Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

nghiên cứu về các công cụ tạo động lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.11 KB, 27 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
o0o




BÀI TẬP NHÓM
MÔN: QUẢN LÝ HỌC


Đề tài:
NGHIÊN CỨU VỀ CÁC CÔNG CỤ TẠO ĐỘNG LỰC

Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Đỗ Thị Hải Hà
Danh sách nhóm : Phạm Minh Thư – 11123912 – 255
Nguyễn Đình Hoàng – 11121522 – 103
Nguyễn Xuân Tuyến – 11124488 – 290
Vũ Hải Linh – 11122142 – 157
Phạm Thanh Vân – 11124550 – 293
Lớp tín chỉ : Quản lý học 1 (213)_5



Hà Nội, tháng 10/2013
Môi trường quản lí là tổng thể tất các yếu tố tác động hoặc có tác động lên hoặc
có tác động lên hệ thống mà nhà quản lí chịu trách nhiệm quản lí. Đặc điểm các
yếu tố của môi trường quản lí dù môi trường bên trong và bên ngoài của bất kì
một tổ chức nào cũng mang tính phức tạp, không ổn định và phụ thuộc lẫn nhau.


Với mục tiêu rèn luyện các kĩ năng phân tích môi trường quản lí nhằm nhận thức
và đưa ra các quyết định quản lí có hiệu quả, nhóm chúng em đã tìm hiểu và phân
tích môi trường quản lí của một trường tiểu học X tại địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong quản lý xã hội, nhà trường thường được xem là một dạng cụ thể của một tổ
chức. Đó là tổ chức có tính chất tương đối phức tạp, vừa có các quan hệ hoạt
động nghề nghiệp và vừa có quan hệ và hoạt động chính trị xã hội. Những tiêu chí
quan trọng của nhà trường: Thành tích học tập, môi trường hợp tác và tham gia,
tính thẩm mỹ của cảnh quan sư phạm và những quan hệ ứng xử, hiệu lực quản lý,
kết quả của việc thực hiện các chương trình giáo dục , hiệu suất đào tạo, văn hóa
nhà trường. Nhà trường có hiệu quả là nhà trường có văn hóa cao.
Đa số những nghiên cứu quản lý trường học bao gồm các vấn đề về chính sách,
quản lý nhân sự, quản lý chương trình giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục và
xã hội trong trường học, quản lý tài chính.
Qua tìm hiểu, bài tập được chia thành 2 phần:
Môi trường quản lí là tổng thể tất các yếu tố tác động hoặc có tác động lên hoặc
có tác động lên hệ thống mà nhà quản lí chịu trách nhiệm quản lí. Đặc điểm các
yếu tố của môi trường quản lí dù môi trường bên trong và bên ngoài của bất kì
một tổ chức nào cũng mang tính phức tạp, không ổn định và phụ thuộc lẫn nhau.
Với mục tiêu rèn luyện các kĩ năng phân tích môi trường quản lí nhằm nhận thức
và đưa ra các quyết định quản lí có hiệu quả, nhóm chúng em đã tìm hiểu và phân
tích môi trường quản lí của một trường tiểu học X tại địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong quản lý xã hội, nhà trường thường được xem là một dạng cụ thể của một tổ
chức. Đó là tổ chức có tính chất tương đối phức tạp, vừa có các quan hệ hoạt
động nghề nghiệp và vừa có quan hệ và hoạt động chính trị xã hội. Những tiêu chí
quan trọng của nhà trường: Thành tích học tập, môi trường hợp tác và tham gia,
tính thẩm mỹ của cảnh quan sư phạm và những quan hệ ứng xử, hiệu lực quản lý,
kết quả của việc thực hiện các chương trình giáo dục , hiệu suất đào tạo, văn hóa
nhà trường. Nhà trường có hiệu quả là nhà trường có văn hóa cao.
Đa số những nghiên cứu quản lý trường học bao gồm các vấn đề về chính sách,
quản lý nhân sự, quản lý chương trình giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục và

xã hội trong trường học, quản lý tài chính.
Qua tìm hiểu, bài tập được chia thành 2 phần:
 Phần 1. Môi trường quản lí.
Phần này là những tổng kết thảo luận về môi trường quản lí, xác định các hợp
phần của môi trường quản lí, bao gồm: môi trường bên trong và môi trường bên
ngoài.

 Phần 2. Mối quan hệ giữa tổ chức với môi trường bên ngoài.
Do tính chất môi trường bên ngoài luôn biến động, tạo ra sự không chắc chắn cho
nhà quản lí đặt ra yêu cầu nhà quản lí phải lựa chọn thay đổi để thích nghi với môi
trường hay ảnh hưởng đến môi trường để làm cho nó thích hợp hơn với yêu cầu
của tổ chức. Tìm hiểu mối quan hệ giữa tổ chức và môi trường giúp các nhà quản
lí đưa ra được quyết định nhằm duy trì và phát triển được tổ chức phù hợp với sự
thay đổi, biến động không ngừng của môi trường.

Phần 1. Môi trường quản lí
1. Môi trường bên ngoài:
a. Môi trường chung của tổ chức
 Môi trường kinh tế:
Các điều kiện kinh tế nói chung có ảnh hưởng quyết định đến thành công của một
tổ chức. với đối tượng tổ chức đang xét là một trường tiểu học, các yếu tố có
trong môi trường kinh tế có ảnh hưởng là:
- Khả năng đầu tư ngân sách nhà nước cho trường học: yếu tố cơ sở vật chất
của trường học, mức tiền lương và phụ cấp cho giáo viên, nhân viên trong
trường để đảm bảo môi trường học tập với đầy đủ trang bị cần thiết, đội
ngũ giáo viên tận tâm, nhiệt tình và bằng lòng với công việc Một sự thay
đổi trong cấu trúc nền kinh tế có ảnh hưởng to lớn đến các chính sách đầu
tư và phát triển giáo dục dòi hỏi bộ phận quản lí phải có các thay đổi mang
tính chiến lược để thích ứng phù hợp với những yêu cầu mới.
- Điều kiện kinh tế của gia đình các học sinh: mức thu nhập của gia đình học

