân thu được kết quả tốt.
Tại Viện quân y 108, quân y 103, Bé CERNC và khung Ilizarov đã được
sử dụng khá phổ biến để điều trị gãy xương hở cẳng chân và di chứng. Từ
tháng 5/1993 - 5/1994 tại khoa chấn thương chỉnh hình Viện quân y 108 đã
điều trị cho 42 bệnh nhân gãy 2 XCC bằng CERNC và khung Ilizarov. Kết
quả liền xương tốt là 71,7% nhiễm trùng chân đinh là 38% [8].
Trong 3 năm 1991 - 1994 tại bệnh viện Saint-Paul đã sử dụng khung
CĐN để điều trị cho 20 bệnh nhân gãy hở 2 XCC, kết quả liền xương tốt
trong đó có 10 bệnh nhân nhiễm trùng chân đinh. Thời gian liền xương trung
9
bình là 20 tuần. Trong đó có 4 trường hợp ghép xương sớm, liền xương sau 6
- 7 tháng [13].
Riêng khung cố định ngoài kiểu FESSA tuy mới được áp dụng nhưng
do tính chất cố định vững chắc nên đã có triển vọng được sử dụng rộng rãi ở
các bệnh viện: Việt Đức, Saint-Paul, 108. 103. [7, 13]
1.4. Vài nét về khung cố định ngoài
1.4.1. Sơ lược lịch sử của phương pháp
- Thời Hypocrate đã đề ra phương pháp cố định ổ gãy từ xa gồm 2 vòng
đai da đặt dưới gối và trên mắt cá cùng 4 thanh gỗ đặt dọc theo trục cẳng
chân để điều trị các bệnh nhân gãy 2XCC. Đây được coi là ý tưởng đầu tiên
về phương pháp CĐN.
Năm 1627 Fabricius Hydannus chế tạo một bộ dụng cụ gồm 2 vít kim
loại gắn vào mỗi đầu xương, phần đinh ở ngoài gắn với một khung kim loại
có khả năng nắn chỉnh được.
- Năm 1853 Malgaigne là người đầu tiên sáng chế ra bé khung cố định
ngoài điều trị cho bệnh nhân gãy xương bánh chè.
- Năm 1902, Alain Lambotte sử dụng khung cố định ngoài một bên điều
trị 1 trường hợp gãy kín thân xương đùi ở nhiều mảnh rời.
- Năm 1938, Raoul Hoffmann sáng chế ra bé khung CĐN một bên mang
tên Osteotaxis.
- Năm 1956 Robert và Jean Judet cải tiến khung CĐN của Judet đơn
giản, dễ sử dụng, cố định vững chắc hơn.
- Năm 1951 Ilizarov sáng chế loại khung CĐN vòng ôm quanh đoạn chi
với định Kirschner. Khung Ilizavor có nhiều ưu điểm là cố định ổ gãy rất
10
vững chắc, chỉnh được các di lệch và còn tạo được một lực nén Ðp đàn hồi
theo trục xương.
- Khung CĐN ngày càng có nhiều cải tiến và ra đời nhiều loại khung
mới di tính ưu việt của nó trong điều trị gãy xương hở. Như khung FESSA
của quân đội Pháp, khung EXFIX của quân đội Đức, khung Orthofix của Mỹ,
khung Standard, Hybrid của hiệp hội kết xương Thuỵ Sĩ (AO), khung Muller
Kalnberz.
* Chỉ định điều trị của khung cố định ngoài:
Khung cố định ngoài được chỉ định điều trị cho gãy 2XCC trong các
trường hợp sau:
- Nhóm chỉ định tuyệt đối:
+ Các trường hợp gãy mở từ độ IIIa trở lên theo phân loại của Gustilo.
+ Những trường hợp gãy mở độ I, độ II đến muộn sau 6 giê.
+ Các trường hợp khớp giả nhiễm khuẩn.
+ Đóng cứng khớp trong điều kiện khớp bị nhiễm trùng.
+ Kéo dài chi
- Nhóm các chỉ định cần cân nhắc:
+ Những trường hợp gãy mở độ I, độ II.
+ Những trường hợp gãy kín không vững, những trường hợp chậm liền
xương mà da và phần mềm không cho phép thực hiện ngay các phẫu thuật
kết xương bên trong.
