Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

BỐI CẢNH QUỐC tế của BA bản HIỆP ĐỊNH TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN cứu n­ước (1945 1975) (GS vũ DƯƠNG NINH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.57 KB, 53 trang )

BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA BA BẢN HIỆP ĐỊNH
TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CỨU NƯỚC
(1945 - 1975)

GS. Vũ Dương Ninh



Cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta đã lập nên nhiều chiến công trên
các chiến trường trong cả nước. Trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thời kỳ
lịch sử hào hùng ấy cũng ghi nhận nhiều thành tựu, nhiều khúc quanh co,
được đánh dấu bằng ba bản hiệp định ký với đối phương: Hiệp định sơ bộ
năm 1946, Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và Hiệp định Pari năm 1973.
Trước nay, đã có nhiều cuốn sách, nhiều bài nghiên cứu viết về hoàn cảnh lịch
sử, nội dung và ý nghĩa của từng bản hiệp định. Chuyên đề này nhằm phân
tích việc ký kết các văn kiện đó từ một khía cạnh khác, nhìn từ bối cảnh quốc
tế để thấy rõ hơn những nhân tố bên ngoài tác động vào tiến trình đấu tranh
của nhân dân ta cũng như đối sách của Đảng và Nhà nước ta trước những
tình huống cực kỳ khó khăn. Hy vọng rằng chuyên đề này sẽ góp một phần
nhỏ vào việc nghiên cứu lịch sử hiện đại Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế.
I
BỐI CẢNH QUỐC TẾ DẪN TỚI VIỆC KÝ
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ VIỆT- PHÁP NĂM 1946
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là văn kiện đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ký kết với đại diện nước Cộng hòa Pháp.
Chỉ trong khoảng thời gian 10 tháng tính từ tháng 5.1945 khi phát xít Đức
đầu hàng đến tháng 3.1946 khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, tình hình thế
giới đã chuyển xoay không ngừng, có thể nêu lên vài nét chính sau đây.

1. Quan hệ quốc tế - từ đồng minh trở thành đối thủ


Ngay trước khi cuộc Thế chiến 2 kết thúc, các cường quốc Đồng minh đã có
nhiều cuộc gặp giữa ba vị nguyên thủ quốc gia Mỹ, Anh và Liên Xô ở Têhêran
(Iran 1943), Ianta (Liên Xô 2.1945), Pôtxđam (Đức 7.1945). Nội dung thảo
luận nhằm vào 2 vấn đề chủ yếu là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít và giải
quyết các vấn đề thời hậu chiến. Về các vấn đề sau chiến tranh, ngoài việc đề
ra biện pháp xử lý các nước bại trận và tổ chức Liên Hiệp Quốc thì thực chất
của mối quan tâm là sự phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các nước lớn,
thực chất là giữa hai khối TBCN và XHCN. Việc chia xẻ bản đồ thế giới phụ
thuộc vào sự dàn xếp giữa các thế lực quốc tế, tạo nên những vùng lãnh thổ
được hoạch định theo một trật tự thế giới mới đang hình thành, thường
được gọi là Trật tự Ianta.
Theo đó, châu Âu bị chia thành hai mảng: Tây Âu do Mỹ, Anh, Pháp chiếm
đóng, Đông Âu do Liên Xô quản lý. Nước Đức cũng bị chia thành hai miền
tương tự - Tây Đức và Đông Đức. Và ngay thành phố thủ đô Beclin cũng bị
phân đôi – Tây Beclin và Đông Beclin. Chính vì thế mà nơi đây được coi như
một điểm nóng rất gay cấn, rất dễ biến thành ngòi nổ cho một cuộc chiến
tranh mới.
Trong bối cảnh như vậy thì mối quan tâm của Nhà nước Xô viết sau chiến
tranh là tập trung khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề ở trong nước và
viện trợ xây dựng các quốc gia phía Đông châu Âu vừa được Hồng quân giải
phóng. Đông Âu là địa bàn chiến lược có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và
chủ quyền của Liên Xô, đồng thời là khu vực làm cho CNXH bước đầu trở
thành một hệ thống, điều mà trước đây chưa từng có.
Ở Châu Á - Thái Bình Dương, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, Mỹ
được quyền chiếm đóng Nhật Bản; bán đảo Triều Tiên bị chia đôi theo vĩ
tuyến 38: Liên Xô đóng ở phía Bắc, Mỹ đóng ở phía Nam; Việt Nam bị chia
theo vĩ tuyến 16: quân Trung Hoa ở phía Bắc, quân Anh ở phía Nam.

Như vậy có thể thấy việc phân vùng ảnh hưởng đã được hoạch định, bóng
dáng của Trật tự hai cực đã bắt đầu xuất hiện. Ngày 5.3.1946, thủ lĩnh đảng

Bảo thủ, nguyên là Thủ tướng Anh Sơcsin đi cùng Tổng thống Mỹ Truman đến
Phuntơn (bang Mitsuri – Hoa Kỳ) đọc bài diễn văn chống Liên Xô. Ông ta cho
rằng đã có một “bức màn sắt” buông xuống, nằm vắt ngang đại lục châu Âu,
từ bờ biển Bantich cho đến bờ biển Ađriatich mà phía sau đó là các quốc gia
Trung Âu và Đông Âu “tất cả họ đều nằm trong phạm vi thế lực của Liên Xô,
chịu sự khống chế nặng nề ngày càng tăng của Matxcơva”. Sơcsin kêu gọi:
“Điều mà nước Nga muốn là giành lấy những thành quả của chiến tranh và
bành trướng vô hạn độ về quyền lực và học thuyết của họ. Nhưng ở đây, ngay
hôm nay, khi còn có thời gian, chúng ta phải xem xét các biện pháp để ngăn
chặn cuộc chiến tranh luôn đe doạ, và thiết lập trong tất cả các nước một
cách nhanh chóng, với tất cả khả năng của mình những mầm mống của tự do
và dân chủ”[1]. Bài diễn văn này được coi như lời kêu gọi mở đầu cho “Chiến
tranh lạnh” mà một năm sau, nó được chính thức xuất hiện trong Học thuyết
Truman công bố ngày 12.3.1947 tại Quốc hội Hoa Kỳ. “Thế là một ván bài Go
(một lối chơi cờ của Nhật) đã bắt đầu diễn ra trên quy mô hành tinh, mỗi siêu
cường quốc đặt ra các quân cờ của mình tăng cường các vùng do nó chi phối,
đe doạ những vùng mà phía bên kia tỏ ra yếu kém, với những thời kỳ đặc biệt
căng thẳng khiến cho cả hai bên phải áp dụng những biện pháp để không đi
được quá xa”[2].
Mối quan hệ đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã nhanh
chóng tan rã để thay thế bằng quan hệ đối địch kéo dài và chi phối thế giới
suốt 45 năm (1946-1991). Như vậy, ngay sau khi tiếng súng Thế chiến kết
thúc, mọi sự việc trên chính trường thế giới đều diễn biến dưới tác dộng của
tư duy Chiến tranh lạnh, nhìn từ cả hai phía TBCN và XHCN. Thực ra, đây chỉ
là sự tiếp nối mối mâu thuẫn vốn có giữa hai hệ thống chính trị - xã hội, giữa
CNTB và CNXH từ khi ra đời nhà nước Xô viết năm 1917. Đến những năm 30,
quan hệ quốc tế chuyển động xoay quanh 3 đỉnh tam giác là Liên Xô - Khối
Đức, Ý, Nhật – Khối Anh, Pháp, Mỹ. Giữa 2 khối Liên Xô và Anh, Pháp, Mỹ bên
nào cũng muốn mượn tay lực lượng phát xít để đánh bại đối thủ rồi sau đó
mới tiêu diệt phát xít. Nhưng chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xít phát

động đã lần lượt khai chiến với cả hai đỉnh tam giác còn lại: tháng 9.1939
Đức mở mặt trận chống các nước Tây Âu, tháng 6.1941 Đức tấn công Liên Xô,
tháng 11.1941 Nhật tấn công Mỹ. Trong tình hình đó, hai đỉnh tam giác nói
trên phải liên kết với nhau, Đồng minh chống phát xít ra đời nhằm tập hợp
lực lượng chống lại khối Trục. Như vậy, khối Đồng minh được hình thành là
do tác động từ nhân tố bên ngoài, từ mối đe doạ của thế lực phát xít nên khi
nguy cơ này không còn nữa thì mâu thuẫn vốn có giữa hai chế độ xã hội, hai
hệ tư tưởng lại bộc lộ ở mức độ lan rộng hơn và sâu sắc hơn. Cũng có học giả
cho rằng Chiến tranh lạnh thực chất đã bắt đầu từ năm 1917 giữa nhà nước
Xô viết với thế giới TBCN[3]. Đương nhiên đó là cách nói để chỉ rõ tính liên
tục của mối mâu thuẫn cơ bản này, nó không hề biến mất khi loài người phải
đương đầu với cuộc chiến tranh phát xit.
2. Sự xuất hiện các quốc gia độc lập và thái độ của các cường quốc

Trong thời gian Thế chiến 2, phong trào giải phóng dân tộc đã có một bước
phát triển mạnh mẽ. Nhất là ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, cuộc đấu tranh
chống ách thống trị thực dân gắn kết với cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật
đã thu hút đông đảo quần chúng, tập hợp nhiều đảng phái chính trị tham gia
nhằm giải thoát khỏi tình trạng thuộc địa và phụ thuộc. Với những tên gọi
khác nhau, mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật đã ra đời ở Trung Quốc,
Hàn Quốc, Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai, Inđônêxia…đều nhằm mục đích
chung là giành độc lập, tự do. Bước đột phá là ngay sau khi Nhật Bản đầu
hàng (15.8.1945), ba nước Inđônêxia, Việt Nam và Lào đều lần lượt tuyên bố
độc lập vào các ngày 17.8, 2.9 và 12.10 năm đó. Có thể coi đây là những quốc
gia độc lập đầu tiên trên thế giới thoát khỏi hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc sau Thế chiến 2. Còn ở các nơi khác, mặc dầu phong trào đấu tranh
chống phát xít kết hợp với yêu sách độc lập khá sôi nổi nhưng các đế quốc lại
trở về làm chủ thuộc địa cũ của mình: Mỹ trở về Philippin; Anh trở về Ấn Độ,
Mã Lai, Mién Điện, Xingapo; Pháp trở về Campuchia …
Thực ra, ngay trong thời gian chiến tranh, việc giải quyết vấn đề thuộc địa đã

