Rabelais và Gogol (Nghệ
thuật ngôn từ và văn hóa trào
tiếu dân gian)
Gogol cảm nhận sâu sắc tính thế giới quan và tính phổ quát của tiếng cười của
mình, song ông lại không thể tìm thấy vị trí phù hợp cũng như cơ sở lý luận, sự lý
giải cho tiếng cười đó trong điều kiện của nền văn hoá “nghiêm trang” thế kỷ XIX.
Khi ông giải thích trong những suy luận của mình tại sao ông cười, rõ ràng ông đã
không dám bộc lộ đến cùng bản chất của tiếng cười, tính chất toàn dân phổ quát, bao
trùm tất cả của nó; ông thường biện hộ cho tiếng cười của mình bằng thứ luân lý hạn
hẹp của thời đại. Trong những biện hộ ấy, có trù tính đến trình độ thấu hiểu của cử
tọa, Gogol đã vô tình hạ thấp, giới hạn, đôi khi thực lòng cố gắng khuôn vào những
khung khổ chính thống cái sức mạnh cải biến vô cùng to lớn, luôn tuôn trào ra ngoài
trong sáng tác trào tiếu của ông. Cái hiệu quả đầu tiên và bề ngoài, “cười nhạo” và
phủ định, đụng chạm và làm lộn nhào những khái niệm quen thuộc, đã không cho
phép những người quan sát trực tiếp nhìn thấy bản chất tích cực của sức mạnh đó.
“Song cớ sao trái tim tôi lại thấy buồn?” – Gogol tự hỏi trong Cuộc ra về từ nhà
hát (1842) và trả lời: “không một ai nhận thấy một nhân vật lương thiện có mặt trong
vở kịch của tôi”. Sau khi thổ lộ tiếp theo rằng “nhân vật lương thiện, cao thượng ấy
là tiếng cười”, Gogol tiếp tục: “Tiếng cười cao thượng bởi nó dám cả gan xuất hiện,
bất chấp ý nghĩa thấp kém mà người ta dành cho nó trong thế gian này”.
Chính cái ý nghĩa dân gian, “thấp kém”, hạ đẳng ấy đã ban cho tiếng cười, theo
định nghĩa của Gogol, một “bộ mặt cao thượng”, lẽ ra ông cũng có thể bổ sung thêm:
một bộ mặt thần thánh, bởi các thần linh đã cười như thế trong môi trường trào tiếu
dân gian của hài kịch dân gian cổ đại. Tiếng cười đó (ngay cả thực tại của nó như một
“nhân vật”) không dồn nén được vào những cách giải thích tồn tại hay có thể tồn tại
vào thời đại ấy.
“Không, tiếng cười có ý nghĩa to lớn hơn và sâu xa hơn người ta nghĩ, - Gogol
viết tiếp. – Không phải cái cười được sinh ra bởi sự tức giận nhất thời, bởi tính cáu
kỉnh bệnh hoạn của nhân cách; cũng không phải cái cười nhẹ nhàng phục vụ cho
những trò tiêu khiển và mua vui nhàn rỗi của người đời, - mà là cái cười lan tỏa từ
bản chất tươi sáng của con người, lan tỏa từ đó, bởi vì tự đáy sâu của nó ẩn chứa một
nguồn mạch tuôn trào bất tận
Không, những người nói rằng dường như tiếng cười thể hiện sự phẫn nộ là
không đúng. Chỉ những gì u tối mới làm phẫn nộ, còn tiếng cười thì tươi sáng. Rất
nhiều thứ có thể làm con người phẫn nộ, khi chúng bị phơi ra một cách trần trụi;
nhưng khi được rọi sáng bởi sức mạnh của tiếng cười, nó mang tới sự hoà giải cho
tâm hồn Song người ta không nghe thấy sức mạnh lớn lao của tiếng cười đó: cái gì
buồn cười, là cái đó thấp kém, cả thế gian nói như vậy; chỉ những gì được nói ra bằng
giọng điệu nghiêm khắc, căng thẳng mới được ban cho tên gọi là cái cao cả".