11
1.4.2. Phân loại khung cố định ngoài
Trải qua quá trình phát triển hơn 150 năm, CĐN hiện nay có khoảng hơ
30 kiểu khác nhau, nhưng nói chung gồm những loại sau đây:
12
* Dùa theo cấu trúc của khung:
- Nhóm khung cố định ngoài 2 thành phần: Gồm có đinh xuyên xương
và th anh liên kết (thanh trục) như khung FESSA sè 1, khung Judet, khung
Muller
- Nhóm khung cố định ngoài 3 thành phần: Gồm 2 thành phần trên và có
thêm bộ phận cán nối, nhờ vậy có thể nắn chỉnh được như khung Ilizarov,
khung Hoffmann, Orthofix
* Dùa theo đặc tính cơ học của khung cố định:
- Nhóm cố định vững chắc như khung FESSA sè 1.
- Nhóm cố định động như khung ASIF, Orthofix
- Nhóm cố định đàn hồi như khung ILizarov
Các loại khung CĐN, ngoài độ vững chắc cần thiết để cố định xương,
một khung CĐN lý tưởng cần đạt các yêu cầu:
+ Kéo nén được.
+ Nắm chỉnh được di lệch một cách chủ động.
+ Ýt gây nhiễm trùng.
+ Gọn nhẹ, dễ thực hiện.
+ Ýt tốn kém.
Để đạt được những yêu cầu trên chỉ có khung CĐN Ilizarov là tốt nhất
nhưng cồng kềnh, khó thực hiện.
1.4.3. Các cách cố định ngoài
Có nhiều cách cố định ngoài tuỳ theo loại gãy xương. Có 3 cách CĐN
sau đây:
13
* Cách cố định 1 bên:
Các loại khung kiểu này có các khung như Judet, FESSA, Hoffmann,
Muller
Có thể cố định 1 bên 1 bình diện hoặc 2 bình diện.
Do cố định 1 bên nên cấu tạo của khung gồm có đinh có ren đường kính
từ 4 - 5,5mm và các thanh liên kết (thanh trục). Nếu cố định 1 bên 2 bình
diện thì có thanh nối giữa 2 thanh liên kết.
Do các đinh có ren nên bắt được chặt vào xương nên cố định ổ gãy vững
chắc, không bị lỏng đinh, trôi trượt đinh như dùng đinh trơn. Mặt khác, do bố
trí đinh và khung ở mặt trước trong xương chầy nên không xuyên qua cơ,
tránh được thương tổn mạch máu thần kinh và có thể xoay chuyển các vạt có
cuống mạch liền ở mặt sau, mặt ngoài cẳng chân ra trước để che phủ những
khuyết hổng phần mềm lớn hoặc tạo điều kiện chăm sóc vết thương được
thuận lợi.
- Ưu điểm:
+ Cố định ổ gãy vững chắc. Nhiều tác giả như Behrens F. và Johnson
K., Weber, Fleming B, Muller đã chứng minh khung cố định ngoài một bên
một bình diện của AO, Hoffmann, ASIF bảo đảm cố định vững chắc các ổ
gãy trong mọi hình thái gãy, và cho rằng 90% các trường hợp gãy 2XCC chỉ
cần cố định bằng khung CĐN 1 bên 1 bình diện của AO là đủ vững chắc cho
đến khi liền xương.
+ Cho phép tập vận động sớm, do đó tránh được teo cơ, cứng khớp và
quá trình liền xương sẽ thuận lợi và nhanh chóng hơn.
+ Không phải bóc tách rộng cốt mạc xung quanh ổ gãy, không đựa
những phương tiện kết xương kim loại vào ổ gãy, vì thế tránh được các ảnh
14
hưởng không thuận lợi cho quá trình liền xương và là phương pháp kết
xương thường được chỉ định trong các trường hợp gãy xương hở có thương
tổn phần mềm nhiều, gãy hở đến muộn, gãy hở nhiễm khuẩn và khớp giả
nhiễm khuẩn.
+ Thuận lợi cho thay băng chăm sóc vết thương, cắt lọc hoại tử, thực
hiện được các phương pháp tạo hình phủ bổ sung bằng các vạt có cuống
mạch liền để điều trị biến chứng khuyết hổng phần mềm lộ xương mà không
phải tháo khung.