được đặt ra với nhiều quan điểm khác nhau. Tướng Mỹ Mac Actơ từng bỏ
chạy khi quân Nhật đổ bộ lên Philippin nay trở về lại được tôn vinh như
“Người giải phóng” cho quần đảo. Nước Anh – “đế quốc mặt trời không bao
giờ lặn” - coi việc khôi phục chế độ cai trị thực dân là điều đương nhiên. Trên
thực tế, họ đã làm được việc đó với sự chiếm lĩnh các thuộc địa cũ, trấn áp
các lực lượng yêu nước, đặc biệt là tìm cách tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đồng
thời lo ngại tác động của sự thành lập các quốc gia mới giành độc lập, chính
phủ Luân Đôn đã giúp các nước đế quốc tiến hành kế hoạch tái chiếm sau khi
phát xít Nhật quy hàng: quân Hà Lan trở về Inđônêxia, quân Pháp trở về
Đông Dương. Riêng đối với Pháp, năm 1944 Anh đã cho chính phủ Đơ Gôn đặt
một phái bộ quân sự trong Bộ chỉ huy mặt trận Đông Nam Á đóng ở Xâylan
và hứa hẹn sẽ giúp đỡ Pháp khi quân Anh vào Đông Dương giải giáp Nhật.
Tình hình nước Pháp khá phức tạp. Tháng 6.1940, quân Đức tấn công Pháp,
chính giới Pháp bị phân hoá thành 2 phái: một do Thống chế Pêtanh đứng
đầu chấp nhận sự chiếm đóng của Đức, di chuyển chính phủ từ Pari về Visi
(nên thường gọi là Chính phủ Visi); một do Tướng Đơ Gôn lãnh đạo đã lánh
nạn sang Anh, kêu gọi tiến hành kháng chiến chống phát xít. Sau đó, ông
thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp (ở Angiêri – 1943) có vai trò như
một chính phủ lâm thời, liên hệ với lực lượng bí mật trong nước để đấu tranh
chống Đức. Tình hình đó tác động tới Đông Dương: tướng Đơcu theo phái
Pêtanh được cử sang làm Toàn quyền thay thế Catơru, ông này khi trở về đến
Xingapo đã bay sang Luân Đôn gia nhập phe kháng chiến của Đơ Gôn. Vì
chính phủ Pêtanh đã đứng về phe Trục nên khi tấn công Việt Nam (Lạng Sơn -
9.1940), Nhật không loại bỏ bộ máy cai trị của Pháp như đã xoá sổ các chính
quyền thực dân Âu Mỹ ở các nước Đông Nam Á, mà vẫn duy trì chính phủ
Toàn quyền Đơcu cho đến tháng 3.1945. Đối với ngời Pháp, tướng Đơ Gôn là
hiện thân của tinh thần dân tộc đã tiến vào thủ đô Pari giải phóng tháng
6.1944. Nhưng về vấn đề thuộc địa, Đơ Gôn vẫn mang nặng tư tưởng thực
dân, vẫn đặt các dân tộc thuộc địa dưới ách thống trị của đế quốc Pháp. Ngay
từ tháng 12.1943, trong thông cáo của Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp về

vấn đè Đông Dương có đoạn viết:“Nước Pháp thoả thuận ban hành, trong nội
bộ khối cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới, theo đó, trong khuôn khổ
của tổ chức Liên bang (Đông Dương), những quyền tự do của các nước trong
Liên bang sẽ được nới rộng và khẳng định; tính chất tự do rộng rãi của các tổ
chức sẽ được nổi bật mà không hề mất đi dấu hiệu của nền văn minh và
truyền thống Đông Dương “[4] . Đằng sau những lời lẽ hoa mỹ đó lộ ra ý đồ
là sẽ nới rộng một số quyền tự do nhưng “nền văn minh và truyền thống“ của
chế độ cai trị Pháp ở Đông Dương là không hề thay đổi, “không hề mất đi“.
Âm mưu này được cụ thể hoá trong Tuyên bố Brazavin ngày 24.3.1945, vừa
đúng nửa tháng sau khi Nhật đảo chính Pháp, với một kế hoạch khá chi tiết.
Đó là sẽ thành lập chính phủ Liên bang Đông Dương bao gồm đại biểu các
quốc gia Đông Dương và đại biểu của những người Pháp cư trú ở Đông
Dương do một Toàn quyền Pháp đứng đầu, được hưởng một số quyền nội trị
và kinh tế, còn công việc đối ngoại thuộc về quyền hạn của chính phủ Liên
hiệp Pháp mà Liên bang Đông Dương là một thành viên. Như vậy âm mưu
thực dân sẽ tái chiếm Đông Dương và tái lập ách thống trị thực dân là điều
quá rõ ràng!
Thái độ của Mỹ phải được xem xét qua 2 giai đoạn tương ứng với 2 đời tổng
thống, từ Rudơven đến Truman. Trong một thông điệp đầu năm 1944, Tổng
thống Rudơven tuyên bố:“Hơn một năm qua tôi đã bày tỏ ý kiến rằng Đông
Dương không thể trả lại cho Pháp mà cần được thác quản quốc tế. Về vấn đề
này, tôi được Thống chế Tưởng Giới Thạch và Nguyên soái Xtalin hoàn toàn
ủng hộ…Nước Pháp đã vắt sữa Đông Dương 100 năm rồi. Người Đông
Dương có quyền được hưởng điều tốt đẹp hơn như thế“. Sau này, ông nhấn
mạnh với Bộ Ngoại giao Mỹ: Tôi muốn không có một người Pháp nào được
trở lại Đông Dương[5]. Chủ trương này có lợi cho sự hợp tác của những
người Mỹ ở Côn Minh với lực lượng Việt Minh trong các Khu giải phóng Việt
Bắc vào cuối 1944 - đầu 1945. Nhưng sau khi Rudơven qua đời (12.4.1945),
Phó Tổng thống Truman lên thay thì lập trường của Mỹ thay đổi. Nước Mỹ
giữ thái độ im lặng, thậm chí sau này đã giúp đỡ quân Pháp trở lại Đông

Dương.
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đương nhiên đồng
tình với Rudơven, không phải vì quyền tự do của người Đông Dương mà vì
giải pháp đó phù hợp với tham vọng của giới cầm quyền Trùng Khánh. Đông
Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã từ lâu nằm trong tầm nhìn của
các nhà nước Trung Hoa. Đây chính là thời cơ thuận lợi nhất để chính quyền
Tưởng thực hiện ý đồ của mình.
Còn Liên Xô vẫn tuyên bố nguyên tắc chung là ủng hộ quyền tự quyết của các
dân tộc nhưng vì không có lợi ích về vấn đề thuộc địa nên không có thái độ rõ
ràng ngoài lời kể của Rudơven là Xtalin đồng ý không nên để người Pháp
quay lại Đông Dương.
Nhưng nhìn chung trên bình diện quốc tế trong thời gian này, khả năng có
được lực lượng thực sự ủng hộ nền độc lập Việt Nam vẫn còn là điều xa vời,
chưa hiện thực.

3. Sự thoả hiệp giữa các cường quốc mở đường cho thực dân Pháp
quay lại Việt Nam

Ngày 19.8.1945, Tổng khởi nghĩa bùng nổ ở Hà Nội đã nhanh chóng lan rộng
trong cả nước. Ngày 2.9, cùng ngày với việc đại diện chính phủ quân phiệt
Nhật Bản ký Hiệp ước đầu hàng không điều kiện trên chiến hạm Mỹ Mitsuri ở
Vịnh Tokyo thì tại Hà Nội, lễ tuyên bố Độc lập được long trọng cử hành. Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Từ đây, Việt Nam giữ vị thế là quốc gia có chủ quyền trong quan hệ với
các nước ngoài và chính phủ Hồ Chí Minh là người đại diện hợp pháp duy
nhất của nhân dân Việt Nam.
Việc xuất hiện Nhà nước Việt Nam độc lập là một thực tế không thể phủ
nhận, song các thế lực đế quốc không muốn thừa nhận, ngược lại tìm mọi
cách để bóp chết nó. Do vậy, đã diễn ra nhiều sự thoả hiệp, nhân nhượng và
câu kết giữa các nước lớn để thực dân Pháp trở lại Việt Nam.