sinh có ảnh hưởng đến sĩ số học sinh đi học (nhiều trường hợp do đói
nghèo mà trẻ em không được đến lớp đúng độ tuổi hoặc phải đi làm phụ
giúp gia đình), khả năng cho con em đi học với các thiết bị học tập đầy đủ,
đảm bảo sức khỏe thể chất cho các em khi đi học Sự thay đổi theo chu kì
kinh tế như các cuộc suy thoái kinh tế có ảnh hưởng to lớn đến việc làm và
thu nhập của gia đình sẽ gây ra nhiều tác động đến các quyết định của nhà
trường như: điều chỉnh học phí, cắt giảm phụ cấp giáo viên, giảm bớt các
hoạt động ngoài giờ học (tham quan, giải trí ).
- Các nguồn tài trợ khác: tùy theo điều kiện kinh tế của các vùng miền mà các
đơn vị công lập như trường học, bệnh viện có thể nhận được các khoản
tài trọ từ các công ty, tổ chức tuef thiện khác
 Môi trường chính trị và pháp luật:
Giống như con người, các tổ chức cũng phải chịu ảnh hưởng bởi các tác động
chính trị và pháp luật. Môi trường chính trị pháp luật bao gồm các yếu tố có ảnh
hưởng đến tổ chức như là kết quả của bầu không khí chính trị hay các quá trình
chính sách và pháp luật. Với hệ thống chính sách và pháp luật, nhà nước định
hướng, điều tiết hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Cụ thể:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định: “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo
dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân ” (điều 35 hiến pháp 1992). Theo đó nhà
nước quy định cụ thể mức học phí (miễn học phí cho bậc tiểu học), quy
định phổ cập giáo dục (bậc tiểu học là bắt buộc), khuyến khích toàn dân
đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi
- Nhà nước tạo điều kiện phát triển đội ngũ giáo viên, đầu tư cho nhiều dự
án nghiên cứu các phương pháp giảng dạy mới, hiệu quả, tích cực, đặc biệt
chú trọng thường xuyên đổi mới chương trình học bắt kịp những thay đổi
và yêu cầu mới của xã hội
Một số điều luật trong bộ luật giáo dục có quy định rõ ràng các chuẩn mực hành
vi và hoạt đọng của các trường tiểu học:

Điều 23. Quản lý tài sản, tài chính
1. Quản lý tài sản của tr¬ường tiểu học tuân theo các quy định của pháp luật.
Mọi thành viên trong trư¬ờng có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ tài sản nhà
trường.
2. Việc quản lý thu, chi từ các nguồn tài chính của nhà tr¬ường thực hiện theo
quy định hiện hành của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Điều 24. Chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học
1. Trường tiểu học thực hiện chư¬ơng trình giáo dục, kế hoạch dạy học do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; thực hiện kế hoạch thời gian năm
học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng địa phương.
2. Căn cứ vào kế hoạch dạy học và kế hoạch thời gian năm học, nhà trường cụ
thể hoá các hoạt động giáo dục và giảng dạy, xây dựng thời khoá biểu phù
hợp với tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh và điều kiện của địa phương.
Học sinh dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Việc dạy
và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
Học sinh tàn tật, khuyết tật học hoà nhập được thực hiện kế hoạch dạy học linh
hoạt phù hợp với khả năng của từng cá nhân và Quy định về giáo dục hoà nhập
dành cho người tàn tật, khuyết tật.
Điều 25. Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa được sử dụng chính thức trong giảng dạy, học tập ở
trường tiểu học và các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo
dục tiểu học.
2. Nhà trường có trách nhiệm trang bị tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt
động giảng dạy và nghiên cứu của giáo viên; khuyến khích giáo viên sử
dụng tài liệu tham khảo để nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Tài liệu học tập dành cho học sinh tàn tật, khuyết tật, học sinh có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn do Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn riêng.
Điều 26. Hoạt động giáo dục

1. Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động ngoài giờ
lên lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dư¬ỡng năng
khiếu, giúp đỡ học sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi
học sinh tiểu học.
2. Hoạt động giáo dục trên lớp đ¬ược tiến hành thông qua việc dạy học các
môn học bắt buộc và tự chọn.
3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt
động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá; hoạt
động bảo vệ môi trường; lao động công ích và các hoạt động xã hội khác.
Điều 30. Giáo viên
Giáo viên là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường tiểu
học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học.
Điều 31. Nhiệm vụ của giáo viên
1. Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo ch¬ương trình giáo dục, kế
hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản
lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia
các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả
giảng dạy và giáo dục.
2. Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh
dự, uy tín của nhà giáo; g¬ương mẫu trước học sinh, th¬ương yêu, đối xử
công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
3. Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
4. Rèn luyện sức khỏe, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để
nâng cao chất l¬ượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
5. Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các
quyết định của Hiệu trưởng; nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân công,
chịu sự kiểm tra của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục.
6. Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí
Minh, với gia đình học sinh và các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt

động giảng dạy và giáo dục.
7. Nhiệm vụ của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Tổng phụ trách Đội được quy
định cụ thể tại Điều 17, Điều 18, Điều 19 của Điều lệ này.
Điều 32. Quyền của giáo viên
1. Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo
dục học sinh.
2. Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; được
hưởng nguyên lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định khi được
cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
3. Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ
sức khoẻ theo chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo.
4. Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.
5. Được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 33. Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên
1. Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên tiểu học là có bằng tốt nghiệp
trung cấp sư phạm.
2. Giáo viên tiểu học có trình độ đào tạo trên chuẩn được hưởng chế độ chính
sách theo quy định của Nhà nước; được tạo điều kiện để phát huy tác dụng
trong giảng dạy và giáo dục. Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn được đào
tạo được nhà trường, các cơ quan quản lý giáo dục tạo điều kiện học tập,
bồi dưỡng đạt trình độ chuẩn để bố trí công việc phù hợp.
Điều 34. Hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục của giáo viên
1. Hành vi, ngôn ngữ ứng xử của giáo viên phải chuẩn mực, có tác dụng giáo
dục đối với học sinh.
2. Trang phục của giáo viên phải chỉnh tề, phù hợp với hoạt động s¬ư phạm.
Điều 35. Các hành vi giáo viên không được làm
1. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể học sinh và đồng
nghiệp.
2. Xuyên tạc nội dung giáo dục; dạy sai nội dung, kiến thức, không đúng với
quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

3. Cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.
4. ép buộc học sinh học thêm để thu tiền.
5. Uống rượu, bia, hút thuốc lá khi tham gia các hoạt động giáo dục ở nhà
trường, sử dụng điện thoại di động khi đang giảng dạy trên lớp.
6. Bỏ giờ, bỏ buổi dạy, tuỳ tiện cắt xén chương trình giáo dục.
Điều 36. Khen thưởng và xử lý vi phạm
1. Giáo viên có thành tích được khen thưởng, được tặng danh hiệu thi đua và
các danh hiệu cao quý khác theo quy định.
2. Giáo viên có hành vi vi phạm các quy định tại Điều lệ này thì tuỳ theo tính
chất, mức độ sẽ bị xử lý theo quy định.
Điều 46. Ban đại diện cha mẹ học sinh
Trường tiểu học có Ban đại diện cha mẹ học sinh của từng lớp và Ban đại diện cha
mẹ học sinh của trư¬ờng, tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Ban đại diện cha mẹ
học sinh do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Điều 47. Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
1. Nhà trường phối hợp với chính quyền, đoàn thể địa phương, Ban đại diện cha
mẹ học sinh của trường, các tổ chức chính trị - xã hội và cá nhân có liên quan,
nhằm:
a) Thống nhất quy mô, kế hoạch phát triển nhà trường, các biện pháp giáo
dục học sinh và quan tâm giúp đỡ học sinh cá biệt.
b) Huy động mọi lực lượng và nguồn lực của cộng đồng góp phần xây dựng
cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của nhà trường, chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành
mạnh, an toàn; tạo điều kiện để học sinh được vui chơi, hoạt động văn
hóa, thể dục thể thao phù hợp với lứa tuổi.
2. Giáo viên chủ nhiệm liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh của lớp để: thông
báo kết quả học tập của từng học sinh; thống nhất kế hoạch phối hợp giúp đỡ
học sinh yếu kém, giáo dục học sinh cá biệt; biểu dương kịp thời học sinh nỗ
lực học tập và rèn luyện tốt.


Điều 6. Phân cấp quản lý
1. Trường tiểu học do Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) quản lý.
2. Các lớp tiểu học, cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu
học quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Điều lệ này do cấp có thẩm
quyền thành lập quản lý.
3. Phòng giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
mọi loại hình trường, lớp tiểu học và các cơ sở giáo dục khác thực hiện
chương trình giáo dục tiểu học trên địa bàn.

 Môi trường văn hóa xã hội:
Môi trường xã hội trong đó có các tổ chức hoạt động tác động một cách có hệ
thống lên tổ chức.
- Về cơ cấu dân số, độ tuổi, giới tính, khu vực, chủng tộc có nahr hưởng đến
hoạt động điềuu hành của trường học. Ví dụ, với tâm lí sinh con trong
những năm Quý Mùi, Đinh Hợi là “tốt số” mà mùa tựu trường năm 2009 và
năm 2013 có số lượng trẻ lớp 1 nhập học tăng vọt, hay tâm lí và quan niệm
thích sinh con trai khiến tỉ lệ giới tính học sinh nam, nữ mất cân đối. Ngoài
ra, xu hướng di dân từ vùng ven đô vào vùng nội thành khiến tính trạng quá
tải ở các lớp học trong nhiều quận nội thành, trong khi các trường học tại
vùng ngoại thành lại “thiếu” học sinh, không khai thác hiệu quả nguồn lwucj
được phân bổ (giáo viên giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ). Bên cạnh đó, tính
trạng hôn nhân gia đình và cơ cấu gia đình (gia đình con một hay đông anh
em) cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tạo trường lớp của học sinh
- Các yếu tố văn hóa như quan điểm, quy tắc, phong tục tập quán truyền
thống, lối sống thói quen, trình độ giáo dục có ảnh hưởng to lớn đến hoạt
động dạy học tại trường lớp. Ông cha quan niệm”tên học lễ, hậu học văn”
nên trê em bậc tiểu học chưa học nhiều về các kiến thức khoa học, các em
được trang bị các lế nghĩa cơ bản như chào hỏi, quan hệ gia đình và xã hội(
biết thương yêu cha mẹ, kính trọng ông bà, thầy cô, yêu quý bạn bè )hình

thành nhân cách và những thói quen sống tốt đẹp, biết tránh xa những tệ
nạn Quan niệm và niềm tin vào học vấn và kiến thức cũng có thể giúp các
gia đình có cái nhìn tích cực về giáo dục, tạo điều kiện tốt nhất cho con em
đi học
- Các xu hướng và mốt thời thượng cúng tạo ra những ảnh hưởng đối với các
thay đổi của tổ chức. Ví dụ các hoạt động hội nhập kinh tế và sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin giúp cho các học sinh tiểu học sớm
được tiếp cận với tin học, ngoại ngữ và xu hướng ưa thích các học sinh
năng động sáng tạo được khuyến khích qua các cuộc thi như Giải toán qua
mạng, Viết thư UPU cũng đỏi hỏi nhà trường phải có những động thái
thay đổi phù hợp nhằm tạo ra các “đầu ra” phù hợp nhu cầu xã hội.
- Tính cạnh tranh của trườn học thể hiện ở niềm tin vào chất lượng dạy học
của giáo viên trong trường, qua đó phụ huynh có tin tưởng gửi gắm con em
mình. Điều đó được thể hiện ở thành tích, mặt bằng chất lượng học sinh khi
ra trường
 Môi trường công nghệ:
Mức độ phát triển của công nghệ trong xã hội hay cụ thể trong lĩnh vực thiết bị
dạy học quyết định trên phạm vi rộng các sản phẩm, dịch vụ nào được tạo ra,
những thiết bị nào được sử dụng và các quy trình quản lí ra sao.
- Các thiết bị dạy học như máy chiếu, máy tính, đồ dùng dạy học mới như bút
thông minh, giấy in nghiêng luyện chữ đẹp ngay từ khi mới xuất hiện đã
gay ra nhiều tác động thay đổi bộ mặt trường học. Các học sinh tiểu học
không còn chỉ đến lớp nhàm chán với những bài giảng không có hình ảnh
minh họa, thya vòa đó là những ví dụ với nhiều hình ảnh phù hợp tâm lí trẻ
em, khuyến khích và tạo hứng thú cho trẻ vơi bài học. Các thiết bị hỗ trợ
giảng dạy rẻ tiền, phổ biến cũng giúp các em có cơ hội “học mà chơi, chơi
mà học” là những thành quả công nghệ không thể chối cãi.
- Quản lí giáo dục được trở thành hệ thống đồng bộ nhất quán, tạo điều kiện
thuận lợi cho giám sát, kiểm tra, điều hành trong nội bộ trường học và các
cấp qaunr lí.

