Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Kawabata Yasunari pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.53 KB, 4 trang )

Kawabata Yasunari



Kawabata Yasunari (tiếng Nhật: 川端 康成; 14 tháng 6 năm 1899 – 16 tháng 4 năm
1972) là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba, sau Rabindranath
Tagore (Ấn Độ năm 1913) và Shmuel Yosef Agnon (Israel năm 1966), đoạt Giải Nobel
Văn học vào năm 1968 nhân kỷ niệm 100 năm hiện đại hóa văn học Nhật Bản tính từ
Duy Tân Minh Trị 1868. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê
bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ
đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc
giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung
cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật. I. TIỂU SỬ.


Kawabata sinh ở Osaka, mồ côi từ năm lên 2, từ đó cậu bé và chị sống cùng ông bà
ngoại. Khi cậu lên 7 thì thì bà ngoại qua đời, lên 9 thì mất chị, được 14 tuổi thì mất cả
ông ngoại, cậu phải về Tokyo sống với gia đình người dì.

Đứa trẻ ốm yếu lại côi cút Kawabata chỉ còn biết tựa mình vào năng lực sáng tạo, phong
kín vết thương tâm hồn của mình bằng cuộc tìm kiếm mê mải cái đẹp trong cuộc đời.

Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương, một
thiếu nữ ông gọi là Chiyo. Ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị xong,
nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích.

"Không bao giờ tôi trút được ám ảnh rằng mình là một người lang thang ưu sầu. Luôn
luôn mơ mộng tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hoàn toàn trong mơ, mà vẫn luôn tỉnh
thức giữa khi mơ "
Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ
ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập Nhật ký tuổi mười sáu. Khi nó được


xuất bản vào năm 1925, tác phẩm đầu tay này có lẽ đã được viết lại dù trong đó, ấn tượng
của một thiếu niên trước cái chết của người thân (ông ngoại) vẫn còn rõ nét. Những ngày
cuối cùng khốn khổ của một người già yếu mù loà, cuộc sống cô độc của một thiếu niên
nhỏ bé đối diện với sinh ly tử biệt được thể hiện chân thực.


Bia kỷ niệm nơi sinh Kawabata

Hồi nhỏ, Kawabata vẫn mơ ước vẽ tranh. Nhưng đến tuổi mười lăm, ông cảm thấy mình
có tài viết hơn là vẽ, nên quyết định chọn con đường văn chương. Do đó mà trong văn
xuôi Kawabata, những phong cảnh thiên nhiên và thế giới tâm hồn không ngớt mở ra
trước mắt ta những màu sắc tinh tế.


Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo mà đáng chú ý nhất
là tờ Mainichi Shimbun ở Osaka và Tokyo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái
quân phiệt trong Đệ nhị thế chiến, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật
Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh là một trong những ảnh hưởng quan trọng
nhất đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ); một thời gian ngắn
sau đó ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi.

Năm 1972 Kawabata tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng ở Hayama, Kamakura.
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nào là sức khoẻ kém, nào là một cuộc tình bị cấm đoán,
nào là cú sốc do vụ tự tử của bạn ông, nhà văn Mishima Yukio năm 1970. Tuy nhiên,
khác với Mishima, Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, và vì trong các tác phẩm của
ông không có gợi ý gì, đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự.

II. SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG.

Thơ ca và truyện ngắn của Kawabata được ấn hành ngay từ lúc ông còn là học sinh trung

học. Tình yêu thơ ca thấm đư
ợm trong từng trang văn của ông, đặc biệt với loại truyện rất
ngắn mà ông gọi là truyện ngắn trong lòng bàn tay, loại truyện mà ông luôn thích viết
trong suốt cuộc đời mình, như ông giải thích: "Tuổi trẻ trong đời nhiều nhà văn thường
dành cho thơ ca; còn tôi, thay vì thơ ca, tôi viết những tác phẩm nhỏ gọi là truyện ngắn
trong lòng bàn tay Hồn thơ những ngày trẻ tuổi của tôi sống sót trong những câu
chuyện ấy "

Vào Đại học Tokyo, Kawabata nghiên cứu cả văn học Anh lẫn văn học Nhật. ông say mê
thơ văn cổ điển dân tộc như Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu, Sách gối đầu của
Sein Shonagon lẫn các tác giả hiện đại Tây phương như Marcel Proust, James Joyce

Khi còn là sinh viên ông đã cùng với Yokomitsu Riichi lập ra tờ Văn nghệ thời đại
(Bungei jidai) làm cơ quan ngôn luận cho trường phái văn học tân cảm giác
(shinkankaku-ha) nhằm thực hiện một "cuộc cách mạng văn học đối đầu với làn sóng văn
học cách mạng đương thời". Chọn con đường riêng cho mình, Kawabata tự bạch: "Tôi đã
tiếp nhận nồng nhiệt văn chương Tây phương hiện đại và tôi cũng đã thử bắt chước nó,
nhưng chủ yếu tôi là một người Đông phương và suốt mười lăm năm qua tôi chưa từng
đánh mất phong cách ấy của mình."

