Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương hai
NGOẠI GIAO CỦNG CỐ ĐỘC LẬP
I- NGOẠI GIAO THỜI NGÔ - ĐINH
Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939,
Ngô Quyền lên ngôi vua, cầm quyền trị nước, bỏ
danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ
thuộc các vương quyền phương Bắc. Ngô Quyền lập
triều đình, đặt trăm quan (không rõ niên hiệu, tên
hiệu là gì), sau này sách sử ghi là Ngô Vương. Về đối
ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà
ông vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với
nước nào trong "Ngũ đại thập quốc" lúc ấy. Nhưng
ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn
được sang sinh cơ lập nghiệp ở lãnh thổ do mình cai
quản. Ngô Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ
Trung Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú
ngụ ở nước ta. Một số tướng sĩ Trung Quốc được
Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại
các địa phương.
Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Đáng lẽ con
Ngô Quyền lên nối ngôi cha. Nhưng em vợ Ngô
Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi vua. Một số
quan lại, tướng sĩ của Ngô Quyền không chịu, nổi lên
chống lại Dương Tam Kha, mỗi người cầm quân
chiếm giữ một địa phương, lập thành giang sơn riêng,
gây nên tình trạng cát cứ, trước còn ít, sau lên tới 12
sứ quân.
Dương Tam Kha làm vua được 6 năm. Tới năm 950,
con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn cùng một số
tướng cũ của Ngô Quyền nổi lên đánh úp, bắt được
Dương Tam Kha. Năm sau (951), Ngô Xương Văn
lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Nhưng nạn
sứ quân cát cứ các địa phương vẫn không xóa bỏ
được mà ngày càng tăng. Trước tình hình trong nước
rối ren, sợ nước ngoài xâm lược, năm 954 Ngô
Xương Văn cho sứ sang giao hảo với Nam Hán . Vua
Nam Hán lúc ấy là Lưu Thanh cho ngay sứ sang nhận
ta là phiên thần, lại phong chức tiết độ sứ cho Ngô
Xương Văn, âm mưu kiếm cớ xâm nhập tiến tới
chiếm đóng nước ta. Được tin ấy, Ngô Văn Xương
cho ngay người đi sang chặn sứ Nam Hán lại trước
khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc biển
đương làm loạn, đường đi rất khó, đừng sang mà
chết! (Đại việt sử ký toàn thư). Sứ Nam Hán hoảng
sợ quay về. Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây
thật sự chấm dứt.
Ở ta, tình trạng sứ quân cát cứ kéo dài hơn 20 năm.
Một trong thủ lĩnh 12 sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh đánh
tan các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Đinh
Bộ Lĩnh là con của Đinh Công Trứ - một người bạn
chiến đấu của Ngô Quyền, từ thời hai người còn là
tướng thân cận của Dương Đình Nghệ.
Năm 968, nạn cát cứ đã chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên
ngôi vua. Khác với Ngô Quyền, ông lập hẳn một triều
đại, lên ngôi hoàng đế, xưng là Minh Hoàng đế , đặt
mình ngang hàng với các hoàng đế Trung Quốc, sử
sách gọi ông là Đinh Tiên Hoàng (tức Đinh Tiên
Hoàng đế) là gọi theo niên hiệu Tiên Hoàng đế mà
người ta đặt cho ông khi ông đã mất.
Về quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì từ thời
Ngô đã không có. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua,
quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng chưa đặt ra
ngay, vì Trung Quốc chưa chấm dứt được nạn “Ngũ
đại thập quốc". Ở ta, trong khi Đinh Bộ Lĩnh tiến
hành thống nhất đất nước thì Triệu Khuông Dận ở
Trung Quốc cũng nổi lên dẹp loạn "Ngũ đại thập
quốc". Năm 960, Triệu Khuông Dận diệt được nhà
Hậu Chu - một triều đại cuối cùng của "Ngũ đại",
nhưng còn "thập quốc". Triệu Khuông Dận lập nên
triều Tống và tiếp tục thanh toán "thập quốc”.
Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua được 2 năm thì năm
970 ở Trung Quốc, Tống Thái Tổ (tức Triệu Khuông
Dận) tiến quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm
971, Nam Hán bị diệt. Từ đấy biên giới Tống sát với
nước ta. Tống đặt quan hệ giao hảo với ta, chưa có ý
đồ gì khác, vì Trung Quốc chưa thống nhất, Tống còn
phải lo đối phó với một số nước "thập quốc” ở phía
bắc và phía đông. Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai
nước là hòa bình hữu nghị. Có điều đặc biệt trong
đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên
Hoàng là ông vẫn làm vua, vẫn cầm quyền trị nước,
nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông
lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho
con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà Tống.
Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống
không bằng lòng, nhưng nhà Tống chưa làm gì được.
Tới năm 979, nhà Tống diệt được nước cuối cùng
trong “thập quốc" là nhà Bắc Hán ở phía bắc, thống
nhất được Trung Quốc rộng lớn. Do đấy, nhà Tống
lúc này quân đông thế mạnh. Trong khi đó ở ta, cũng
năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và con lớn là Đinh
Liễn đều bị cận thần sát hại. Con nhỏ là Đinh Toàn
mới 5 tuổi lên nối ngôi, vua Tống tính ngay chuyện
xâm lược nước ta. Thế là quan hệ ngoại giao giữa ta
và Tống trở thành xấu.
Khoảng những tháng đầu năm 980, viên quan Tống
coi Ung Châu (tức miền Quảng Tây bây giờ) báo cáo
về triều đình Tống rằng:
"An Nam quận vương và con là Liễn đều bị giết,
nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa
phương đánh lấy được, nếu bỏ lúc này không mưu sự
sợ mất cơ hội ” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tống triều vội nắm lấy cơ hội. Ngay tháng 7 năm
980, Tống triều quyết định "xuất kỳ bất ý đem quân
đánh úp. . . như sét đánh không kịp bưng tai " (Đại
Việt sử ký toàn thư). Nhà Tống bắt đầu họp quân,
tuyển tướng.