Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

XÉT NGHIỆM LẮC DỊCH HÚT DẠ DÀY TRONG TIÊN ĐOÁN BỆNH MÀNG TRONG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.76 KB, 4 trang )

BS. Trần Ngọc Hạnh Đan - BV. Ngọc Tâm
22
YHSS
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CỦA XÉT NGHIỆM LẮC
DỊCH HÚT DẠ DÀY TRONG TIÊN ĐOÁN BỆNH
MÀNG TRONG
Một đặc điểm then chốt trong sinh bệnh học bệnh
màng trong (BMT) là tình trạng thiếu surfactant. Vì
vậy, những xét nghiệm đònh lượng, khảo sát chức
năng surfactant của phổi sẽ cho những dữ kiện hữu
ích giúp ước lượng nguy cơ BMT. [3]
Những bệnh phẩm có thể được dùng cho các xét
nghiệm surfactant của phổi gồ
m có: dòch ối, dòch hút
dạ dày và dòch hút khí quản. Ước lượng tỉ lệ
lecithin/sphingomyelin (L/S ratio) trong dòch ối giúp
tiên đoán mức độ trưởng thành phổi của thai [3]. Cho
đến nay, mặc dù vẫn được xem là tiêu chuẩn vàng
giúp tiên đoán BMT, phương tiện và kỹ thuật cho xét
nghiệm này vẫn chưa được phổ biến, nhất là ở các
nước đang phát triển [3]. Xét nghiệm lắc dòch hút dạ
dày (Gastric Aspirate Shake Test: GST) là một xét
nghiệm lâm sàng, được thực hiệ
n sớm sau sanh với
phương tiện và kỹ thuật khá đơn giản [1]. Theo các
nghiên cứu thực hiện tại Canada, Ấn Độ, Peru và
một số quốc gia khác thì đây là một xét nghiệm khả
thi trong việc hỗ trợ tiên đoán BMT [2], [3], [5].
XÉT NGHIỆM LẮC DỊCH HÚT DẠ DÀY [1]
Chuẩn bò dụng cụ cho một lần làm GST






Ống thông mũi dạ dày cỡ F5 hoặc F6: 01 ống.
Xy lanh nhựa 1ml: 03 xy lanh.
Ống nghiệm thủy tinh sạch kích thước 10 mm x
110 mm: 01 ống.
Dung dòch nước muối sinh ly.ù
Cồn 95% trong chai được nút chặt.

Qui trình thực hiện GST








Đọc kết quả GST
Quan sát các bóng khí trên bề mặt hỗn hợp dung
dòch ngay sau khi kết thúc qui trình GST, số bóng
khí tỉ lệ thuận với nồng độ surfactant của hỗn hợp
dung dòch:


YHSS
23
Nút đậy ống nghiệm thủy tinh (bằng cao su hoặc

parafilm): 01 nút.
Đặt ống thông mũi dạ dày trong vòng 30 - 60 phút
sau khi trẻ chào đời, trước cữ cho ăn đầu tiên.
Dùng 1 xy lanh sạch hút 0,5 ml - 1 ml dòch dạ dày.
Bơm 0,5ml dòch hút dạ dày từ xylanh vào ống
nghiệm thủy tinh.
Dùng 1 xy lanh sạch hút 0,5 ml dung dòch nước
muối sinh lý rồi bơm vào ống nghiệm thủy tinh
chứa sẵn dòch hút dạ dày.
Đậy ống nghiệm thủy tinh bằng nút cao su hoặc
parafilm và
lắc đều trong 15 giây, sau đó mở nắp
đậy ống nghiệm ra.
Dùng 1 xylanh sạch khác hút 1ml cồn 95% rồi
bơm vào ống nghiệm chứa hỗn hợp dòch vừa lắc.
Đậy miệng ống nghiệm, lắc đều 2 ml dung dòch
hỗn hợp dòch hút dạ dày, nước muối sinh lý và
cồn trong 15 giây.
Đặt ống nghiệm thẳng đứng vào giá để ống
nghiệm trong 15 phút.
Quan sát bề mặt dung dòch trong ố
ng nghiệm và
ghi nhận kết quả.