Một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp, ông bắt đầu được công nhận nhờ một số truyện
ngắn, và được khen ngợi với truyện Vũ nữ xứ Izu (伊豆の踊り子) năm 1926, nói về
những quyến rũ mới chớm của tình yêu tuổi trẻ. Các tác phẩm sau này của ông sẽ đi vào
những chủ đề tình yêu tương tự. Các nhân vật của ông thường là các cô gái rất đẹp và trẻ,
ông luôn hướng đến một vẻ đẹp vẹn toàn, ông cũng là người tôn sùng vẻ đẹp mỏng manh
và luôn sử dụng ngôn ngữ đầy hình ảnh u ẩn về cuộc sống thiên nhiên và số phận con
người.

Xứ tuyết (雪国), tiểu thuyết đầu tiên của Kawabata, được bắt đầu năm 1934, đăng nhiều
kỳ từ 1935 đến 1937, và chỉ hoàn tất năm 1947. Chuyện tình giữa một tay chơi từ Tokyo

và một nàng ca kỹ (geisha) tỉnh lẻ diễn ra tại một thị trấn xa xôi đâu đó phía tây rặng
Alps Nhật Bản (dãy núi chia đôi đảo Honshu). Vẻ đẹp của tuyết, của các mùa, của người
nữ hòa quyện trên từng trang sách, đẹp như thơ, đưa tác phẩm ngay lập tức trở thành cổ
điển, và như lời Edward G. Seidensticker, "có lẽ là kiệt tác của Kawabata", đã đưa
Kawabata vào số những nhà văn hàng đầu nước Nhật.

Sau Đệ nhị thế chiến, ông tiếp tục thành công với những tiểu thuyết như Ngàn cánh hạc
(千羽鶴, một chuyện tình bất hạnh trong khung cảnh trà đạo), Tiếng rền của núi
(山の音), Người đẹp say ngủ (眠れる美女) và Cái đẹp và nỗi buồn
(美しさと哀しみと, tiểu thuyết cuối cùng của ông, lại một câu chuyện đam mê với kết
cuộc buồn).


Viện bảo tàng Kawabata

Bản thân Kawabata cho rằng tác phẩm hay nhất của mình là Danh thủ cờ vây (名人,
1951), truyện ngắn này tương phản rõ rệt với những tác phẩm khác. Truyện kể lại (có hư
cấu thêm) một ván cờ vây năm 1938, mà ông đã tường thuật cho báo Mainichi. Đó là ván
cờ cuối cùng của danh thủ Shūsai, ông này đã thua người thách đấu trẻ hơn mình, rồi qua
đời một năm sau. Mặc dù truyện có vẻ hời hợt, chỉ là thuật lại một cuộc đấu tranh lên đến
đỉnh điểm, một số độc giả cho rằng đó là ẩn dụ thất bại của Nhật Bản trong Đệ nhị thế
chiến, số khác lại coi là cuộc đấu tranh giữa truyền thống và hiện đại.

Năm 1968, Kawabata được trao tặng giải Nobel với lời ca ngợi của Viện Hàn lâm Thụy
Điển: "Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời
sống thiên nhiên và trong định mệnh con người" (diễn văn của tiến sĩ Anders Usterling
trong lễ trao giải).

Là chủ tịch Hội Văn Bút Nhật Bản trong nhiều năm sau chiến tranh, Kawabata đã thúc
đẩy việc dịch văn học Nhật sang tiếng Anh và các thứ tiếng phương tây khác.


III. CÁC TÁC PHẨM CHÍNH.

- Lễ chiêu hồn, truyện ngắn (Shokonsai ikkei, 1921)
- Vũ nữ Izu (伊豆の踊り子 Izu no Odoriko 1926)
- Những truyện ngắn trong lòng bàn tay (掌の小説 Tenohira no shosetsu, 1926)
- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurerai dan, 1930)
- Thuỷ tinh huyền tưởng (Suisho genso, 1931)
- Cầm thú (Kinju, 1933)
- Xứ tuyết, tiểu thuyết đầu tiên (雪国 Yukiguni, 1935-37, 1947)
- Ngàn cánh hạc (千羽鶴 Sembazuru, 1949-52)
- Danh thủ cờ vây (名人 Meijin, 1951-54)
- Tiếng rền của núi (山の音 Yama no Oto, 1949-54)
- Hồ (Mizuumi, 1955)
- Người đẹp say ngủ (眠れる美女 Nemueru bijo, 1961)
- Cố đô (古都 Koto, 1962)
- Cái đẹp và nỗi buồn (美しさと哀しみと Utsukushisa to Kanashimi to, 1964)
- Cánh tay, truyện ngắn (1965)
- Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, diễn từ nhận giải Nobel (Utsukushii Nihon no watakushi,
1968)
- Tóc dài (Kani wa Nagaku, 1970)

(vi.wikipedia.org)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×