Trước tiên phải kể đến nước Anh là nước có nhiều thuộc địa ở Đông Nam Á.
Lo ngại ảnh hưởng cách mạng từ Việt Nam sẽ lan rộng sang các nước trong
khu vực, chính phủ Luân Đôn đã chấp thuận cho một trung đội lính Pháp
được trà trộn vào đơn vị số 136 của quân Anh tiến vào Nam bộ giải giáp
quân Nhật. Trung đội này sẽ bắt liên lạc với lính và dân thường Pháp còn tản
mát ở Việt Nam sau ngày Nhật đảo chính, cùng với đội quân lê dương được
cử sang để gây hấn ở Sài Gòn đêm 23.9.1945, mở đầu cuộc chiến tranh chống
thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Ngày 8.10 tại Luân Đôn, Anh và Pháp
ký Tạm ước về việc giao cho Pháp quyền quản lý hành chính và tư pháp ở
phía Nam vĩ tuyến 16. Hôm sau, thủ tướng Anh là Atli công khai tuyên bố
chính sách về Đông Dương gồm 3 điểm chính là chính phủ Anh sẽ yểm trợ
Pháp tái chiếm Việt Nam, công nhận chính quyền Pháp tại Sài Gòn và giao
quyền cai trị ở Nam vĩ tuyến 16 cho Pháp quản lý. Như vậy, sự câu kết Pháp
Anh đã khởi động trên thực tế cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Có thể nói người Mỹ là người nước ngoài đầu tiên đặt chân đến Hà Nội sau
ngày Tổng khởi nghĩa theo đoàn quân cách mạng từ chiến khu về. Thậm chí,
theo lời kể của thiếu tá A.Patti, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa đọc bản
thảo Tuyên ngôn Độc lập trước khi văn bản này được công bố ngày 2.9. Đó là
hệ quả của mối quan hệ thân hữu và hợp tác chống Nhật trong thời gian Thế
chiến. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, lập trường của chính phủ Mỹ đã thay
đổi. Ngày 22.8 tướng Đơ Gôn bay sang Oasinhtơn hội đàm với Tổng thống
Truman[6]. Đơ Gôn tuyên bố sẽ thiết lập một chế độ mới ở Đông Dương,
chính phủ gồm người bản xứ và kiều dân Pháp do đại diện chính phủ Pháp
đứng đầu và quân Pháp sẽ vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật. Kế hoạch
này không được Oasinhton hưởng ứng. Cuộc gặp lộ rõ quan hệ hai nước khi
đó chưa hẳn thuận lợi vì Đơ Gôn cảm thấy nước Pháp không được Mỹ đối xử
như một cường quốc hạng nhất, còn Truman thì nghi ngờ Pháp đang tìm
kiếm quan hệ với Liên Xô. Trong bức điện của Bộ ngoại giao Mỹ gửi Đại sứ
quán Mỹ tại Trùng Khánh có thông báo:“Mỹ không phản đối mà cũng không
ủng hộ việc thiết lập lại quyền cai trị của người Pháp ở Đông Dương“[7]. Do

vậy, chính phủ Oasinhtơn chỉ thị là “đại diện Mỹ ở Việt Nam phải tuyệt đối
trung lập“[8].Đây là một bước lùi so với kế hoạch quản thác Đông Dương của
Rudơven. Trong buổi tiếp bà Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tưởng Giới Thạch
ngày 30.8, khi được hỏi về vấn đề Đông Dương, Truman cũng thận trọng trả
lời là nước Mỹ chưa có quyết định gì cả[9] . Tuy vậy trong bối cảnh tình hình
quốc tế đang diễn ra quá trình phân hoá hai cực mà Liên Xô là đối thủ thì các
nước đế quốc tuy còn có điểm bất đồng nhưng đã xích lại và câu kết với nhau
để phòng ngừa Liên Xô. Thế là Hoa Kỳ “đã ký bản thoả thuận với nước Pháp
về việc cung cấp xe cộ và trang thiết bị cho quân Pháp ở Đông Dương. Điều
đó hầu như biểu lộ sự tán thành của nước Mỹ đối với việc tái chiếm của
Pháp“[10]. Và cùng ngày 22.8, nghĩa là chỉ 4 ngày sau Tổng khởi nghĩa ở Hà
Nội, máy bay Mỹ chở thiếu tá Patty từ Côn Minh về Gia Lâm đã cho nhân viên
tình báo Pháp là Xanhtơny (sau trở thành đại diện của Pháp với chức danh
Uỷ viên Cộng hoà) đi cùng, lén lút vào Hà Nội trong khi trước đó, một nhân
vật khác là Metxme bí mật nhảy dù xuống vùng Hải Phòng bị rơi vào tay du
kích. Thật nực cười khi Xanhtơny sau này thổ lộ :“Trong khi máy bay lướt
thấp trên vùng trời, chúng tôi nhìn thấy những chùm hoa lạ màu đỏ nở rộ rất
nhanh trong thành phố như để đón chào chúng tôi. Máy bay hạ xuống thấp
hơn nữa, lúc đó chúng tôi mới phân biệt được đó là những lá cờ đỏ sao vàng.
Chúng tôi nhìn nhau, kinh ngạc, hiểu rằng đây không phải là sự đón tiếp mà
chúng tôi hy vọng từ đáy lòng”[11].
Thực ra, ngay trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, ngày 11.8 Bộ
Ngoại giao Pháp đã gửi thư cho các cường quốc Mỹ, Anh, Trung Hoa và Liên
Xô đề nghị được có đại diện trong Uỷ ban đình chiến của Đồng minh, có đại
diện quân sự bên cạnh các tư lệnh Đồng minh và được quyền tước khí giới
quân Nhật tại Đông Dương. Đề nghị này không được chấp thuận, Pháp lo
ngại việc một số nhân vật cao cấp ở Mỹ muốn giúp Trung Hoa chiếm đoạt
Đông Dương khỏi tay Pháp. Ngày 14.8 Đại sứ Pháp tại Trùng Khánh Pechkôp
xin cử 5000 lính Pháp tham gia giải giáp quân Nhật, ba hôm sau được trả lời
“sẵn sàng cho 5000 lính Pháp trở lại Đông Dương nhưng phải đặt dưới quyền

chỉ huy của tướng lĩnh và sĩ quan Quốc dân đảng Trung Hoa“. Quả là liều
thuốc khó nuốt nên ngày 28.8 Đại sứ Pháp tại Oasinhtơn đưa ra đề nghị để
người Anh tước vũ khí quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương; hoặc là tướng
lãnh Nhật ở phía Bắc làm lễ đầu hàng tại một địa điểm trên lãnh thổ Trung
Hoa, còn ở miền Nam thì Pháp tiếp nhận lễ đầu hàng dưới danh nghĩa của
Anh (!). Ngày 30.8 Ngoại trưởng Mỹ trả lời là không thể đi ngược lại Tuyên
bố Pôtxđam nhưng Pháp có thể dàn xếp với Anh. Cùng hôm đó, Đại sứ Mỹ tại
Trùng Khánh nhận được thông báo từ Bộ ngoại giao Mỹ là Mỹ hoàn toàn
đồng ý nếu Pháp và Trung Quốc có thể đi đến thoả hiệp. Những sự kiện trên
cho thấy Mỹ có thái độ lập lờ, đẩy “quả bóng“ vào chân Anh và Trung Hoa,
nhưng trên thực tế đã để ngỏ cửa cho Pháp trở lại Đông Dương. Ngày 28.10,
Tổng thống Truman đọc diễn văn về chính sách ngoại giao của Mỹ. Trong đó
nhắc đến vấn đề Đông Dương với những lời lẽ chung chung về quyền tự quyết
dân tộc và quyền bình đẳng như đã ghi trong Hiến chương Đại Tây Dương và
Hiến chương Cựu Kim Sơn.
Chính phủ Pháp rất lo ngại về ý đồ của Trung Hoa Quốc dân đảng đối với
Đông Dương. Để làm yên lòng Pháp, Thủ tướng chính phủ Trùng Khánh Tống
Tử Văn đã cam kết với Đơ Gôn trong buổi gặp tại Pari ngày 19.9 rằng Trung
Hoa không có tham vọng lãnh thổ ở Đông Dương và nếu có thể thì sẵn sàng
yểm trợ Pháp trở lại Đông Dương[12]. Ngày 10.10, trong buổi tiếp Cao uỷ
Pháp tại Đông Dương Đacgiăngliơ ở Trùng Khánh, Tống Tử Văn cũng nhắc
lại lời cam kết này. Nội dung trên còn được Tưởng Giới Thạch tuyên bố và
được Tướng Lư Hán nhắc lại trong buổi lễ ra mắt tại Hà Nội. Bài toán của
giới cầm quyền Trung Hoa ban đầu là sử dụng đám tay chân Việt Quốc và
Việt Cách để nắm quyền lực mà không công khai chiếm đóng Việt Nam.
Nhưng tình hình ở Trung Quốc biến chuyển rất khẩn trương. Sau khi cuộc
Thế chiến kết thúc, Mặt trận dân tộc thống nhất kháng Nhật nhanh chóng tan
vỡ. Nguy cơ cuộc nội chiến giữa lực lượng của đảng Quốc dân và đảng Cộng
sản ngày càng đến gần (chính thức bùng nổ ngày 16.6.1946). Chính phủ
Tưởng ráo riết chuẩn bị để đối phó với đảng Cộng sản nên muốn dồn lực

lượng vào cuộc đấu tranh này, sẵn sàng thoả hiệp với Pháp trong vấn đề
Đông Dương. Mặt khác Trung Hoa muốn đòi lại những quyền lợi trước đây
đã phải nhường cho Pháp theo những hiệp ước của nhà Thanh ký hồi 1900-
1903. Sau một quá trình thương thuyết từ tháng 10.1945 tại Trùng Khánh,
ngày 28.2.1946 hiệp ước Pháp Hoa được ký kết giữa Ngoại trưởng Vương
Thế Kiệt và Đại sứ Pháp Giăccơ Mâyriê. Có thể tóm tắt trong 3 điểm chính sau
đây: 1. Pháp trao trả Trung Hoa các tô giới và vùng ảnh hưởng ở Thượng
Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông (kể cả Quảng Châu Loan); cắt trả lại
Trung Hoa phần đường sắt Hải Phòng – Vân Nam chạy qua lãnh thổ Trung
Hoa (từ Hà Khẩu đến Côn Minh), hàng hoá Trung Hoa nhập hoặc xuất qua
cảng Hải Phòng được miễn thuế; 2. Pháp đưa quân vào phía Bắc Việt Nam
thay quân Trung Hoa sẽ rút khỏi Việt Nam từ ngày 15.3 đến 31.3 (trên thực
tế đến tháng 10 mới rút hết). Pháp ứng trước số tiền trả cho việc chuyển
quân Trung Hoa mỗi tháng 60 triệu đồng tiền Đông Dương (tổng cộng là 7
tháng tính từ 1.9.1945 đến 31.3.1946); 3. Trung Hoa sẽ vũ trang cho 5000
thường dân Pháp đang ở Hà Nội (văn kiện về việc này được ký bí mật, không
công bố)[13]. Như vậy là quan hệ Pháp Hoa đã được giải quyết không tính gì
đến lợi ích của nhân dân Đông Dương. Nhưng sự tồn tại của chính phủ Hồ Chí
Minh được quần chúng ủng hộ là một thực tế buộc Pháp phải tiến hành
thương lượng nếu muốn thực hiện Hiệp ước Trùng Khánh, đặt chân lên miền
Bắc nước ta.
Còn lại một vấn đề bấy lâu bỏ ngỏ chưa có đủ tài liệu minh chứng. Đó là câu
hỏi về thái độ của Liên Xô đối với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Trong khi có thể tìm thấy những bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi Tổng thống Mỹ thì quá hiếm hoi những tài liệu nói lên quan hệ Việt Nam -
Liên Xô hồi đó. Trong thư gửi Đại Nguyên soái Xtalin ngày 22.9, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết:“Chúng tôi thông báo cho quý Ngài biết rằng Chính phủ lâm
thời của Cộng hoà Việt Nam đã được thành lập dưới sự chủ trì của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Hoàng đế Bảo Đại đã thoái vị ngày 25.8 và chuyển giao chính
quyền cho Chính phủ mới được toàn dân tộc ủng hộ“[14]. Sau đó, còn có bức