 Môi trường tự nhiên:
Các học sinh tiểu học tuy chưa có nhận thức đầy đủ về môi trường và thế giới tự
nhiên, nhưng dưới sức ảnh hưởng của thực trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,
khủng hoảng năng lượng, tình trạng ô nhiễm môi trường đã sớm đưa những bài
học về sử dụng nhiên liệu hiệu quả và có ý thức giữ gìn môi trường sống (đơn
giản như dạy các ẻm biết tắt các thiết bị điện khi không cần thiết, vứt rác đúng nơi
quy định, tham gia lao động bảo vệ môi trường ) trở nên gần gũi. Chính việc giáo
dục nhân cách và thói quen cho các em từ khi còn nhỏ là tiền đề để các em có sự
phát triển và cái nhìn đầy đủ về thế giới sau này, nhận thức được vai trò và những
việc bản thân nên làm và nên tránh.
 Môi trường quốc tế:
Ngày nay, những biến đổi của môi trường quốc tế có tác động đến hoạt động của
bất kì tổ chức hay hệ thống xã hội nào. Toàn cầu hóa làm cho mỗi yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội, công nghệ và tự nhiên đều có thể trỏ thành vấn đề mang
tính quốc tế.
Xu hướng hội nhập với nền kinh tế mở đã mang lại diện mạo mới cho nhiều
ngành, nhiều vùng kinh tế. Xã hội cũng trở nên cởi mở, năng động hơn, các thuật
ngữ như “công dân toàn cầu” được đưa vào trong trường học như một tiêu chí
mà nhiều hệ thống giáo dục theo đuổi. Trong đó, các kĩ năng giao tiếp ứng xử,
phản hồi tích cực được giảng dạy song song với chương trình học chính thức. Các
giờ học tiếng anh với người nước ngoài, các học sinh được hướng dẫn tự học và
tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn, khuyến khích sáng tạo và tham gia các hoạt
động ngoài giờ
b. Môi trường tác nghiệp
 Khách hàng
Khách hàng với đối tượng trường tiểu học X là các học sinh sử dụng dịch vụ giáo
dục công tại trường. Số lượng khách hàng hay chính là số học sinh đi học (sử dụng
dịch vụ công là giáo dục) có ảnh hưởng đến sự tồn tại của trường học. Mong
muốn của khách hàng hay chính là mong muốn của học sinh và phụ huynh học
sinh là con em họ được hưởng môi trường giáo dục tốt tại trường với mức chi phí

hợp lí. Điều này tạo ra động lực cho tổ chức trường học phải nâng cao chất lượng
giảng dạy để đáp ứng nhu cầu khách hàng.

 Nhà cung cấp.
Nhà cung cấp được hiểu là những cá nhân hay tổ chức bên cung ứng nhân lực, tài
lực, vật lực và thông tin – đầu vào của tổ chức bên mua. Trong trường hợp này,
nhà cung cấp thực chất là thị trường lao động, cụ thể là thị trường lao động có
nghiệp vụ sư phạm, kế toán, quản lí phục vụ nhân lực cho trường học đảm bảo
trường học sẽ vận hành trôi chảy. Cụ thể, với một tổ chức công các nguồn lực này
có thể được cung cấp không theo lựa chọn của nhà quản lí tổ chức (ban giám
hiệu) mà được bổ nhiệm, phân công công tác theo quyết định của các cơ quan
quản lí cấp trên.
Yêu cầu đặt ra của nhà quản lí (ban giám hiệu) là phải phát triển mối quan hệ của
tổ chức mình với thị trường cung cấp, cụ thể là xay dựng trường học có uy tín, có
chất lượng với những đảm bỏa lợi ích cho nguồn nhân lực, khiến tổ chức của họ
trở thành nơi thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
 Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là các tổ chức mà một tổ chức phải cạnh tranh để giành lấy
khách hàng và những nguồn lực cần thiết từ môi trường bên ngoài.
Với đối tượng tổ chức là trường tiểu học X đang xét, đối thủ cạnh tranh là các
trường tiểu học khác trong ngành giáo dục để giành được các học sinh ngoan,
giỏi.
Cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt hơn khi các trường lân cận cũng có được quy mô
và chát lượng tương tự. Việc tính toán đến các đối thủ cạnh tranh là yếu tố thúc
đẩy các nhà quản lí tổ chức phải có các chiến lược quản lí tốt hơn để nâng cao
chất lượng sản phẩm (dịch vụ giáo dục làm ra phục vụ và đáp ứng nhu cầu ngày
càng thay đổi và khó khăn hơn), thu hút được nhiều học sinh giỏi.
 Các nhóm lợi ích đặc biệt
Các nhóm lợi ích đặc biệt được xét cụ thể với đối tượng trường tiểu học đang xét
là hội phụ huynh học sinh và hội học sinh trong trường học có thể sử dụng các

hình thức liên quan tới chính trị và phương tiện truyền thông để ép các tổ chức
tiến hành điều chỉnh nhằm đem lại lợi ích cho các thành viên hoặc cho chính tổ
chức. Chẳng hạn hôi phụ huynh có thể gây sức ép với nhà trường yêu cầu cắt
giảm giờ học thêm quá nặng nề cho con em họ, thay vào đó là các giờ học ngoại
khóa phù hợp cho hoạt động thể chất, hoặc cắt giảm các phụ phí quá nhiều để xây
dựng,mua sắm các thiết bị mà học cho rằng không thật cần thiết
Trong trường hợp khách hàng (chính là các học sinh trong trường) lên tiếng về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ, ví dụ như học sinh lên tiếng về cách giảng bài khó
tieps thu, chậm đổi mới của các giáo viên gây ra sự bắt buộc thay đổi nhanh hơn
so với yếu tố cạnh tranh mang lại. Đây cũng là cơ hội để ban giám hiệu hiểu rõ và
lắng nghe được các yêu cầu của học sinh trong trường và học cách thay đổi tích
cực từ môi trường (yêu cầu mới của các khách hàng hay là yêu cầu từ môi trường
xã hội).
 Công đoàn
Công đoàn có nhiệm vụ đàm phán với các nhóm đối tượng khác (ban giám hiệu,
bộ phận quản lí cấp trên ) nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho những cán bộ,viên
chức, nhân viên trong trường. Ngoài chăm lo đời sống tinh thần cho các giáo viên,
nhân viên, công đoàn có nhiệm vụ thu thập các ý kiến, phản hồi vè điều kiện làm
việc, thời gian làm việc và tiền lương của mọi thành viên trong tổ chức.
 Nhà nước
Nhà nước với các chính sách, quy định nhằm duy trì , thúc đẩy, điều tiết tác
động trực tiếp đến xu hướng, chiến lược của một tổ chức xã hội. Với một tổ chức
công lập như trường tiểu học X, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, ví dụ,
nhà nước định hướng chương trình, mục tiêu giáo dục, phân bố ngân sách nhà
nước cho trường học. Chính sách ưu tiên phát triển giáo dục, phổ cập giáo dục
tiểu học đã giúp các trẻ em đi học tiểu học mà không phải trả học phí, chương
trình học liên tục được thay đổi, cập nhật sao cho phù hợp nhất với lứa tuổi và
yêu cầu nhận thức của trẻ em tiểu học Luật giáo dục đưa ra nhằm điều chỉnh
hành vi của những người tham gia các tổ chức giáo dục và có liên quan nhằm tạo
ra môi trường giáo dục toàn diện nhất, bảo vệ quyền lợi cho mọi học sinh khi