+ Đối với một số khung CĐN, sau phẫu thuật kết xương vẫn có thể chủ
động chỉnh tiếp một số di lệch và cho phép chỉnh Ðp 2 mặt gãy luôn áp khít
nhau để cố định vững chắc và giúp cho quá trình liền xương nhanh hơn.
+ Bệnh nhân không phải chịu thêm một cuộc mổ để tháo bỏ phương
tiện kết xương và còn tránh được các biến chứng do phẫu thuật lấy phương
tiện kết xương gây ra.
- Nhược điểm:
Tuy có nhiều ưu điểm nêu trên nhưng phương pháp này cũng có một số
nhược điểm khó khắc phục đó là:
+ Nhiễm khuẩn chân đinh là biến chứng hay gặp, gây nên lỏng đinh. Theo
Charles A Rockwood, Jr, MD chia nhiễm khuẩn chân đinh làm 4 mức độ:
. Độ 1: Tiết dịch rỉ viêm xung quanh chân đinh. Điều trị chỉ cần làm
sạch chân đinh bằng cồn 70
0
và uống 1 đợt kháng sinh 5 - 7 ngày.
. Độ 2: Nhiễm khuẩn nông. Cùng với tiết dịch chân đinh, phần mềm
xung quanh chân đinh viêm tấy đỏ. Điều trị giống như độ 1, nếu không đỡ thì
tiêm kháng sinh.
15
. Độ 3: Nhiễm khuẩn sau. Khác với độ 2, có dịch mủ chảy ra từ chân đih
và phần mềm sưng tấy nặng hơn. Điều trị phải theo kháng sinh đồ. Nếu lỏng
đinh phải tháo ra và xuyên thay lại đinh ở vị trí khác.
. Độ 4: Viêm tuỷ xương. Điều trị giống như độ 3 nhưng sau khi tháo
đinh ra phải nạo sạch tổ chức hoại tử, lấy bỏ xương chết, khoan rộng chân
đinh và có khi phải tháo bỏ khung CĐN để thay biện pháp cố định.
+ Di lệch thứ phát do lỏng đinh, lỏng các ốc kép làm cho hệ thống cố
định mất vững hoặc do cong đinh, gãy đinh do lực tác dụng lớn. Nguyên
nhân gây lỏng đinh do nhiễm khuẩn chân đinh hoặc do khi nén Ðp hoặc căng
dãn và tập đi sẽ dẫn đến tiêu xương quanh lỗ chân đinh,.
+ Lực cố định chỉ ở 1 bên nên độ vững chắc không bằng cố định 2 bên
cân đối và khó nắn chỉnh hơn.
* Cách cố định 2 bên cân đối:
Do lực cố định cân xứng đều 2 bên nên cách cố định này có ưu điểm là
dễ nắn chỉnh được các di lệch gập góc hoặc mở sang bên.
Nhược điểm: Là do dùng các đinh Steinmann trơn nên sau một thời gian
cố định dễ bị trôi đinh nên không vững chắc. Khi tổn thương có KHPM lớn
cần phải chuyển các vạt có cuống mạch liền thì sẽ khó khăn do bị cản trở.
Ngoài ra, do cố định 2 bên nên có thể gây tổn thương bó mạch thần kinh hoặc
hạn chế vận động khớp do phải xuyên qua cơ.
* Cách cố định vòng tròn:
Ví dụ như khung Ilizarov với nhiều ưu điểm của khung CĐN.
- Ưu điểm: Lực căng dãn và nén Ðp trên toàn bộ chu vi xương và có thể
nắn chỉnh được. Chi tiết độc đáo nhất của khung Ilizarov đó là các đinh
Kirschner, nhờ đó mà khung cố định đàn hồ vững, chỉ cho phép một kiểu
16
biến dạng duy nhất đó là căng dãn và nén Ðp theo dọc trục xương. Vì vậy mà
quá trình liền xương được nhanh hơn.
- Nhược điểm: cồng kềnh, phức tạp khó lắp ráp, không thuận lợi cho
việc chăm sóc vết thương và tạo hình phủ. Vì vậy khung này chỉ thường áp
dụng trong chỉnh hình và điều trị di chứng.
1.4.4. Vài nét về khung cố định FESSA
Bé FESSA sè 1:
Gồm 1 ống đường kính d = 18mm, dày 2mm, dài 28 - 30cm có 4 hàng
lỗ chạy dọc theo ống và các lỗ cách đều nhau.