công hàm chính thức gửi chính phủ Liên Xô ngày 21.10.1945 và điện văn gửi
Xtalin và ngoại trưởng Grômicô ngày 14.1.1946. Cùng thời gian đó, Đại sử
Liên xô tại Pari là A.E. Bôgômôlôp gửi về Matxcơva nhiều báo cáo về tình
hình Đông Dương. Cũng lưu ý rằng trong phái bộ các nước Đồng minh đến
Hà Nội có cả phái bộ Liên Xô do đại tá Xtêphan Xôlôiep đại diện[15] thì không
thể không có báo cáo gửi về Matxcơva. Và từ cuối tháng 10.1946 đến đầu
tháng 3.1947 (nghĩa là khi chiến tranh đã xảy ra ở Nam Bộ và bùng nổ trong
cả nước) có một phái đoàn quân sự Xô viết đến Sài Gòn (sau còn đi Nha
Trang, Đà Lạt và Phnom Penh) để hồi hương những người có quốc tịch Nga
đã tham gia quân đội viễn chinh Pháp. Hơn thế nữa, trong thời gian ở thăm
nước Pháp, ngày 21.7.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc gặp một số
chuyên gia quân sự Xô viết và Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên xô – nhà
văn I. Êrenbua. Do vậy, lý do biện minh là vì Việt Nam quá xa, Liên Xô không
nắm được tình hình là điều rất không thoả đáng.
Xét bối cảnh quốc tế hồi đó, có thể giải mã bằng mấy lý do sau đây: 1) Mối
quan tâm hàng đầu liên quan đến an ninh của Liên Xô là những biến động ở
Tây Âu mà điểm nóng là nước Đức và thành phố Beclin. Nói đến Viễn Đông thì
tầm nhìn của Matxcơva cũng chỉ tới vùng Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc)
và bán đảo Triều Tiên mà không quan tâm đến vùng Đông Nam Á. 2) Sự can
thiệp của Liên Xô vào vấn đề thuộc địa của Anh và Pháp có thể gây ra xung
đột với lợi ích của 2 nước đó mà không đáp ứng lợi ích tối cao của Liên Xô
trong lúc này. Nhất là “Hiệp ước liên minh và tương trợ „ giữa Chính phủ
Liên Xô và Chính phủ lâm thời Pháp ký tại Maxcơva ngày 10.12.1944 càng
xác định thái độ của Liên Xô không can thiệp vào vấn đề thuộc địa của các
nước đế quốc, cũng có nghĩa là thờ ơ đối với phong trào giải phóng dân tộc.
3) Tin tức về chính phủ Hồ Chí Minh có thể gợi lên trong giới lãnh đạo Kremli
mối nghi ngại từ những năm 1930 về lập trường cộng sản hay lập trường
quốc gia của Đảng Cộng sản Đông Dương nên họ có ý chờ xem. Việc tuyên bố
giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 11.1945) càng làm tăng điều băn
khoăn này.

Theo tài liệu lưu trữ mới công bố sau khi nhà nước Liên Xô tan rã thì Bộ
ngoại giao Liên Xô hồi đó đã tiếp nhận những văn kiện của chính phủ Hồ Chí
Minh năm 1945-1946 “một cách dè dặt„ chủ trương “không trả lời„ và “đưa
vào lưu trữ „.
Dù cho vì lý do gì chăng nữa thì sự im lặng của Matxcơva cũng có lợi cho việc
Pháp rộng tay trở lại xâm lược Việt Nam.

4. Hiệp định sơ bộ – giải pháp sách lược “Hoà để tiến”

Có thể đánh giá chung rằng bối cảnh quốc tế đầu năm 1946 rất bất lợi đối với
cách mạng Việt Nam. Và tình hình trong nước cũng hết sức khó khăn do
những di sản của thời kỳ thuộc địa (giặc đói, giặc dốt), là hệ quả khó tránh
của một chính quyền dân chủ mới xây dựng và đặc biệt hiểm nguy là sự phá
hoại của các tổ chức phản động tay sai nước ngoài. Song sức mạnh của cách
mạng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước và quật khởi của quần chúng nhân
dân, từ niềm tin tuyệt đối vào Chính phủ Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng niềm tin vốn là yếu tố
tinh thần, khi được khơi dậy, được động viên vì mục tiêu cao cả Độc lập – Tự
do thì niềm tin ấy biến thành sức mạnh vật chất của hàng triệu đồng bào
đứng lên bảo vệ non sông. Chính dựa vào sức mạnh tinh thần và vật chất của
nhân dân mà Đảng đã chèo lái con thuyền Tổ quốc vượt qua sóng ghềnh đầy
thử thách.
Tình hình cuối 1945 - đầu 1946 thực ra đối với Đảng ta không phải hoàn toàn
bất ngờ mà đã được dự tính trước. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc ở Tân Trào
(13-15.8.1945), chính sách đối ngoại đă đề ra đối sách thích hợp, có thể tóm
tắt như sau: 1). Lợi dung mâu thuẫn trong nội bộ Đồng minh (Mỹ Tưởng với
Anh Pháp) nhưng đề phòng tình huống vì mâu thuẫn với Liên Xô mà các nước
trên đứng về một phía, nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương; 2). Hết
sức tránh trường hợp ta phải đối phó cùng một lúc với nhiều lực lượng Đồng
minh tràn vào nước ta và dựng chính phủ tay sai của họ, tranh thủ sự đồng

tình của Mỹ và Liên Xô; 3). Khẳng định rằng chỉ có thực lực của ta mới quyết
định thắng lợi cho ta; 4). Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các
nước nhược tiểu, nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc[16].
Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng nh dự đoán. Các nước đề quốc đã thoả hiệp để
ngỏ cửa cho Pháp trở lại Đông Dương. Trớ trêu là ở chỗ Liên Xô, vì lợi ích
quốc gia, đã giữ thái độ im lặng trước một dân tộc đang chiến đấu dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Song có 2 điều cơ bản trong sự chỉ đạo làm cho
đất nước thoát khỏi hiểm nguy. Đó là tránh tình huống cùng một lúc phải đối
phó với nhiều đối thủ và khẳng định sức mạnh của ta mới quyết định thắng
lợi cho ta. Chính dựa trên cơ sở đó, ngày 6.3 Hiệp định sơ bộ được ký kết
nhằm chọn một đối thủ duy nhất là thực dân Pháp và tạo thời cơ để toàn dân
tích cực chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. Những nhân nhượng sách lược
trong Hiệp định chính là bước tạm hoà để tiến lên đánh thắng kẻ thù: “Chúng
ta hoà với nước Pháp để dành thời gian, bảo toàn thực lực, giữ vững lập
trường càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”[17].
II
BỐI CẢNH QUỐC TẾ NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 50
DẪN TỚI HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VỀ ĐÔNG DƯƠNG

1. Cuộc kháng chiến trong thế trận hình thành Trật tự hai cực

Trong 5 năm đầu của nền Cộng hòa Dân chủ, nhân dân Việt Nam tiến hành
cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập mới giành được trong tình thế hầu như
bị tách biệt với bên ngoài. Chưa có một quốc gia nào công nhận nước Việt
Nam độc lập, không có một nguồn viện trợ quốc tế nào giúp đỡ. Nhưng vì lời
nguyện thiêng liêng “quyết hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô
lệ”, quân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện một cách
kiên cường và tự lực.
Từ cuối thập niên 40 của thế kỷ XX, bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi. Khi
đó, hình thái hai phe của cuộc chiến tranh lạnh đã hiện lên rõ nét. Ở châu Âu,