tham gia học tập
Để có thể vận hành tổ chức, các nhà quản lí (ban giám hiệu trường học) phải luôn
theo sát các diễn biến phức tạp của môi trường quản lí bên ngoài để kết hợp với
các yếu tố bên trong tổ chức, đặc thù riêng của tổ chức mà đưa ra các quyết định
kịp thời, chính xác.
2. Môi trường bên trong:
a. Tài chính
Với đối tượng tổ chức đang xét là trường tiểu học X, một tổ chức công hoạt động
phi lợi nhuận, năng lực tài chính được thể hiện:

- Các trường tiểu học xây dựng tủ sách dùng chung; bảo đảm ngay từ khi
bước vào năm học mới tất cả học sinh đều có sách giáo khoa để học tập.
- Giáo viên cần hướng dẫn sử dụng sách, vở hàng ngày để học sinh không
phải mang theo nhiều sách, vở khi tới trường; sử dụng có hiệu quả sách và
tài liệu của thư viện nhà trường. Nơi có điều kiện thì tổ chức cho học sinh
để sách vở, đồ dùng học tập tại lớp.
- Các Sở huy động các nguồn kinh phí để thực hiện việc cấp sách giáo khoa,
không thu tiền đối với học sinh ở địa bàn đặc biệt khó khăn, học sinh là con
liệt sỹ, con thương binh.
- Khuyến khích các trường áp dụng mô hình “thư viện xanh”, “thư viện thân
thiện” phù hợp điều kiện thực tế.
 Thiết bị dạy học
- Các sở chỉ đạo từng bước mua mới, thay thế, sửa chữa bàn ghế đáp ứng
các tiêu chuẩn theo quy định của Thông tư số 26/2011/TTLT-BGDĐT-
BKHCN-BYT ngày 16/6/2011 về Hướng dẫn tiêu chuẩn bàn ghế học sinh
trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông.
- Tổ chức kiểm tra, rà soát thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học (TBDH)
để có kế hoạch sửa chữa và bổ sung kịp thời theo danh mục thiết bị dạy học
tối thiểu đã ban hành (Thông tư số 15/2009/TT-BGDĐT ngày 16/7/2009),
đồng thời quản lí tốt việc sử dụng và bảo quản đồ dùng dạy học. Đối với

môn Tiếng Anh, thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 5893/BGDĐT-
CSVC ngày 06/9/2011, không khuyến khích việc mua sắm các thiết bị đắt
tiền, hiệu quả sử dụng thấp.
- Khai thác các nguồn lực nhằm tăng cường các TBDH hiện đại, thiết bị dạy
học có yếu tố công nghệ thông tin, phần mềm dạy học Tiếng Việt, Toán, Tự
nhiên và Xã hội.
- Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của viên chức làm
công tác TBDH, tiếp tục đẩy mạnh phong trào tự làm đồ dùng dạy học
thông qua các hoạt động làm mới, cải tiến, sửa chữa đồ dùng dạy học; thu
thập, tuyển chọn các sản phẩm tốt để lưu giữ, phổ biến, nhân rộng trong
toàn ngành.
- Triển khai Đề án “Phát triển thiết bị dạy học tự làm giáo dục mầm non và
phổ thông giai đoạn 2010-2015” theo Quyết định số 4045/QĐ-BGDĐT ngày
16/9/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
b. Nghiên cứu khoa học và phát triển
Trong các trường học (cơ sở giáo dục): bên cạnh chức năng dạy học; quản lý, giáo
dục người học của các thầy, cô giáo, cán bộ trong hội đồng nhà trường còn có một
nhiệm vụ rất quan trọng đó là “đúc rút sáng kiến kinh nghiệm, làm đề tài nghiên
cứu khoa học (NCKH) và làm đồ dùng dạy học”. Tùy theo từng tính chất của
chuyên môn, nhiều cơ sở giáo dục còn coi đây là nhiệm vụ bắt buộc đối với cán
bộ, giáo viên. Tuy nhiên nhiệm vụ này đến nay luôn là vấn đề khó, thậm chí là bế
tắc đối với nhiều cán bộ, giáo viên (nhất là đối với khối Mầm non và Tiểu học): có
người không biết cách làm, có người biết cách làm nhưng không thể hiện cho
người khác hiểu được (không biết báo cáo thành văn bản), nhiều người lại coi đây
là công việc của các nhà khoa học, hoặc của lãnh đạo đơn vị; chính vì vậy nhiên
nhiệm vụ này luôn là một phần trong “bài toán quản lý” mà các nhà quản lý trong
các cơ sở giáo dục luôn khó giải hoặc giải được nhưng “đáp số chưa tối giản”.
Bản chất “Khoa học”: là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức
mới, học thuyết mới về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới
này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp.

“Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội hư¬ớng vào tìm kiếm những điều
mà khoa học chưa biết; hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức
khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phư¬ơng pháp mới và phương tiện kĩ thuật
mới để cải tạo thế giới”
Như vậy Bản chất “Nghiên cứu khoa học” là một họat động tìm kiếm, xem xét,
điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được
từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế
giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới
cao hơn, giá trị hơn.
Với cách hiểu như¬ vậy, ngoài các công trình NCKH lớn như: điều tra, khảo sát để
rồi tìm ra một quy luật gì đó hoặc đổi mới, cải tiến một vấn đề gì đó để mang lại
hiệu quả thì chúng ta có thể thấy trong các nhà trường, một số hoạt động như¬:
việc tự làm đồ dùng dạy học để minh hoạ cho hoạt động giảng dạy trên lớp có
hiệu quả, việc đúc rút sáng kiến một kinh nghiệm nào đó trong hoạt động giáo
dục, dạy học nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động, việc thiết kế một bài giảng
áp dụng công nghệ mới để nâng cao hiệu quả giờ giảng bài; hoặc trong cơ sở giáo
dục nào đó: việc cải tiến, đổi mới lề lối làm việc mang lại hiệu quả, việc tìm ra biện
pháp mới cho công việc nào đó nhằm giảm bớt chi phí hoặc giảm bớt thời gian
làm việc, cũng chính là các hoạt động NCKH.
Việc nâng tầm các hoạt động nói trên, đưa cơ sở lý luận theo một quy định nào
đó mang tính khoa học vào và thuyết phục được người đọc có thể gọi chung là
làm đề tài nghiên cứu khoa học.
c. Sản xuất.
Có thể hiểu, thị trường là nơi hoặc lĩnh vực trao đổi hàng hóa hoặc tiến hành mua
bán. Còn thị trường giáo dục - nếu thừa nhận sự tồn tại của nó - thì phải được xét
trên các lĩnh vực như: sự nghiệp giáo dục, nguồn lực giáo dục, sản phẩm của giáo
dục và dịch vụ giáo dục cũng như cái gì là nơi có thể trao đổi, mua bán.
- Về sự nghiệp giáo dục :
Về việc giáo dục liệu có phải là sản xuất công nghiệp hay không, thì cho đến nay,
giới kinh tế học giáo dục đưa ra những ý kiến, góc nhìn và nhận xét khác nhau,

thậm chí còn trái ngược nhau về căn bản. Tuy nhiên, chính điều này đã thu hút sự
chú ý của rất nhiều người, đặc biệt là những người làm công tác nghiên cứu lý
luận giáo dục. Trong đó, sự nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với
nội hàm cải cách giáo dục là một vấn đề rất được quan tâm.
- Quan niệm giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt
Quan niệm này cho rằng: nếu chúng ta định nghĩa công nghiệp là sự nghiệp hoạt
động sản xuất, thì giáo dục mang tính sản xuất đương nhiên phải là một ngành
trong lĩnh vực sản xuất. Trên thế giới, thông thường giáo dục được xếp vào ngành
sản xuất thứ ba. Năm 1992, ở Trung Quốc, quyết định về ngành sản xuất thứ ba
do Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Vụ viện Trung Quốc đưa ra rõ ràng; rằng
sự nghiệp giáo dục là trọng điểm của ngành sản xuất thứ ba, và chỉ rõ giáo dục là
"ngành cơ bản có ảnh hưởng toàn diện, dẫn dắt đối với sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân"; đồng thời cho rằng, tính chất của sản xuất giáo dục là do tính
chuyên ngành, tính sản xuất, tiêu hao nguồn vốn và tính có thể kinh doanh của nó
quyết định. ở Việt Nam, với cải cách giáo dục năm 1981, giáo dục được xếp vào
lĩnh vực công nghiệp và lương giáo viên được xếp theo thang lương kỹ sư.
Tính đặc thù của sản xuất giáo dục là do ba đặc tính cơ bản của nó quyết định,
bao gồm giáo dục là ngành sản xuất có tính nền tảng, giáo dục là ngành sản xuất
gián tiếp và giáo dục là ngành sản xuất có hiệu quả rất lâu dài. Quan điểm này góp
phần làm rõ vai trò và vị trí chiến lược của giáo dục, cung cấp lý luận trụ cột mới
cho lộ trình cải cách giáo dục được sâu hơn.
Ở nước ta, với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì quá
trình ấy cần chú trọng sự gắn liền quá trình này với lịch sử phát triển giáo dục. Hay
nói cách khác, muốn xem giáo dục có phải là hàng hóa hay hàng hóa ở góc độ nào,
thì hãy xem sản phẩm của nó phục vụ cho ai, tức là sự nghiệp giáo dục có thuộc
về quốc gia, dân tộc của chúng ta hay không?
Trên cơ sở đó, người ta cho rằng, giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt, một ngành
đào tạo con người để đặc biệt phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. Mặt khác, sản
phẩm của giáo dục lại có thể đóng góp làm cho các ngành nghề khác tăng GDP. Do
giá trị đặc biệt của sản phẩm giáo dục là có thể trở thành nhu cầu tiêu thụ của xã

hội, và vì vậy, lẽ đương nhiên, giáo dục là một ngành sản xuất.
Tuy nhiên, nếu giáo dục là một ngành sản xuất, thì nó cũng phải chịu sự chế ước
và chi phối của quy luật kinh tế thị trường. Nhưng tự bản thân giáo dục cũng có
quy luật riêng, cố hữu của nó, và tất yếu vấn đề chiến lược xây dựng và phát triển
giáo dục của một đất nước lại phải tuân theo quy luật của bản thân ngành giáo
dục và quy luật xây dựng và phát triển của đất nước đó.
- Quan niệm giáo dục là yếu tố sản xuất
Quan niệm này cho rằng, giáo dục là yếu tố sản xuất quan trọng nhất của sản xuất
xã hội. Bởi vì, nhân tài và người lao động chính là sản phẩm của giáo dục và đào
tạo. Nói cách khác, sản phẩm từ sản xuất giáo dục là sức lao động có tri thức và kỹ
năng nhất định, có "giá trị" và "giá trị sử dụng".
- Quan niệm giáo dục không là sản xuất
Nhiều học giả trên thế giới không hoàn toàn đồng ý với quan niệm giáo dục "là
một ngành sản xuất", khi cho rằng, cần phải coi quá trình giáo dục là tái sản xuất
tri thức về văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Nếu xét từ góc độ này, giáo dục cũng có
tính sản xuất nhất định. Mặc dù bản thân giáo dục không trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất nhưng đã "sản xuất" ra những con người làm ra của cải vật chất.
 Về sản phẩm giáo dục:
- Sản phẩm và hoạt động của dịch vụ giáo dục là hàng hóa. Sản phẩm và dịch
vụ giáo dục được tiến hành trao đổi, bao gồm sản phẩm dịch vụ giáo dục và
sản phẩm của các ngành khác. Người ta cho rằng, nếu không có kiểu trao
đổi này, quan điểm giáo dục là ngành sản xuất sẽ không còn tồn tại. Vì vậy,
sản phẩm dịch vụ giáo dục phải là hàng hóa và cần phải được thị trường
hóa. Bởi vì:
Những thứ mà dịch vụ giáo dục cung cấp, mặc dù giá trị sử dụng là đặc biệt,
nhưng xét về bản chất, nó cũng như các hàng hóa khác. Vì vậy, dịch vụ do
giáo dục cung cấp có thể nói chính là hàng hóa.
Các kiểu dịch vụ hoặc bản thân hoạt động lao động có giá trị, khi trao đổi
trên thị trường, về bản chất, không có gì khác về mặt hình thức so với các
hàng hóa khác.