Những lưu ý khi làm GST









GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM LẮC DỊCH HÚT DẠ
DÀY QUA MỘT SỐ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của Tanswell A. Keith, Sherwin
Elizabeth và Smith Barry T., tại Canada, công bố
trên tạp chí vào 1977 [5]
Mẫu nghiên cứu gồm 2 nhóm: nhóm gồm 85 trẻ
sanh non (từ 29 - 37 tuần) và nhóm chứng gồm 214
trẻ đủ tháng (38 - 42 tuần). Mẫu dòch dạ dày được
lấy trong vòng 1 giờ sau sanh.
Âm tính: khi không quan sát được bóng khí trên
bề mặt hỗn hợp dung dòch trong ống nghiệm
Trung gian: quan sát được bóng khí nhưng không
đủ che kín bề mặt hỗn hợp của dung dòch trong
ống nghiệm.
Dương tính: quan sát được bóng khí phủ kín bề
mặt hỗn hợp dung dòch trong ống nghiệm.
Dòch hút dạ dày phải được lấy trong vòng 30-60
phút sau khi trẻ chào đời. Nếu lấy muộn hơn, GST
có thể cho kết quả không đúng.
Lượng dòch hút dạ dày, nước muối sinh lý và
cồn
95% phải được lấy với thể tích chính xác như mô
tả trong qui trình làm GST.
Ống nghiệm dùng làm xét nghiệm phải sạch.
Ống nghiệm phải được đậy kín bằng nút paraffin
hoặc nút cao su trước khi lắc. Không dùng ngón
tay bòt ống nghiệm vì có thể làm kết quả (+) giả.

Nồng độ cồn phải là 95%. Luôn nhớ đóng na
ép chai
cồn ngay sau khi sử dụng để giữ nồng độ dung
dòch cồn ổn đònh.
Phải cho dung dòch nước muối sinh lýù vào dòch hút
dạ dày trước rồi sau đó mới cho cồn vào. Nếu
không theo đúng trình tự, kết quả sẽ bò sai lệch.
Phải chờ đúng 15 phút sau lắc hỗn hợp dung dòch
mới quan sát các bóng khí để đọc kết quả.
Nếu dòch hút dạ dà
y có lẫn máu hoặc phân su thì
không nên tiến hành làm GST vì kết quả có thể
(+) giả.
YHSS
24
Kết quả thu được trong nhóm 85 trẻ sanh non
như sau:
Có 37 trẻ sanh non được làm thêm xét nghiệm tỉ lệ
L/S trong dòch ối được lấy qua chọc ối trong vòng
24 giờ trước khi trẻ chào đời. Kết quả nghiên cứu
cho thấy: GST có giá trò tiên đoán BMT tốt hơn xét
nghiệm tỉ lệ L/S trong dòch ối. Những trẻ sơ sinh tiến
triển đến BMT được làm GST thêm nhiều lần cho
thấy kết quả GST thay đổi song hành với cải thiện
lâm sa
øng của trẻ. Kết quả này và nhiều quan sát
khác gợi ý rằng kết quả GST chòu ảnh hưởng nhiều
bởi dòch tiết từ phổi được trẻ nuốt vào dạ dày hơn là
từ dòch ối được trẻ nuốt vào dạ dày.
Nghiên cứu của P.Parekh, S.Thakur và S.D.Singh,

đăng tạp chí vào 1983 [4]
GST được thực hiện ở 400 trẻ sơ sinh: 300 trẻ đủ
tháng và 100 trẻ sanh non(< 37 tuần) để xác đònh
giá trò tiên đoán BMT của test này. Kết quả thu được
trong nhóm 100 trẻ sanh non như sau: Trong nhóm
tre
û đủ tháng, có 6 trường hợp GST âm giả. Không có
trẻ sơ sinh đủ tháng nào với kết quả GST (+) hoặc
(+) diễn tiến đến BMT. Nghiên cứu khẳng đònh lợi
ích của GST trong việc đánh giá độ trưởng thành
phổi của sơ sinh ngay sau sanh, giúp phân biệt BMT
với những nguyên nhân khác gây suy hô hấp ở sơ
sinh. Trên thực tế, nếu GST dương tính ở một trẻ
sinh non có biểu hiện suy hô hấp, nghó đến những
nguye
ân nhân như viêm phổi, bất thường bẩm sinh…
Nghiên cứu của Camarena H Pena và Zavaleta E
Caballero, đăng tạp chí vào 1989 [2]
Nghiên cứu thực hiện trên 110 trẻ sơ sinh non tháng
(25 - 36 tuần) có suy hô hấp để xác đònh lợi ích
của GST trong việc tiên đoán BMT. Kết quả thu được
như sau:
Nghiên cứu kết luận GST có giá trò đáng kể trong
tiên đoán BMT. Vì có thể được thực hiện nhanh
chóng, đơn giản và ít tốn kém, GST giú
p ích trong
việc phân biệt BMT với những nguyên nhân gây suy
hô hấp khác ở trẻ sơ sinh tại những bệnh viện tuyến
đầu. Nhờ vậy giúp cho việc chuyển sớm những trẻ
này đến các bệnh viện có chuyên khoa về sơ sinh.