sự phân chia Đông Âu XHCN và Tây Âu TBCN đã xuất hiện một “điểm nhấn”
quan trọng với sự thành lập 2 nhà nước Đức (CHDC Đức và CHLB Đức) vào
năm 1949. Và ở châu Á, sự hình thành 2 nhà nước trên bán đảo Triều Tiên
(CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc) càng khơi sâu vết hằn của một
thế giới đối đầu. Đặc biệt, sự thành lập CHND Trung Hoa năm 1949 do Đảng
Cộng sản lãnh đạo đã xoay chuyển tình hình thế giới, làm cho uư thế của
CNXH trở nên nổi trội, một cục diện mới xuất hiện ở miền Đông Á.
Khi đó, ở khu vực này đang diễn ra 3 cuộc chiến tranh: 1. Cuộc chiến tranh
Đông Dương chống thực dân Pháp âm mưu quay lại tái lập chế độ thuộc địa;
2. Đoạn kết của cuộc nội chiến ở Trung Quốc do Giải phóng quân tiến hành
nhằm quét sạch tàn quân Quốc dân đảng; 3. Cuộc chiến tranh mới bùng nổ
trên bán đảo Triều Tiên giữa hai miền đất nước.
Cuộc chiến trên Đại lục Trung Hoa tạm kết thúc khi Nhà nước Cộng hòa Nhân
dân tính toán khôn ngoan đã dừng chân bên bờ biển phía Đông, để lại Hồng
Kông trong tay Anh, Ma Cao trong tay Bồ và Đài Loan cho chính quyền bại
trận Quốc Dân đảng.
Đỉnh điểm của tình hình căng thẳng ở phương Đông bộc lộ khi cuộc chiến
tranh Triều Tiên bị “quốc tế hóa”. Mỹ nhảy vào chiến trường dưới danh nghĩa
đội quân Liên Hiệp Quốc cùng 13 nước đồng minh cứu nguy cho Hàn Quốc.
Các đơn vị Chí nguyện quân Trung Quốc trực tiếp tham chiến, viện trợ cho
Triều Tiên. Do vậy, cuộc chiến tranh đã vượt khỏi giới hạn nội bộ hai miền vì
mục tiêu thống nhất đất nước mà bán đảo này bị biến thành bãi chiến trường
đọ sức trực tiếp giữa 2 lực lượng Trung Quốc và Mỹ, đằng sau đó là sự ủng hộ
của các nước thuộc hai phe: Liên Xô cùng các nước XHCN một bên và Anh,
Pháp cùng các nước TBCN một bên. Nơi đây trở thành điểm nóng của cuộc
chiến tranh lạnh giữa hai nửa của “Trật tự Yalta” mà mỗi bên đều muốn
giành phần thắng.
Đến lúc này, cuộc chiến tranh Việt Nam đã vượt qua được chặng đường 5
năm đầy gian khổ nhưng không lùi bước: “5 năm chiến đấu đầu tiên giữ một
vị trí đặc biệt trong chiến tranh giải phóng và giữ nước hiện đại của Việt

Nam”, “là tiền đề và cơ sở đầu tiên của thắng lơị vĩ đại ấy”[18]. Thế “chiến
đấu trong vòng vây” của quân dân Việt Nam dần dần được tháo gỡ với việc
thiết lập quan hệ ngoai giao cùng các nước XHCN vào tháng 1.1950. Những
tín hiệu sa lầy của đội quân Pháp xâm lược ngày càng nổi rõ: “Tình hình cuộc
chiến tranh Việt Nam càng ngày càng tồi tệ đã nói lên rất rõ những thất bại
về chính trị của chúng ta (Pháp) trong suốt bốn năm đó”[19]. Chiến dịch thu -
đông năm 1950 đã nhổ những đồn bốt của quân Pháp trên vùng biên giới
Lạng Sơn - Cao Bằng, giáng một đòn quyết định vào cục diện chiến tranh. Đối
với địch, “đến tháng mười một thì cuộc chiến tranh Đông Dương đã chuyển
thành một cuộc tháo lui nhục nhã. Đó là sự bối rối không thể nào chịu được
đối với người Pháp kiêu hãnh và làm dấy lên những hoài nghi nghiêm trọng
ở Pháp cũng như ở Mỹ về việc quân đội Pháp có thể giành được thắng lợi
quân sự như mong muốn”[20]. Thế là đã đến lúc người Mỹ phải vào cuộc:
“Đứng trước khả năng Pháp có thể thất bại, đồng thời lúc đó cộng sản đã
thắng lợi ở Trung Quốc, nên vào đầu năm 1950 Mỹ quyết định hỗ trợ cho
Pháp ở Đông Dương, bước đầu trực tiếp dính líu vào Việt Nam”[21]. Việc Mỹ
cứu giúp Pháp nằm trong một tính toán rộng lớn của chiến lược toàn cầu. Đó
là sự ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc đang lan rộng ở vùng
Viễn Đông cũng như lo ngại ảnh hưởng của Việt Nam sẽ lôi cuốn các nước
Đông Nam Á vào trào lưu cách mạng, tuyến phòng thủ từ xa của Mỹ nối từ
Nhật Bản đến Ôxtrâylia sẽ bị suy yếu. Nguồn nguyên liệu phong phú và có
tính chiến lược của khu vực này cũng là điều quan tâm của giới cầm quyền
Oasingtơn. Hơn nữa, nếu Pháp đổ tiền của vào cuộc chiến tranh xa xôi này thì
Pháp sẽ chậm hồi phục nền kinh tế, do vậy sẽ gặp rắc rối trong sự ổn định
chính trị trong nước và giảm sự đóng góp vào việc tăng cường lực lợng của
khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) mà đó mới là điều quan tâm hàng đầu của
Mỹ. Vì những lý do trên, các quan chức Mỹ nhất trí nhận định rằng “Đông
Dương và đặc biệt Việt Nam là then chốt trong việc bảo vệ Đông Nam Á”[22].
Tuy vậy, khác với bán đảo Triều Tiên, trên chiến trường Việt Nam chỉ có quân
dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp mà đứng về phía Việt Nam

không có mặt lực lượng quân đội của nước nào khác ngoài một số cố vấn
Trung Quốc. Bản chất của cuộc kháng chiến trước sau vẫn là cuộc chiến đấu
bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền Dân chủ Cộng hòa. Song
trong bối cảnh quốc tế phân hóa hai phe thì chiến trường Việt Nam cũng
không tránh khỏi trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa hai hệ thống xã
hội. Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam; Mỹ, Anh viện
trợ cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Cuộc chiến tranh giải phóng của
nhân dân ta chẳng những gắn kết với phong trào đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa mà còn mang sắc thái của cuộc đấu tranh vì thắng lợi của CNXH.
Nói cách khác, nó đi vào quỹ đạo của cuộc đấu tranh giữa 2 hệ tư tưởng, 2
chế độ chính trị ngày càng lan tỏa khắp hành tinh. Frăngxoa Gioayô nhận xét:
“Bộ chỉ huy Pháp không chỉ đối phó với một cuộc nổi dậy có tính dân tộc mà
là chống đối một sự nghiệp, không phải không có lý do để có thể xem như một
trong những biểu hiện của cuộc chạm trán Đông - Tây trong khung cảnh
chiến tranh lạnh”[23]. Cho nên, những biến động trên chiến trường Việt Nam
không thể không chịu tác động của tình hình thế giới và ngược lại, chiến cuộc
ở Việt Nam cũng có ảnh hưởng đến tình hình chung của khu vực và thế giới.
2. Chiến cuộc Điện Biên Phủ trong toan tính của các nước đế quốc và
phản ứng của nhân dân Pháp
Tháng 1 năm 1950, chuyến công tác ra nước ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã mở cánh cửa ngoại giao với thế giới, đạt được sự công nhận chính thức
của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, của Liên bang Xô viết và các nước XHCN
đối với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi ngoại giao đã chấm
dứt 5 năm chiến đấu đơn độc, hầu như bị cách ly với bên ngoài và từ đó tiếp
nhận sự đồng tình về chính trị và sự viện trợ về vật chất của các nước
XHCN[24] .
Vội vã ứng phó với sự kiện trên, tháng 2 năm 1950, Mỹ, Anh và một số nước
khác lên tiếng công nhận chính phủ bù nhìn Bảo Đại, được mang danh là
“Quốc gia liên kết” của Pháp. Kèm theo đó là sự thành lập phái đoàn cố vấn
quân sự Mỹ MAAG ((8.1950) và khoản viện trợ tiền tài, vũ khí đầu tiên của Mỹ

với hy vọng giúp Pháp đủ sức kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh Đông
Dương. Nước Mỹ đã từ lập trường không can thiệp trước đây chuyển sang
can thiệp thông qua viện trợ về quân sự và kinh tế ở Đông Dương. Như thế là
đến năm 1950, “Hoa Kỳ đã dính líu vào chính sách kiềm chế tích cực ở châu Á
cũng như ở châu Âu, ở Thái Bình Dương cũng như Đại Tây Dương” [25].
Nhưng sau 3 - 4 năm theo đuổi cuộc chiến với những viên tướng nổi danh
như Đơlat đơ Tatxinhi, Hăngri Nava và khoản viện trợ của Mỹ từ 40% năm
1952 tăng lên đến 72% năm 1954 tổn phí chiến tranh ở Đông Dương, khoảng
hơn 2,2 tỷ USD[26], thực dân Pháp vẫn không xoay chuyển được tình thế.
Ván bài cuối cùng nhằm tạo nên thế mạnh đặt vào chiến cuộc Điện Biên Phủ
hòng “nghiền nát Việt Minh” trong cái lòng chảo dày đặc cứ điểm.
Cũng từ đầu những năm 50, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ hai (2/1951) nhiệm vụ chính của cuộc
kháng chiến khi đó là: “Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp
Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới”[27]. Như
vậy, “bọn can thiệp Mỹ” đã trở thành một đối thủ trên chiến trường Việt Nam.
Vậy chiến trận Điện Biên Phủ được tính toán trên bàn cờ quốc tế như thế
nào? Về phía đối phương, đây là một bài toán nhằm 2 mục đích. Cả Pháp và
Mỹ đều muốn đánh một đòn quyết liệt để giành phần thắng cuối cùng. Nếu
đạt được mục đích này thì chẳng những đánh bại lực lượng kháng chiến Việt
Nam mà còn ngăn chặn sự lan tràn của ‘làn sóng cộng sản” ở vùng Đông Nam
Á và nhờ đó nâng cao uy thế của các cường quốc tư bản. Nhưng tình hình
thực tế chiến trường không diễn biến theo chiều hướng đó. Kế hoạch 15
tháng của tướng Đơ Lat bị đổ vỡ thảm hại; tiếp theo, kế hoạch 18 tháng của
tướng Nava hứa hẹn niềm hy vọng mới “sẽ đánh tan tổ chức cộng sản vào
cuối năm 1955” (lời F. Đalet, sau này trở thành ngoại trưởng Mỹ) cuối cùng
cũng phá sản. Mỹ ráo riết tăng cường viện trợ cho Pháp về các phương tiện
chiến tranh, tài chính và cố vấn quân sự. Nhưng thực ra, chính giới Mỹ cũng
còn nhiều tính toán. Mỹ không dám đưa quân tham chiến trực tiếp ở Đông
Dương, không muốn lặp lại “một Triều Tiên thứ hai” mà sau 3 năm đổ quân,