Thực chất của quan niệm thu hút lực lượng lao động qua đào tạo - hay nói
cách khác - năng lực làm việc của người lao động là sự đầu tư tiền bạc khi
tiến hành đào tạo, tức là đã tạo giá trị cho lực lượng lao động đó vào thị
trường lao động. Với trình độ giáo dục khác nhau thì lực lượng lao động có
trình độ và khả năng làm việc khác nhau, nên cũng có giá trị khác nhau khi
tham gia thị trường.
Sản phẩm giáo dục không phải là hàng hóa. Nhiều người cho rằng, giáo dục
không giống sản xuất hàng hóa, bởi sản xuất thì lấy việc không ngừng hạ
thấp giá thành và theo dõi lợi nhuận làm mục tiêu. Còn giáo dục thì lấy
nhiệm vụ chính trị làm mục tiêu. Những người lao động được giáo dục -
đào tạo nói chung, thường không bị coi là hàng hóa trên thị trường. Phần
lớn kinh phí giáo dục trên thế giới đều do nhà nước chịu trách nhiệm, học
sinh và gia đình chỉ gánh vác một phần học phí hoặc toàn bộ học phí chứ
không phải là toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Giáo dục trải qua bao nhiêu thế
kỷ đều được khẳng định là ngoài chức năng và giá trị kinh tế, còn có các
chức năng và giá trị chính trị, chức năng văn hóa Nếu quá nhấn mạnh vào
vấn đề chức năng kinh tế của giáo dục thì khó bảo đảm được chức năng xã
hội và chính trị. Điều này cũng có nghĩa là khó bảo đảm tính công bằng
trong giáo dục.
 Về thị trường giáo dục:
- Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất
Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất của giáo dục là ngoài các sản phẩm
vật chất, do nhà trường trực tiếp sản xuất, đầu tư, còn tăng cường góp phần làm
cho nền kinh tế thị trường thêm phồn vinh. ở đây, chủ yếu là thông qua việc thể
hiện vai trò của giáo dục đối với phát triển sản xuất hàng hóa mang hình thái vật
chất, được phản ánh thông qua việc rút ngắn thời gian lao động cần thiết của xã
hội, nâng cao hiệu suất sản xuất lao động, hàng hóa sản xuất càng nhiều trong
cùng một đơn vị thời gian, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao.
- Thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động
Rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: thị trường nhân tài, thị trường lực lượng

lao động là vấn đề hạt nhân, là khâu then chốt của việc nghiên cứu mối quan hệ
và sự tác động của nó đối với thị trường. Nó được thể hiện chủ yếu trên ba mặt
sau đây:
Trong điều kiện sản xuất hiện đại hóa, nhân tài và sức lao động vừa là đối tượng
để giáo dục đào tạo, vừa là người lao động trong các ngành sản xuất, lĩnh vực sản
xuất hàng hóa; là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Giải quyết mâu
thuẫn giữa cung và cầu về nhân tài chuyên ngành và các loại lực lượng lao động,
vừa thể hiện bằng hình thức điều động, phân công của nhà nước, vừa có sự điều
tiết bằng quy luật cung - cầu của thị trường.
Mối quan hệ nội tại giữa giáo dục với thị trường nhân tài và thị trường lực lượng
lao động lại thể hiện ở vai trò của đào tạo nhân tài chuyên ngành và huấn luyện
lực lượng lao động chuyên môn sâu. Giáo dục, xét về góc độ thực tế, phải đáp
ứng yêu cầu của thị trường nhân tài và thị trường lao động chuyên ngành. Nếu
lực lượng này đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của thời đại, thì chắc chắn sẽ đứng
vững trong thị trường cạnh tranh nhân tài và lực lượng lao động.
d. Cơ cấu tổ chức của trường tiểu học
 Lớp học, tổ học sinh, khối lớp học, điểm trường
- Học sinh được tổ chức theo lớp học. Lớp học có lớp trưởng, một hoặc hai
lớp phó do tập thể học sinh bầu ra hoặc do giáo viên chủ nhiệm lớp chỉ định
luân phiên trong năm học.Mỗi lớp học có một giáo viên chủ nhiệm phụ
trách giảng dạy một hoặc nhiều môn học.
- Mỗi lớp học đ¬ược chia thành nhiều tổ học sinh. Mỗi tổ có tổ trưởng, tổ
phó do học sinh trong tổ bầu ra hoặc do giáo viên chủ nhiệm lớp chỉ định
luân phiên trong năm học.
- Những lớp cùng trình độ được lập thành khối lớp để phối hợp các hoạt
động chung.
 Tổ chuyên môn
- Tổ chuyên môn bao gồm giáo viên, viên chức làm công tác thư viện, thiết bị
giáo dục. Mỗi tổ có ít nhất 5 thành viên. Tổ chuyên môn có tổ trưởng, tổ
phó.

- Nhiệm vụ của tổ chuyên môn:
a. Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm
học nhằm thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và các hoạt
động giáo dục khác;
b. Thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất
lượng, hiệu quả giảng dạy, giáo dục và quản lý sử dụng sách, thiết bị
của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường;
c. Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo quy định Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học và giới thiệu tổ trưởng, tổ phó.
 Tổ văn phòng
Mỗi trường tiểu học có một tổ văn phòng gồm các viên chức làm công tác y tế
trường học, văn thư, kế toán, thủ quỹ và nhân viên khác. Tổ văn phòng có tổ
trưởng, tổ phó.
- Nhiệm vụ của tổ văn phòng:
a. Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm
nhằm phục vụ cho việc thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và
các hoạt động giáo dục khác của nhà trường;
b. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng,
hiệu quả công việc của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà
trường;
c. Tham gia đánh giá, xếp loại viên chức; giới thiệu tổ trưởng, tổ phó;
d. Lưu trữ hồ sơ của trường.
 Hiệu trưởng
Hiệu trưởng trường tiểu học là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt
động và chất lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng do Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện bổ nhiệm đối với trường tiểu học công lập, công nhận đối với
trường tiểu học tư thục ýtheo đề nghị của Trưởng phòng giáo dục và đào tạo.
Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng trường công lập là 5 năm; hết nhiệm kỳ, Hiệu trưởng
được luân chuyển đến một trường khác lân cận hoặc theo yêu cầu điều động.
Hiệu trưởng chỉ được giao quản lý một trường tiểu học.