Tiếng cười "tích cực", "tươi sáng", "cao cả" của Gogol, lớn lên trên nền tảng
của văn hoá trào tiếu dân gian, đã không được thấu hiểu (nó không được hiểu ở nhiều
điểm cho đến tận bây giờ). Tiếng cười ấy, không dung hòa với tiếng cười của nhà
trào phúng
(6)
, đã quyết định cái cốt yếu trong sáng tác của Gogol. Có thể nói bản tính
nội tâm đã khiến ông cười "như các thần linh", nhưng ông lại cho là cần thiết phải
thanh minh cho tiếng cười của mình bằng luân lý hạn hẹp của nhân gian trong thời
đại ông.
Tuy nhiên, tiếng cười ấy đã hoàn toàn lộ ra trong thi pháp của Gogol, trong bản
thân cấu tạo ngôn ngữ. Đời sống ngôn lời phi văn chương của nhân dân (những vỉa
tầng phi văn học của nó) đã tự do bước vào ngôn ngữ ấy. Gogol sử dụng những khu
vực ngôn ngữ không công bố. Các cuốn sổ ghi chép của ông đầy ắp những từ lạ tai, bí
ẩn, lưỡng trị về mặt ý nghĩa và phát âm. Ông thậm chí có ý định xuất bản cuốn Từ
điển tường giải tiếng Nga của mình, trong lời nói đầu cho cuốn sách ông khẳng định:
"Một cuốn từ điển như thế càng tỏ ra cần thiết với tôi hơn, bởi vì trong cuộc sống bắt
chước ngoại quốc của xã hội chúng ta, xa lạ đến thế với tinh thần của đất nước và
nhân dân, những ý nghĩa đích thực, trực tiếp của các từ Nga gốc đã bị bóp méo, một
số từ bị gán cho nghĩa khác, một số khác hoàn toàn bị lãng quên". Gogol cảm nhận
nhạy sắc sự thiết yếu của cuộc đấu tranh giữa ngôn lời tự nhiên của nhân dân với
những vỉa tầng ngoại diện, chết cứng của ngôn ngữ. Sự thiếu vắng một ngôn ngữ
thống nhất, có uy tín, không thể cưỡng lại, là đặc trưng đối với tâm thức Phục Hưng,
được ông hưởng ứng trong sáng tác bằng cách tạo ra những tương tác trào tiếu toàn
diện giữa các khu vực ngữ ngôn. Trong ngôn từ của ông chúng ta quan sát thấy sự
giải phóng thường xuyên các ngữ nghĩa bị cấm đoán hay đã bị lãng quên.
Những ý nghĩa bị lãng quên, bị mất đi trong quá khứ bắt đầu liên hệ với nhau,
thoát ra khỏi cái vỏ của mình, tìm được sự sử dụng và lắp ghép với các ý nghĩa khác.
Những quan hệ ngữ nghĩa, vốn chỉ tồn tại trong ngữ cảnh của những phát ngôn nhất
định, trong phạm vi những khu vực ngôn ngữ nhất định, gắn liền với những tình
huống sản sinh ra chúng, trong điều kiện ấy thu nhận được khả năng phục sinh, tham
gia vào cuộc sống mới. Bởi nếu không chúng sẽ mãi mãi không được nhận thấy và
dường như ngừng tồn tại; thông thường, chúng không được bảo tồn, không được
củng cố trong các bối cảnh ngữ nghĩa trừu tượng (được trau dồi trong ngôn ngữ viết
và in ấn), chúng dường như biến mất vĩnh viễn, sau khi vừa hình thành để diễn đạt
một trường hợp sống động không lặp lại nào đó. Trong ngôn ngữ được quy chuẩn
trừu tượng chúng không có bất cứ quyền gì để gia nhập hệ thống thế giới quan, bởi
đó không phải là hệ thống các ý nghĩa khái niệm, mà chính là cuộc sống đang lập
ngôn. Thường là diễn đạt của những tình huống phi nghiêm túc, phi sự vụ, phi văn
chương (khi mọi người cười cợt, hát hò, văng tục, ăn mừng, chè chén - nói chung là
khi người ta trượt ra khỏi nếp sống quy chuẩn), chúng không thể kỳ vọng được xuất
hiện trong ngôn ngữ nghiêm trang chính thống. Tuy nhiên, những tình huống và lối
nói đó không chết đi, mặc dù văn học có thể quên chúng hoặc thậm chí lẩn tránh
chúng.