đổ của vào bán đảo này, Mỹ không giành được phần thắng, phải kết thúc
bằng sự thỏa thuận trở lại vĩ tuyến 38 nh buổi ban đầu. Mỹ cũng lo ngại việc
đụng đầu trực tiếp với Trung Quốc nếu quân đội nước này tham gia cuộc
chiến Đông Dương. Nhiều lần, giới cầm quyền Nhà trắng và Lầu Năm góc
nhấn mạnh “dù tình hình có diễn biến đến mức nào thì Mỹ cũng không thể
đưa lực lượng quân sự vào Đông Dương”, “không thể đa lực lượng mặt đất
vào Đông Dương”[28]. Nhưng với vai trò “ông chủ” chi tiền, Mỹ muốn nhúng
sâu vào kế hoạch tác chiến và trực tiếp nắm lực lượng bù nhìn nên ép Pháp
phải nới rộng cái gọi là “quyền độc lập” mà Pháp đã ký cho “Quốc gia Việt
Nam” của Bảo Đại[29]. Điều này là một trong những nguyên cớ làm cho Pháp
khó chịu bởi vì Pháp muốn nhận viện trợ của Mỹ nhưng không để Mỹ can dự
sâu vào công việc ở Đông Dương, nhất là việc nắm lực lượng “bản xứ”. Tuy
thế, do chiến cuộc ngày càng diễn biến xấu, Pháp phải từng bớc nhượng bộ
Mỹ, thay dần các chính khách bù nhìn để rồi sau thất bại ở Điện Biên Phủ
phải chấp nhận Ngô Đình Diệm, con bài nuôi dưỡng của Mỹ, làm thủ tướng
(6.1954) thay các phần tử thân Pháp.
Một câu hỏi lớn đặt ra đối với phe Mỹ là liệu Trung Quốc có đưa quân sang
trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Việt Nam không, nếu có thì sẽ phải đối
phó như thế nào?
Ngay từ tháng 1.1951, trong cuộc họp giữa đại diện ba nước Mỹ, Anh, Pháp ở
Oasinhtơn, Pháp đã đề nghị “cần làm một cái gì đó để Trung Quốc hiểu rằng
một cuộc xâm lược vào Đông Dương sẽ gây nên một cuộc trả đũa tập thể”.
Còn Mỹ thì đề nghị đưa ra một “lời cảnh cáo tập thể đối với Bắc Kinh” để tỏ rõ
sự đoàn kết giữa ba nước, song Anh lại lo ngại Trung Quốc sẽ coi đó như một
sự khiêu khích.
Đến năm 1952, Pháp đưa ra ý kiến về một tuyên bố của ba nước khẳng định
sự giúp đỡ đối với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á chống lại “sự đe dọa
bên ngoài và bên trong”, và hứa giúp các nước này xây dựng lại nền kinh tế.
Về lâu dài sẽ tiến đến một hiệp ước tương trợ giữa các cường quốc với các
nước Đông Nam Á, song trước mắt nên ra một văn bản gọi là “Hiến chương

Thái Bình Dương”, lôi cuốn thêm 2 nước tham gia là Ôxtraylia và Niu Dilân.
Mỹ và Anh tuy tán thành song có những đắn đo, tính toán riêng nên ý kiến đó
chưa biến thành hiện thực. Trong khi đó, đối với Pháp thì tình hình chiến
trường ngày càng trở nên ruỗng nát và dư luận trong nước đã quá mệt mỏi
với cuộc chiến tranh này. Pháp phải yêu cầu Oasinhtơn tăng cường viện trợ
quân sự, nhất là máy bay và phi công.
Ngày 13.3.1954, cuộc tiến công của quân đội nhân dân Việt Nam vào tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. “Điện Biên Phủ từ những ngày đầu
chiến sự đã làm các giới hữu trách trong chính phủ Pari ngạc nhiên. Trong
mấy tuần, các giới chính trị và quân sự, ở Pháp cũng như ở Mỹ và Anh, đều
trải qua một cơn sốt đặc biệt”[30]. Ngay sau đó, tổng tham mưu trưởng lục
quân Pháp Pôn Êly phải sang Oasinhtơn gặp tổng thống Aixenhao, gặp ngoại
trưởng Đalet và các tướng lĩnh, các quan chức cao cấp Mỹ để cầu cứu khẩn
cấp, nhất là để đối phó với quân đội Trung Quốc nếu như họ xuất hiện. Bộ
ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra dự kiến về một hiệp ước an ninh tập thể ở Đông
Nam Á. Trong lúc Aixenhao còn suy tính thì Nichxơn - phó tổng thống Mỹ hồi
đó - khi nói về “Chiến lược cách nhìn mới và trả đũa ồ ạt” (Strategy of New
Look and Massive Retaliaction) đã chủ trương “gửi lính Mỹ đến Việt Nam kẻo
quá chậm”, đổ bộ một lực lượng vào khu vực Hà Nội - Hải phòng “dù có nguy
cơ xảy ra chiến tranh với Trung Hoa Đỏ”, đồng thời có ý đe dọa về một “sức
mạnh cơ động ghê gớm sẽ được sử dụng kín đáo để trả đũa ”. Trong khi lên
tiếng tố cáo Trung Quốc can thiệp vào Đông Dương, ngoại trưởng Mỹ đã ám
chỉ “nguy cơ nghiêm trọng”, khiến cho “người ta đương nhiên nghĩ đến việc
sử dụng vũ khí nguyên tử”. Còn chính giới Pháp thì bàn nhiều về khả năng Mỹ
sử dụng lực lượng hải quân và không quân, có lẽ cả sức mạnh nguyên tử
nữa”[31]. Họ hy vọng rằng sự đe dọa đó sẽ là con chủ bài lớn của Pháp buộc
Trung Quốc phải nhượng bộ.
Tuy nhiên, trong giới chính trị và quân sự ở Mỹ cũng có thái độ dè dặt. Họ lo
ngại một sự can thiệp sâu như vậy sẽ lôi cuốn Mỹ vào một cuộc chiến tranh
kiểu Triều Tiên. Ngày 3.4.1954, những người đứng đầu Quốc hội Mỹ đã bác

bỏ kế hoạch của Đalet, đưa ra ba điều kiện để Mỹ tham chiến là các nước
đồng minh, nhất là Anh phải đồng tình và tham gia; Pháp phải trao trả độc
lập thực sự cho các “Quốc gia liên kết” (tức là các chính quyền bù nhìn); và
chính phủ Pháp phải cam kết duy trì quân đội viễn chinh ở Đông Dương. Có
nghĩa là Mỹ muốn đẩy mạnh việc quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương,
không muốn đơn thương độc mã nhảy vào cuộc chiến mà phải giữ lại lực
lượng quân Pháp và kéo theo quân Anh với sự yểm trợ quân sự của Mỹ. Đồng
thời, Mỹ vẫn theo đuổi dự án thiết lập liên minh chống cộng gồm các nước
Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Thái Lan, Philippin (sau này trở thành
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á - SEATO). Nhng đến cuối tháng 4, nguy cơ thất
bại của Pháp ở Điện Biên Phủ ngày càng đến gần. Trong thời gian họp của
khối NATO ngày 21-22.4, ngoại trưởng ba cường quốc là Đalet (Mỹ), Biđôn
(Pháp) và Iđơn (Anh) đã gặp nhau để bàn về tình hình Đông Dương và dự án
“phòng thủ tập thể” ở Đông Nam Á. Biđôn kể lại trong cuốn “Từ cuộc kháng
chiến này đến cuộc kháng chiến khác” (D’une résistance à l’autre”) một chi
tiết quan trọng tại cuộc gặp đó là Đalet hỏi riêng ông ta: “Ông tính sao nếu
chúng tôi cho các ông hai quả bom nguyên tử?”[32].
Thái độ của Anh tỏ ra dè dặt hơn. Chính phủ Luân đôn chủ trương đi tìm biện
pháp hòa giải, né tránh cuộc đối đầu với Bắc Kinh và Matxcơva, đồng thời
không nên quá phụ thuộc vào Mỹ. Nước Anh cũng đang đối phó với cuộc
chiến tranh du kích ở Mã Lai, phải chú ý đến thái độ của các nước trong Khối
Liên hiệp Anh (Commonwealth) nhất là Ấn Độ đối với vấn đề Đông Dương để
tránh những phản ứng bất lợi.
Cũng trong tình hình này, nội tình nước Pháp không kém phần rối ren. Tình
trạng kéo dài không chút hy vọng của cuộc viễn chinh đã làm chính giới Pháp
mệt mỏi và chia rẽ. Tướng Nava đã chua chát tổng kết tình hình chính trị của
nước Pháp như sau: “Chưa bao giờ các nhà cầm quyền của chúng ta (Pháp)
có được thời gian làm việc liên tục. Đối địch với Hồ Chí Minh - lãnh tụ chính
trị duy nhất, và tướng Giáp - tổng tư lệnh duy nhất từ đầu chiến tranh đến
nay, 19 chính phủ kế tiếp của chúng ta đã đưa ra 5 cao ủy (ông Đơ Giăng là