Các cọc vít (Fiche) tù ren có đường kính 5mm dài 14cm.
Bé FESSA sè 2
Bé FESSA sè 3
Hình 1.4. Khung FESSA sè 1
èng cè
®Þnh
VÝt
Cäc vÝt
(Fiche)
17
Hình 1.5. Khung FESSA sè 2
Khung FESSA được sử dụng trong quân đội Pháp từ năm 1979 đến
nay. Nó có ưu điểm:
- Đơn giản, dễ sử dụng, cố định vững chắc, Ýt có nguy cơ tổn thương
mạch máu thần kinh, giá thành rẻ. Đặc biệt khi cần có thể lắp tăng cường một
bộ khung nữa thành kiểu chữ V, kiểu tam giác mà không cần phải tháo đinh
cũ. Do vậy, nó có thể được dùng trong cấp cứu gãy xương hàng loạt, đa chấn
thương và trong ngoại khoa dã chiến [15].
- Khung cố định ngoài FESSA gọn nhẹ, thuận lợi cho việc chăm sóc
vết thương phần mềm và thực hiện các phẫu thuật tiếp theo.
- Do các đinh không xuyên qua cơ nên sau mổ bệnh nhân tập vận động
được sớm, tránh được các biến chứng teo cơ, cứng khớp và rối loạn dinh
dưỡng.
- Sau mổ cấp cứu nếu cần tăng cường thêm cố định ngoài không cần
tháo khung cũ mà chỉ cần lắp thêm khung mới.
Tuy vậy khung cố định ngoài FESSA bộc lộ một số nhược điểm:
- Khung loại liền khối nên không có khả năng nén Ðp, căng giãn.
- Khung FESSA sè 1 không thể nắn chỉnh được.
- Những loại gãy gần khớp khung FESSA sè 1 không sử dụng được.
18
* Chỉ định điều trị của khung FESSA đối với gãy hở hai xương cẳng
chân
Theo các tác giả Pháp gồm 3 nhóm chỉ định:
- Nhóm chỉ định không cần phải thảo luận:
- Gãy hở độ 3 trở lên (theo phân loại của Duparc và Couchoix)
- Khớp giả nhiễm trùng
- Đóng cứng khớp trong điều kiện khớp bị nhiễm trùng.
- Kéo dài chi.
- Vạt da chéo chân (Cross legs)
- Nhóm các chỉ đinh phải cân nhắc:
- Một sè ca gãy hở độ 2
- Gãy kín không vững bị chậm liền xương mà da và phần mềm
không cho phép làm KXBT.
- Cố định khớp khi viêm khớp cấp tính.
- Nhóm các chỉ định còn chưa thống nhất:
- Gãy hở độ 1
- Gãy cắm gắn.
- Gãy phức tạp ở đầu xương
- Kết xương sau cắt xương chỉnh trục.
19
20
Cõy vn
Vị trí gẫy
Kết quả điều
trị
Thời gian đ-ợc
phẫu thuật
Hình thái
gẫy
Tuổi
Giới
Độ gẫy theo
Gustilo
NN tai nạn
PHCN
PP xử lý VT
phần mềm
Kết quả cố định x-ơng
gẫy sau phẫu thuật
Thời gian
liền x-ơng
Xử trí tuyến tr-ớc
21
Chương 2
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa ngoại dã chiến Bệnh viện 103.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng NC bao gồm các tất cả các BN nhập viện tại Khoa ngoại dã
chiến Bệnh viện 103 từ tháng 6/2008 đến 6/2010, được chẩn đoán xác định
gẫy hở hai xương cẳng chân và được điều trị phẫu thuật bằng khung cố định
ngoài.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Bệnh nhân > 18.
- Chẩn đoán là gãy hở hai xương cẳng chân.
- Điều trị phẫu thuật bằng khung cố định ngoài tại khoa ngoại dã chiến
Bệnh viện 103 từ 6/2008 đến 6/2010, có đủ hồ sơ bệnh án rõ ràng, có phim
Xquang trước và sau mổ và có địa chỉ, số điện thoại có thể liên hệ được.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
Những bệnh nhân hồ sơ bệnh án không rõ ràng, thiếu phim chụp trước,
sau mổ và địa chỉ thiếu số nhà, thôn xóm không liên hệ được.