Sau mỗi năm học, Hiệu trưởng trường tiểu học được cấp có thẩm quyền đánh giá
về công tác quản lý các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường.
Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Hiệu trưởng trư¬ờng tiểu học phải là
giáo viên có thời gian dạy học ít nhất 3 năm ở cấp tiểu học, đã hoàn thành chương
trình bồi dưỡng cán bộ quản lý, có uy tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có năng lực quản lý trường học và có sức khoẻ.
Trường hợp do yêu cầu đặc biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công
nhận Hiệu trưởng có thể có thời gian dạy học ít hơn theo quy định.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng:
a) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực
hiện kế hoạch dạy học, giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả
thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
b) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong
nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội
đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
c) Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng,
thuyên chuyển; khen th¬ưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên
theo quy định;
d) Quản lý hành chính; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài
sản của nhà trường;
e) Quản lý học sinh và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà tr-ường; tiếp
nhận, giới thiệu học sinh chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỷ luật,
phê duyệt kết quả đánh giá, xếp loại, danh sách học sinh lên lớp, ở lại lớp;
tổ chức kiểm tra, xác nhận việc hoàn thành chương trình tiểu học cho học
sinh trong nhà trường và các đối tượng khác trên địa bàn trường phụ trách;
f) Dự các lớp bồi d¬ưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý; tham
gia giảng dạy bình quân 2 tiết trong một tuần; được hư¬ởng chế độ phụ cấp
và các chính sách ưu đãi theo quy định;
g) Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị -
xã hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục;

h) Thực hiện xã hội hoá giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng
đồng.
 Phó Hiệu trưởng
- Phó Hiệu trưởng là ngư¬ời giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm
trước Hiệu trưởng, do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm đối
với trường công lập, công nhận đối với trường tư thục theo đề nghị của
Trưởng phòng giáo dục và đào tạo.
- Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Phó Hiệu trưởng trư-ờng tiểu
học phải là giáo viên có thời gian dạy học ít nhất 2 năm ở cấp tiểu học, có
uy tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có
năng lực quản lý trường học và có sức khoẻ. Trường hợp do yêu cầu đặc
biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công nhận Phó Hiệu trưởng
có thể có thời gian dạy học ít hơn theo quy định.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Hiệu trưởng:
a. Chịu trách nhiệm điều hành công việc do Hiệu trưởng phân công;
b. Điều hành hoạt động của nhà trư¬ờng khi đ¬ược Hiệu trưởng uỷ
quyền;
c. Dự các lớp bồi d¬ưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý;
tham gia giảng dạy bình quân 4 tiết trong một tuần; được hư¬ởng
chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định.
 Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
- Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (sau đây gọi là Tổng
phụ trách Đội) là giáo viên tiểu học được bồi dưỡng về công tác Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh.
- Tổng phụ trách Đội có nhiệm vụ tổ chức, quản lý các hoạt động của Đội
Thiếu niên và Sao Nhi đồng ở nhà trường và tổ chức, quản lý hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Mỗi trường tiểu học có một Tổng phụ trách Đội
do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo bổ nhiệm, theo đề nghị của Hiệu
trưởng trư¬ờng tiểu học.
 Hội đồng trường

Hội đồng trường đối với trường công lập, Hội đồng quản trị đối với trường tư
thục được gọi chung là Hội đồng trường. Hội đồng trường là tổ chức chịu trách
nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của nhà trường, huy động và giám
sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, gắn nhà trường với cộng
đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Cơ cấu tổ chức, hoạt động và thủ tục thành lập Hội đồng trường tiểu học công
lập:
a) Cơ cấu tổ chức:
Hội đồng trường tiểu học công lập gồm: đại diện tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam, Ban giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng), đại diện Công đoàn,
đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng phụ trách Đội, đại diện các
tổ chuyên môn, đại diện tổ văn phòng;
Hội đồng trường có chủ tịch, thư ký và các thành viên khác. Chủ tịch Hội đồng
trường công lập không đồng thời là Hiệu trưởng. Số lượng thành viên của Hội
đồng trường từ 9 đến 11 người.
b) Hoạt động của Hội đồng trường:
Hội đồng trường họp thường kỳ ít nhất hai lần trong một năm. Trong trường hợp
cần thiết, khi Hiệu trưởng hoặc ít nhất một phần ba số thành viên Hội đồng
trường đề nghị, Chủ tịch Hội đồng trường có quyền triệu tập phiên họp bất
thường để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
và quyền hạn của nhà trường. Chủ tịch Hội đồng trường có thể mời đại diện chính
quyền và đoàn thể địa phương tham dự cuộc họp của Hội đồng trường khi cần
thiết;
Phiên họp Hội đồng trường được công nhận là hợp lệ khi có mặt từ ba phần tư số
thành viên của hội đồng trở lên (trong đó có Chủ tịch hội đồng). Nghị quyết của
Hội đồng trường được thông qua và có hiệu lực khi được ít nhất hai phần ba số
thành viên có mặt nhất trí. Các nghị quyết của Hội đồng trường được công bố
công khai trong toàn trường;
Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm thực hiện các nghị quyết hoặc kết luận
của Hội đồng trường về những nội dung được quy định tại khoản 3 của Điều này.

Khi Hiệu trưởng không nhất trí với nghị quyết hoặc kết luận của Hội đồng trường,
phải kịp thời báo cáo xin ý kiến cơ quan quản lý giáo dục cấp trên trực tiếp. Trong
khi chờ ý kiến của cấp trên, Hiệu trưởng vẫn phải thực hiện theo nghị quyết hoặc
kết luận của Hội đồng trường đối với những vấn đề không trái với pháp luật hiện
hành và Điều lệ trường tiểu học.
 Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và đoàn thể trong tr¬ường
- Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong tr¬ường tiểu học lãnh đạo nhà
trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của
Đảng.

×