người thứ 6) và 6 tổng chỉ huy (mà tôi là ngời thứ 7). Chúng ta cha bao giờ
có một đường lối chính trị nhất quán để theo đuổi”. Để bào chữa cho trách
nhiệm về thất bại ở Đông Dương, ông ta than phiền: “ở Pháp, không khí tinh
thần thật khủng khiếp: thờ ơ, lạnh nhạt nếu không nói là thù ghét, sự phản
bội công khai phơi bày, vụ buôn lậu tiền bạc, vụ bê bối của các tướng lĩnh,
v.v.”. Trong giới chính trị, người ta thường lấy vấn đề Đông Dương để tuyên
truyền tranh cử hòng giành được nhiều phiếu bầu. Trong giới quân sự, cuộc
viễn chinh được coi là một trở ngại cho việc tái lập lực lượng Pháp ở châu Âu,
là một gánh nặng mà họ mong muốn rũ bỏ. Do vậy, “đối với các nhà chính trị
và quân sự, cuộc chiến Đông Dương bây giờ chỉ còn là một việc phải thanh
toán đi cho rồi”[33].
Trong khi chính phủ Pari lúng túng trước những tin tức thất trận từ Đông
Dương truyền về thì phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt
“cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ngày càng sôi sục. Ngay từ năm 1949, trên đường
phố Pari đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình quần chúng với những khẩu hiệu
“Hòa bình ở Việt Nam”, “Điều đình với chính phủ Hồ Chí Minh”. Thương binh
từ chiến trường trở về diễu hành qua các đường phố lớn với biểu ngữ “Chúng
tôi là nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam”. Nhiều bà mẹ có con tử nạn tại Đông
Dương mặc tang phục đến Bộ Quốc phòng đòi “Hãy trả con cho chúng tôi”.
Đặc biệt công nhân đường sắt, công nhân bến cảng Macxây, Đoongkec,
Brext không chịu bốc dỡ vũ khí và các vật liệu chiến tranh xuống tàu sang
Đông Dương. Tiêu biểu là chị Raymông Điêng đã nằm ngang trên đường xe
lửa để chặn những chuyến tàu chuyên chở vũ khí ra cảng; anh Hăngri
Mactanh phát truyền đơn kêu gọi các bạn trong quân ngũ phản chiến. Nhiều
nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp như Giăccơ Đuyclô, Lêo Phighe dẫn đầu
các cuộc biểu tình quần chúng cho dù sau đó, các ông phải vào tù. Báo Nhân
đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp - ngày 27/1/1954 nhận
định: “Ý muốn chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương đã trở thành một
yêu sách của toàn dân”. Những tin tức về Điện Biên Phủ càng làm cho tình
hình chính trị nước Pháp sôi sục. Nhiều “Ủy ban đoàn kết và hành động” đòi

giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam bằng phương pháp hòa bình đã thu hút
đông đảo trí thức, nhân sĩ và nghị sĩ các đảng phái (Cộng sản, Xã hội, Xã hội
cấp tiến ) tham gia hoạt động dưới nhiều hình thức. Làn sóng chống chiến
tranh ở Đông Dương đã lan từ đường phố vào tới các phiên họp của Quốc hội
Pháp, tình trạng khủng hoảng của nền chính trị Pháp càng thêm sâu sắc[34].
Cho đến cuối tháng 4.1954, khi nguy cơ thất bại của viên tướng Đơ Caxtri ở
Điện Biên Phủ không còn nghi ngờ gì nữa, những người lãnh đạo Pháp lại
thúc giục Mỹ tiến hành yểm trợ bằng không quân, đánh phá các căn cứ hậu
cần và các con đường tiếp tế của kháng chiến. Đalet cùng Rappho (tổng tham
mưu trưởng liên quân) đã đi đến kết luận là không còn hy vọng cứu vãn Điện
Biên Phủ nữa nhưng vẫn đề nghị không quân Hoàng gia Anh phối hợp can
thiệp vào Điện Biên Phủ “nhằm làm cho người Pháp thấy rằng họ vẫn còn các
đồng minh hùng mạnh”. Nhưng nước Anh đã kiên quyết từ chối với lời tuyên
bố của Thủ tướng Sơcsin trong phiên họp khẩn cấp của nội các: “Cái mà họ
yêu cầu chúng ta tiến hành là giúp họ vào việc lừa dối để Quốc hội (Mỹ) tán
thành một hoạt động quân sự, bản thân nó không có tác dụng mà lại có thể
đẩy lùi thế giới vào miệng hố chiến tranh to lớn”[35]. Và “điều quan trọng
nhất là chính phủ Luân Đôn không muốn để nước Anh dính vào một cuộc
chiến tranh mà họ cảm thấy không thể chiến thắng”[36].
Cuối cùng, sau 55 ngày đêm chiến đấu, chiều ngày 7.5, chiến dịch Điện Biên
Phủ kết thúc. Toàn bộ ban chỉ huy của tướng Đơ Caxtri đầu hàng.
Tại Pari, nước Pháp đón nhận tin này trong đau buồn và tang tóc. Các dòng
tít lớn chạy trên các trang báo:”Điện Biên Phủ thất thủ”, “Tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ đã tan rã”…Lệnh treo cờ rủ ban ra trên toàn cõi nước Pháp và
các nước trong “Liên hiệp Pháp”. Trên diễn đàn Quốc hội, “Thủ tướng Lanien
xúc động công bố sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm. Tất cả các nghị sĩ - trừ
những người cộng sản - đứng dậy kính chào “những người bảo vệ bất hạnh
của tập đoàn cứ điểm”. Ngày 8.5, vào cuối buổi chiều, Bộ trưởng Quốc phòng
Plêven đến nghiêng mình trước mồ chiến sĩ vô danh. Nhiều sĩ quan phần lớn
mặc thường phục đã chuẩn bị một cuộc biểu tình phản đối. Khi ông Plêven

chuẩn bị lên xe thì bị xô đẩy, bị chửi bới mạnh mẽ, kính của ông rơi xuống
đất Ngày 9.5, tướng Đơ Gôn đến Khải hoàn môn vào lúc 16 giờ. Viên tướng
lặng lẽ đến một mình.
Tại Geneve: “Hội nghị quốc tế về Đông Dương khai mạc. Đoàn Pháp do Ngoại
trưởng Biđôn dẫn đầu mặc toàn lễ phục mầu đen”[37].
Thế là ván bài Điện Biên Phủ kết thúc, bàn cờ quốc tế xoay quanh Hội nghị
Geneve bắt đầu.
3. Vấn đề Đông Dương trên bước đường tiến tới Hội nghị
Giơnevơ

Ngày 8.5.1954, Hội nghị quốc tế về Đông Dương khai mạc. Nhưng ngay từ
những năm đầu thập kỷ 50. trong khi diễn biến trên chiến trường ngày càng
quyết liệt thì phương án đi tìm lối thoát bằng con đường đàm phán đã xuất
hiện trong suy tính của các cường quốc tư bản. Bản thân kế hoạch Nava cũng
hàm chứa ý tưởng tìm một giải pháp danh dự cho cuộc chiến đầy tổn thất.
Nhất là khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt với bản Hiệp định ký kết ở Bàn
Môn Điếm (tháng 7.1953) thi niềm hy vọng về việc thương lượng nổi lên rõ
hơn. Tại Hội nghị ngoại trưởng bốn nước ở Beclin (1.1954) gồm Liên Xô, Mỹ,
Anh và Pháp, ngoại trưởng Liên Xô Môlôtôp đưa ra đề nghị triệu tập Hội nghị
Giơnevơ có cả CHND Trung Hoa tham dự để bàn về vấn đề Triều Tiên và lập
lại hòa bình ở Đông Dương.
Có thể nói đây là thời điểm chín muồi cho việc công khai đề xuất vấn đề đàm
phán nhằm chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Về phía các nước đế quốc,
tình hình đã rõ khi quân viễn chinh Pháp ngày càng sa lầy, không thể giành
một chiến thắng quyết định; chính sách của Mỹ là can thiệp bằng viện trợ mà
không muốn đổ quân để tránh lặp lại một Triều Tiên thứ hai; thái độ của Anh
là dè chừng, lo ngại ảnh hưởng cuộc chiến sẽ làm rung chuyển các thuộc địa
của họ.
Về phía các nước XHCN, cũng có những vấn đề đặt ra đối với Liên Xô và Trung
Quốc. Tính đến đầu năm 1954, sau 9 năm khôi phục đất nước, Liên Xô đã đạt

được nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật. Việc Liên Xô thử
thành công bom nguyên tử (1949) và bom khinh khí (1953) đã xóa đi thế độc
quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ và nâng cao vị thế của nhà nước XHCN trên
trường quốc tế. Nhưng việc vị nguyên thủ của Liên Xô - J. Xtalin qua đời ngày
5.3.1953 đã để lại nhiều hậu quả: một là xuất hiện tình hình không ổn định
trong bộ máy lãnh đạo tối cao với sự thay đổi liên tục những người cầm
quyền, kể cả vụ sát hại không xét xử một nhân vật có thế lực là Bêria ; hai là
sự thay đổi về đường lối đối ngoại theo xu hớng hòa dịu với Mỹ. Do vậy, Liên
Xô rất cần sự yên ổn trên bình diện quốc tế để rảnh tay giải quyết những vấn
đề nội bộ và dồn sức vào hướng trọng tâm của họ là châu Âu, đặc biệt là vấn
đề Beclin và nước Đức. Còn Trung Quốc, chỉ một năm sau khi thành lập nhà
nước Cộng hòa Nhân dân, quân Giải phóng đã phải tham gia cuộc chiến
tranh Triều Tiên với nhiều tổn thất và hy sinh. Các nước tư bản lo ngại rằng
sau Hiệp định Bàn Môn Điếm, Trung Quốc có thể dồn sức vào chiến trường
Đông Dương. Nhưng tình hình bên trong và bên ngoài khi đó đặt ra nhiều
thách thức đối với chính quyền Bắc Kinh mới thành lập. Hậu quả của hàng
chục năm kháng chiến chống Nhật và nội chiến làm đất nước suy kiệt, việc
nuôi dưỡng chừng 500 triệu dân không phải là điều dễ dàng. Tình trạng tàn
quân Quốc dân đảng còn đang lẩn quất khắp nơi ở đại lục và việc Mỹ giúp đỡ
chính quyền họ Tưởng mới chạy ra Đài Loan luôn là mối đe dọa thường trực
đối với chủ quyền và an ninh đất nước. Cho nên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
phải quan tâm đến việc tạo nên một môi trường quốc tế thuận lợi, hết sức
tránh sự can thiệp của Mỹ vào các quốc gia láng giềng để có thể tập trung
sức lực cho công cuộc kiến thiết quốc gia. Và lại, đối với Trung Quốc, việc tạm
dừng cuộc chiến ở Đông Dương chính là giảm bớt nguy cơ lan rộng chiến
tranh giáp vùng biên giới phía nam, đồng thời tạo nên một khu đệm an toàn
cho chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ: “Mục tiêu chính của họ là khuyến khích
hòa bình trong khu vực để cho họ có thể tập trung chú ý vào sự phát triển
kinh tế trong nước và trên hết để tránh một sự can thiệp có thể có của Mỹ vào
chiến tranh Đông Dương”[38]. Cho nên, trong khi viện trợ tích cực cho cuộc