Vì vậy việc trở về với ngôn lời dân gian sống động là thiết yếu, và nó được
thực hiện một cách thật dễ cảm nhận đối với mọi người trong sáng tác của những nhà
văn đã diễn đạt thiên tài tâm thức của nhân dân như Gogol. Ở đây đã gạt bỏ cái quan
niệm thô thiển thường tồn tại trong các giới chính thống về một sự vận chuyển nào đó
thẳng tuột về phía trước. Trở nên sáng rõ là bất kỳ một bước tiến thực sự hệ trọng nào
về phía trước cũng song hành với việc trở lại cái cội nguồn ("cái khởi thuỷ"), chính
xác hơn là làm mới cái cội nguồn. Chỉ có trí nhớ mới có thể tiến lên phía trước, chứ
không phải sự lãng quên. Trí nhớ trở về với cội nguồn và làm mới nó. Tất nhiên,
ngay bản thân những thuật ngữ "phía trước" và "phía sau" theo cách hiểu này cũng
mất đi tính tuyệt đối khép kín của chúng, đúng hơn là bằng sự tương tác của mình
chúng làm lộ ra cái bản chất nghịch lý sống động của chuyển động, đã được triết học
nghiên cứu và lý giải theo nhiều cách khác nhau (từ những triết gia ở Élée đến
Bergson). Trong trường hợp đời sống ngôn ngữ, sự trở lại như thế có nghĩa là sự khôi
phục cái trí nhớ hiện hành, được tích luỹ với đầy đủ dung tích ngữ nghĩa của nó. Một
trong những phương tiện khôi phục - làm mới đó chính là văn hoá trào tiếu dân gian,
biểu hiện thật rực rỡ trong sáng tác của Gogol.
Ngôn từ trào tiếu ở Gogol được tổ chức sao cho mục đích của nó không phải là
việc chỉ ra đơn giản các hiện tượng tiêu cực riêng lẻ, mà là khai mở một bình diện
đặc biệt của thế giới như một chỉnh thể.
Theo nghĩa đó khu vực cười ở Gogol đã trở thành khu vực kết nối. Ở đây cái
đối lập và cái không tương hợp được liên kết lại, và tồn tại như một liên hệ. Ngôn từ
kéo theo những ấn tượng toàn thể của kết nối - với các thể loại ngôn lời hầu như luôn
rất xa với văn chương. Một câu chuyện phiếm đơn thuần (của một quý bà) vang lên
trong ngữ cảnh này, trở thành một vấn đề ngôn ngữ, một điều có ý nghĩa, lộ ra từ
dưới lớp rác ngôn từ tưởng chừng như vô nghĩa.
Trong ngôn ngữ ấy đã diễn ra một sự bứt phá không ngừng khỏi các chuẩn mực
văn chương của thời đại, một quan hệ qua lại với các thực tại khác làm nổ tung cái bề
mặt chính thống, trực tiếp, "lịch sự" của ngôn từ. Quá trình ăn uống, các biểu hiện
khác nhau của đời sống vật chất-thân xác nói chung, một cái mũi có hình kỳ quặc nào
đó, một cái bướu, v.v – tất cả đều đòi hỏi ngôn từ để biểu đạt mình, những lối nói
và cách phối hợp mới nào đó, cuộc đấu tranh với sự cần thiết phải diễn đạt một cách
cẩn trọng, không đụng chạm đến các chuẩn mực. Đồng thời cũng rất rõ ràng là người
ta không thể không đụng chạm đến nó. Nảy sinh những vỡ tách, những biến chuyển ý
nghĩa từ cực này sang cực khác, sự cố gắng giữ cân bằng và đồng thời là sự bứt phá -
những cải biến hài hước ngôn từ khai mở bản chất đa chiều kích của nó và chỉ ra con
đường làm mới nó.