Nghiên cứu của Chaudhari R., Deodhar J., Kadam
S., Bavdekar A. và cộng sự, đăng trên tạp chí
2005 [3]
Kết quả
GST
Số có BMT
Số không
BMT
Tổng số
Âm tính
Trung gian
Dương tính
12
2
0
10
6
12
18
55
55
Kết quả
GST
Số có BMT
Số không
BMT
Tổng số
Âm tính
Trung gian
Dương tính

17
1
2
12
3
13
20
65
67
Kết quả
GST
Số có BMT
Số không
BMT
Tổng số
Âm tính
Dương tính
39
1
16
55
54
55
YHSS
25
Nghiên cứu thực hiện trên 77 trẻ sơ sinh tuổi thai từ
26 - 40 tuần và có biểu hiện suy hô hấp khởi phát
trong vòng 30 phút sau sanh. Kết quả thu được
như sau:
Trong phần bàn luận các tác giả đã nhấn mạnh

những điểm sau:



Theo kết quả của những nghiên cứu khác về GST ở
Ấn Độ:




CÁC TÁC GIẢ ĐÃ KẾT LUẬN
GST có tính khả thi trong hỗ trợ chẩn đoán BMT. Tuy
nhiên, kết quả GST (+) không giúp loại trừ chẩn
đoán BMT ở trẻ sơ sinh có biểu hiện triệu chứng suy
hô hấp ngay sau sanh. Khuyến cáo sử dụng GST
rộng rãi ở các quốc gia đang phát triển nhằm giúp
tiên đoán BMT ở sơ sinh non tháng, từ đó góp phần
hoạch đònh hướng điều trò phù hợp.
Kết quả
GST
Số có BMT
Số không
BMT
Tổng số
Âm tính
Trung gian
Dương tính
21
12
9

12
0
24
21
23
32
Tất cả 21 trẻ với GST (-) đều diễn tiến tới BMT,
điều này đồng nghóa PV (+) là 100%, tuy nhiên
độ nhạy chỉ là 70% (21/30).
Nghiên cứu không chọn nhóm chứng,nhóm gồm
những trẻ không biểu hiện triệu chứng suy hô
hấp vì khi thực hiện nghiên cứu thử không có trẻ
nào trong nhóm trẻ này có kết quả GST (-).
Với kết quả GST (+) cho PV(-) là 72%(23/32),
do đó gợi ý nhiều khả năng trẻ bò suy hô hấp do
các nguyê
n nhân khác ngoài BMT. Tuy nhiên,
Nghiên cứu của Gupta và cộng sự đã xác đònh
PV(+) của GST là 96%. Kết quả cho thấy GST
có giá trò tiên đoán BMT tương đương với xét
nghiệm tỉ lệ L/S của mẫu dòch hút từ vùng hầu.
Nghiên cứu của Arya cho kết quả PV(+) 97%.
Nghiên cứu của Singh cho kết quả độ nhạy 97%
và độ chuyên 71%.
Nghiên cứu Parekh cho kết quả PV(+) 92,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

5.
(2005). Gastric aspirate shake test, 25, from />Camarena H P. & Zavaleta E C. (1989). Prediction of idiopathic respiratory insufficiency using the gastric aspirate shake test. Bol Med
Hosp Infant Mex, 46(9), 615 - 618.
Chaudhari R., Deodhar J., Kadam S., Bavdekar A. & Pandit A. (2005). Gastric aspirate shake test for diagnosis of surfactant deficiency
in neonates with respiratory distress. Annals of Tropical Paediatrics: International Child Health, 25, 205 - 209.
Parekh P., Thakur S. & Singh S. (1983). Bedside prediction of neonatal pulmonary maturity by single step gastric aspirate shake test.
Indian Journal of Pediatrics, 50(4), 391 - 393.
Tanswell A. K., Sherwin E. & Smith B. T. (1977). Single - step gastric aspirate shake test: bedside predictor of neonatal pulmonary
morbidity. Arch Dis Child, 52 (7), 541 - 544.
kết quả GST (+) vẫn không loại trừ được chẩn
đoán BMT. Với kết quả GST (+) có 50% trường
hợp tiến triển đến RDS. Vì vậy, nhằm mục đích
tiên đoán BMT, tốt nhất nên xem kết quả (+) như
kết quả (-).

×