kháng chiến của Việt Nam, nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các nước
lớn XHCN cũng muốn tìm kiếm biện pháp hòa giải.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Đảng và Chính phủ Việt Nam đơng nhiên
phải tìm ra đối sách thích hợp. Trong bài trả lời phỏng vấn của báo Expressen
(Thụy Điển) ngày 26.11.1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “ nếu chính phủ
Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến
đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt
Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sẵn sàng tiếp ý muốn đó”. Và “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là chính
phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nướcViệt Nam.”[39]. Đây
vốn là lập trường trước sau như một của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần tuyên bố ngay từ những năm đầu của chính quyền nhân dân.
Nhưng với tham vọng tái chiếm Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành
cuộc gây hấn ở Nam Bộ từ 23.9.1945 rồi mở rộng chiến tranh ra cả nước từ
19.12.1946. Phải nếm trải những đòn thất bại cay đắng trong chiến tranh,
những người cầm quyền Pari mới nhận ra con đường mà đáng lý họ phải
chọn từ 8-9 năm trước. Cho nên lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở
ra một cơ hội để đi đến chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Đương nhiên,
cả hai phía đều muốn đến hội nghị với một “hành trang nặng ký” vì ai cũng
hiểu ràng người ta không thể đạt được trên bàn hội nghị những cái mà
không giành được trên chiến trường. Và chiến cuộc Điện Biên Phủ kết thúc đã
đem lại đáp số cho bài toán hiểm hóc này.
4. Hiệp định Giơneve - đáp số của bài toán thoả hiệp quốc tế
Cuộc đàm phán Giơnevơ năm 1954 không chỉ diễn ra giữa 2 đối thủ trực tiếp
là Việt Nam và Pháp như hồi năm 1946 mà có sự tham gia của các nước lớn.
Trên bình diện ngoại giao, vấn đề Đông Dương đã được quốc tế hóa.
Với yếu tố quốc tế hóa như vậy, dấu ấn của các cường quốc trong tiến trình
và kết quả hội nghị là điều không tránh khỏi. Lần này, VNDCCH - một bên chủ
yếu trong cuộc chiến tranh được mời đến dự Hội nghị Giơnevơ để bàn về
chính công việc của mình chứ không phải là tham gia một cách chủ động

trong cuộc đàm phán song phương với đối thủ như hồi năm 1946. Tham gia
Hội nghị có 9 đoàn đại biểu gồm 5 nước lớn (Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung
Quốc), VNDCCH và đại diện 3 chính phủ “Quốc gia liên kết” của Pháp ở Đông
Dương. Đoàn VNDCCH đưa ra đề nghị phải có sự tham dự của các lực lượng
kháng chiến ở Lào và Campuchia nhưng không được xét đến trong khi 3
chính phủ bù nhìn do Pháp dựng lên lại có mặt. Với phép tính đơn giản về
thành phần hội nghị, sẽ thấy có sự chênh lệch theo tỷ lệ 3 trên 6 trong tương
quan giữa hai phía. Đó là điều bất lợi đối với ta song cũng không thể làm
thay đổi hoàn toàn tương quan lực lượng đã được thử thách trên chiến
trường.
Đoàn đại biểu VNDCCH do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm
Văn Đồng làm trưởng đoàn đến hội nghị với tư thế của người chiến thắng. Có
thể nói đây là lần thứ tư diễn ra cuộc gặp chính thức giữa Pháp và Việt Nam
trên bàn đàm phán kể từ khi nước Việt Nam độc lập ra đời.
Nhìn lại quá trình ấy thì lần gặp đầu tiên được tiến hành tại Hà Nội vào đầu
năm 1946 để đàm phán tiến tới Hiệp định sơ bộ ngày 6.3.1946.
Cũng trong năm 1946, sau cuộc gặp Hồ Chí Minh - Đacgiăngliơ tại vịnh Hà
Long, đã có 2 cuộc đàm phán tiếp theo của đoàn đại biểu VNDCCH với đoàn
đại biểu Pháp tại Đà Lạt và tại Phôngtennơblô. Trong cả 2 cuộc gặp này, lập
trường của Việt Nam là rõ ràng và nhất quán, đòi sự công nhận độc lập, chủ
quyền và thống nhất. Thái độ ngoan cố của chính phủ Pháp đã dẫn tới sự tan
vỡ của cả 2 hội nghị và cuối cùng, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ
trong cả nước.
Phải đến năm 1965, trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng thống Pháp Đơ
Gôn mới tỏ ý lấy làm tiếc vì hai dân tộc chưa hiểu biết lẫn nhau và năm 1993,
trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng thống Mittơrăng thừa nhận: “Tôi nhớ
chuyến thăm nước Pháp của Hồ Chí Minh để tìm người đối thoại trước Hội
nghị Phôngtenơblô với mong muốn thương lượng về hướng độc lập nhưng
không tìm được”[40].
Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương diễn ra trong một bối cảnh khác trước.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều chiến thắng
vang dội mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp được Mỹ
viện trợ tới 73% chi phí chiến tranh vẫn không thoát khỏi sự bế tắc dẫn tới
thất bại. Trong thời gian này, chính phủ Pari đã thay đổi tới 20 nội các, cử 13
chính khách và danh tướng sang Đông Dương làm cao ủy và tổng chỉ huy
chiến trường[41] (41) nhưng cũng không cứu vãn nổi tình hình. Rõ ràng,
tương quan lực lượng giữa hai bên đã thay đổi so với 9 năm về trước.
Trong bối cảnh đó, những thành tựu mà ta đã giành được trong các văn kiện
của Hiệp định Giơnevơ đã vượt xa nội dung của Hiệp định sơ bộ mùng 6
tháng 3. Nếu như năm 1946, đại biểu Pháp cố tránh né từ “độc lập” mà chỉ
công nhận Việt Nam là một “quốc gia tự do” với nội hàm khá mơ hồ thì sau 9
năm chiến tranh, trong bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ đã viết:
“Hội nghị tuyên bố đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực
hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ” và “Hội nghị chứng nhận tuyên bố của chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt
Nam”[42]. Cũng năm 1946, ta chấp nhận cho 15 ngàn quân Pháp vào miền
bắc vĩ tuyến 16 thì Hiệp định Giơnevơ quy định quân Pháp phải tập kết ở phía
nam vĩ tuyến 17 để sau đó rút khỏi Việt Nam: “Hội nghị chứng nhận tuyên bố
của Chính phủ Pháp nói rằng sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi Cao Miên, Lào
và Việt Nam ”[43].
Như vậy, chính phủ Pháp đã chính thức tuyên bố với sự chứng nhận quốc tế
về 2 điều cơ bản là công nhận độc lập của Việt Nam và sẽ rút quân khỏi Việt
Nam, điều mà trong Hiệp định sơ bộ 8 năm về trước ta phải nhân nhượng.
Với những kết quả đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Hội nghị Giơnevơ đã
kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”[44]. Trong Lời kêu gọi của Ban Châp
hành Trung ơng Đảng có viết: “Đạt được Hiệp định nói trên là một thắng lợi
vĩ đại của nhân dân và quân đội ta đoàn kết, nhất trí, anh dũng chiến đấu
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng[45].
Đối với Việt Nam, thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ là điều đã được khẳng định

và cần phải khẳng định. Tuy vậy, cũng còn có những điều chưa thực sự đáp
ứng yều cầu của ta, chủ yếu tập trung vào 2 vấn đề: vấn đề giới tuyến quân sự
tạm thời là vĩ tuyến 13 hay 16 nhưng cuối cùng là 17; vấn đề thời hạn tiến
hành tổng tuyển cử là sau 6 tháng hay 12 tháng nhưng cuối cùng là 2 năm.
Đó là sự thực lịch sử mà ai cũng thấy, song nhìn nhận điều này như thế nào
thì lại có những ý kiến khác nhau. Nhất là sau khi chúng ta thành công trong
tiến trình Hội nghị Pari và đạt được kết quả trong những điều khoản của
Hiệp định Pari 1973 thì những băn khoăn về Hiệp định Giơnevơ lại được nhắc
đến.
Trả lời câu hỏi này, trước hết nên nhắc lại “luật chơi” trên bàn đàm phán
quốc tế. Trừ trường hợp đầu hàng không điều kiện mà bên thua phải chấp
nhận mọi đòi hỏi của bên thắng còn trong các cuộc thương lượng, mỗi bên
đều cố giành phần lớn nhất mà mình có thể, đồng thời phải nhân nhượng
những điều mình chưa thể. Cho nên ngay sau khi hiệp ước được ký kết thì
mỗi bên đều có điều thỏa mãn và cũng có những điều chưa thỏa mãn, đó là lẽ
thường tình. Cuộc đấu tranh lại tiếp tục với hy vọng của mỗi bên sẽ tiến lên
một bước cao hơn. Hơn thế nữa, khi cuộc đàm phán được quốc tế hóa với
nhiều bên tham gia thì trong khi tìm giải pháp cho cái chung, mỗi bên đều
tính đến phần thành quả cho riêng mình. Nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao
Khắc Huỳnh viết rất đúng rằng: ‘Cho nên thực chất Hiệp định Giơnevơ là một
thỏa hiệp quốc tế được các nước lớn sắp đặt, trong đó mỗi bên tham gia đều

×