Phục vụ cho mục đích này là những điệu nhảy cuồng phóng, những nét thú vật
bộc lộ trong con người, v.v Gogol chú ý đặc biệt đến quỹ cử chỉ và ngôn từ chửi
bới, không xem nhẹ bất kỳ điểm đặc thù nào của ngôn ngữ dân gian trào tiếu. Cuộc
sống bên ngoài sắc phục và chức tước cuốn hút ông với sức mạnh phi thường, mặc dù
thời trai trẻ ông từng mơ ước tới chức tước và sắc phục. Quyền năng bị chà đạp của
tiếng cười tìm được ở ông người bênh vực và người diễn đạt, mặc dù suốt đời ông
luôn nghĩ về thứ văn học nghiêm trang, bi kịch và duy luân.
Như vậy, ta thấy sự va đập và tương tác giữa hai thế giới: một thế giới hoàn
toàn hợp pháp, chính thống, được hình thức hoá bằng các phẩm hàm và sắc phục,
biểu hiện nổi bật trong mơ ước về "cuộc sống kinh thành", và một thế giới trong
đó tất cả đều nực cười và không nghiêm túc, nơi chỉ có tiếng cười là nghiêm túc. Sự
lố bịch và phi lý mà thế giới ấy mang theo, hoá ra, ngược lại, lại là nhân tố bên trong
kết nối thực sự với thế giới khác, thế giới bên ngoài. Đó là sự phi lý vui nhộn của
những nguồn cội dân gian, có rất nhiều tương hợp ngôn ngữ được Gogol khắc ghi lại
một cách chính xác.
Vì vậy, thế giới của Gogol lúc nào cũng nằm trong vùng kết nối (cũng như bất
kỳ mô tả trào tiếu nào). Trong khu vực này tất cả các vật lại trở nên sờ mó được, đồ
ăn thức uống được trưng ra nhờ các phương tiện ngôn ngữ có khả năng gợi nên sự
thèm muốn, có thể có những mô tả phân tích cặn kẽ các động tác riêng biệt mà vẫn
không mất đi tính chỉnh thể. Tất cả trở nên rất thật, hiện thời, có mặt trong thực tại.
Một điểm đặc trưng là không có gì hệ trọng trong những gì Gogol muốn truyền
đạt lại được ông thể hiện ở khu vực hồi ức. Ví dụ, quá khứ của Chichikov được mô tả
ở vùng xa và trên một bình diện ngôn ngữ khác so với việc kiếm tìm "những linh hồn
chết" của y,- ở đây không có tiếng cười. Còn ở đâu thực sự bộc lộ tính cách, thì cái tố
chất cười kết nối, va đập, liên kết với mọi thứ xung quanh luôn thường xuyên hoạt
động.
Điều quan trọng là thế giới trào tiếu ấy luôn luôn mở cho những tương tác mới.
Cái khái niệm truyền thống quen thuộc về chỉnh thể và thành tố của chỉnh thể chỉ có
được ý nghĩa trong chỉnh thể, ở đây cần được xem xét lại và nghiên cứu sâu hơn. Vấn
đề là ở chỗ mỗi thành tố như thế đồng thời lại là đại diện cho một chỉnh thể nào đó
khác (ví dụ, của văn hoá dân gian), mà trong đó nó trước hết sẽ tìm ra ý nghĩa của
mình. Như vậy, tính chỉnh thể của thế giới của Gogol về mặt nguyên tắc không đóng
kín, không tự thoả mãn.
Chỉ có nhờ văn hoá dân gian cái tính đương thời nơi Gogol mới dự phần được
vào "thời đại lớn".
Nó đem đến chiều sâu và mối liên hệ cho các hình tượng tập thể được carnaval
hóa: đại lộ Nevski, giới quan chức, giới thư lại, các bộ, cục (phần đầu Chiếc áo
khoác, câu chửi: "Bộ của những trò đểu giả và nhảm nhí", v.v ). Chỉ trong nền văn
hóa ấy mới hiểu được những cuộc tử vong vui nhộn, những cái chết vui vẻ trong sáng
tác của Gogol – một Bulba sau khi bị mất cái tẩu, chủ nghĩa anh hùng vui nhộn, sự
biến thái của Akaki Akakievich lúc lâm chung (cơn mê sảng trước khi chết với những
lời chửi rủa và nổi loạn), những cuộc phiêu lưu của y sau khi lìa đời. Các tập thể
được carnaval hóa, về thực chất, được tiếng cười dân gian rút ra khỏi cuộc sống "thật
sự", "nghiêm túc", "xứng đáng". Không có điểm nhìn nghiêm túc đối lập với tiếng
cười. Tiếng cười là "nhân vật tích cực duy nhất".
Vì thế, chất nghịch dị ở Gogol không phải là sự phá vỡ đơn giản những chuẩn
mực, mà là sự phủ định tất cả các chuẩn mực trừu tượng, khô cứng có kỳ vọng trở
thành tuyệt đối và vĩnh cửu. Ông phủ định tính hiển nhiên và thế giới của cái "đương
nhiên" vì sự bất ngờ và không thể lường trước của sự thật. Dường như ông muốn nói
rằng cần chờ đợi cái thiện không phải từ những cái ổn định và quen thuộc, mà từ
"phép lạ". Ở đây ẩn chứa tư tưởng của nhân dân về sự đổi mới và sự khẳng định cuộc
sống.
Về mặt này việc trưng mua những linh hồn chết và những phản ứng khác nhau
trước đề nghị ấy của Chichikov cũng bộc lộ sự gần gũi với các quan niệm dân gian về
mối liên hệ giữa sự sống và cái chết, sự cười nhạo kiểu carnaval về chúng. Ở đây
cũng có yếu tố trò chơi carnaval với cái chết và ranh giới giữa sự sống và cái chết (ví
dụ, trong những lập luận của Sobakevich về việc ở những người sống có rất ít ích lợi,
nỗi sợ hãi của Korobochka trước những người chết và câu thành ngữ "chống hàng rào
bằng xác chết được chăng", v.v ). Trò chơi carnaval trong sự va đập giữa cái nhỏ
mọn và cái nghiêm túc, cái khủng khiếp; những quan niệm được bóp méo theo kiểu
carnaval về sự bất tận và vĩnh cửu (những cuộc kiện tụng bất tận, những điều vô lý
bất tận, v.v ). Cũng như thế cuộc du hành của Chichikov không bao giờ hoàn tất.
Trong viễn cảnh ấy chúng ta sẽ nhận thấy chính xác hơn những đối chiếu với
các hình tượng và chủ đề có thật của chế độ nông nô (việc mua bán người). Những
hình tượng và chủ đề ấy kết thúc cùng với sự cáo chung của chế độ nông nô. Còn
các hình tượng và tình huống chủ đề của Gogol thì bất tử, chúng sống trong thời đại
lớn. Một hiện tượng thuộc về thời đại nhỏ có thể mang tính phủ định thuần tuý, có
thể chỉ đáng ghét, nhưng trong thời đại lớn nó lại mang tính nhị chức năng và đáng
yêu như là một bộ phận của sinh tồn. Từ bình diện, nơi chỉ có thể hủy diệt chúng,
căm ghét chúng hoặc chấp nhận chúng, nơi chúng đã không còn nữa, tất cả những
Pliuskin, Sobakevich ấy và những người khác đã bước sang một bình diện khác, nơi
họ ở lại vĩnh viễn, nơi họ được thể hiện với toàn bộ sự can dự vào cuộc sinh tồn
luôn luôn biến đổi, nhưng không bao giờ mất đi.
Một nhà văn trào phúng khi cười thì không bao giờ vui vẻ. Bởi anh ta u sầu và
ảm đạm. Còn ở Gogol tiếng cười chiến thắng tất cả. Cụ thể ông đã làm nên theo cách
của mình một sự thanh tẩy cái tầm thường, ti tiện.
Vấn đề tiếng cười của Gogol chỉ có thể được đặt ra và giải quyết đúng đắn trên
cơ sở nghiên cứu nền văn hoá trào tiếu dân gian