2.3. Phương pháp NC
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu, tiến cứu mô tả
- Hồi cứu bệnh án các bệnh nhân được điều trị gãy hở 2 xương cẳng
chân bằng khung cố định ngoài tại khoa B15.
22
2.3.2. Các biến số cho nghiên cứu
Chúng tôi thiết lập bệnh án NC để thu thập thông tin theo các biến số
sau đây:
Mục
tiêu
Tên biến
Loại biến
Chỉ số/ định nghĩa
Phương pháp
thu thập
Mục tiêu 1
Tuổi
Định lượng
Tuổi tính theo năm
dương lịch
Hái
Giới
Nhị phân
Nam/Nữ
Quan sát, hỏi
Nghề nghiệp
Danh mục
Công việc chính
Hái
Vị trí gãy xương
cẳng chân
Danh mục
Xác định theo vị trí gãy
Dựa vào film xq
Kết quả liền
xương và thời gian
liền xương
Định lượng
Đánh giá liền xương
theo thời gian
Dựa vào LS và
XQ
Phương pháp xử
lý vết thương FM
Danh mục
Dùa theo xử lý thương
tổn
Quan sát
Kết quả cố định
xương gãy sau
phẫu thuật
Biến thứ
hạng
Đánh giá tiêu chuẩn dựa
vào Xquang
Xquang
Thời gian liền
xương
Định lượng
Dựa vào lâm sàng,
Xquang
Khám, chụp
Xquang
Mục tiêu 2
Thời gian FT
Định lượng
Tính từ lúc bị TN đến
lúc FT
Hỏi,Ghi chép
Độ gãy theo
Gustilo
Danh mục
Khám lâm sàng
Quan sát
PHCN
Nhị phân
BN có hay không phcn
Hái
NN tai nạn
Danh mục
PL theo nn tai nạn
Hái
Xử trí tuyến trước
Danh mục
Dựa vào kết quả tuyến
trước có xử trí hay
không
Quan sát
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm EPI-INFO 6.04b.
Các test thống kê y học được dùng:
23
Tính OR và test
2
hoặc test chính xác của Fisher để đánh
giá các mối liên quan.
2.5. Thời gian nghiên cứu
Chúng tôi bắt đÇu NC từ tháng 6/2008 và kết thúc tháng 6/2010.
Số liệu bắt đầu thu thập từ 6/2008 đến tháng 6/2010.
Khoảng thời gian từ tháng 6/2010 đến tháng 8/2010 sẽ dành cho xử
lý, phân tích số liệu và viết báo cáo.
2.6. Khía cạnh đạo đức của đề tài:
Chúng tôi tiến hành NC này tại BV, quá trình NC không ảnh hưởng
đến tiến độ điều trị, không gây nguy cơ gì cho BN.
Tất cả các đối tượng NC đều được giải thích rõ mục đích của NC để
họ sẵn sàng hợp tác.
24
Chương 3
Dự kiến kết quả nghiên cứu
3.1. Phân bố tuổi và giới
3.1.1. Phân bố giới của bệnh nhân nghiên cứu
Nam
N÷
Nam : Nữ
Biểu đồ 3.1. Phân bố giới đối tượng nghiên cứu
3.1.2. Phân bố tuổi các bệnh nhân
Bảng 3.1. Tuổi các bệnh nhân
Lứa tuổi
18 -< 20
20 - 29
30 - 39
40 - 49
50 - 59
60
Tổng sè
Sè BN
Tỷ lệ %
25
3.2. Nguyên nhân gãy xương cẳng chân
Bảng 3.2.1 Nguyên nhân gãy xương
Nguyên nhân
Sè BN (n=)
Tỷ lệ %
TNGT
TNLĐ
TN khác
Tổng sè
TNGT
TNL§
TN kh¸c
Biểu đồ 3.2. Phân bố nguyên nhân gãy xương
3.3. Nơi gửi bệnh nhân và xử trí của các tuyến
3.3.1. Nơi gửi
Bảng 3.3. Nơi gửi bệnh nhân
Nơi gửi
Huyện
Tỉnh, thành
Tự đến
Tổng
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
3.3.2. Xử trí
Bảng 3.4. Xử trí của tuyến gửi bệnh nhân
Cách xử trí
Cố định-
KS
Cố định
nẹp
Khâu kín
Kết hợp
xương
Tổng sè
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %