Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội (19911995) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.51 KB, 11 trang )

Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội (19911995)

1 . Đại hội lấn thứ VII - Đại hội tiếp tục cơng cuộc đổi mới Trong q trình thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc tế phức tạp đã tác động xấu đến
tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta.

1 . Đại hội lấn thứ VII - Đại hội tiếp tục công cuộc đổi mới
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc tế
phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta. Nhưng
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tịi,
khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khn mẫu cho trước, từng bước đưa
đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Tuy tình hình cách mạng cịn nhiều
khó khăn, song với kết quả đạt được trong bước đầu đổi mới đã có thể xác nhận
khả năng tự đổi mới của nhân dân ta là hiện thực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-61991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra
chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu ưu điểm đã đạt
được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong bước đầu đổi mới ngăn
ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, điều chỉnh, bổ sung, phát triển
đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
của đất nước tiến lên.
Ngoài việc quyết định những công việc cách mạng trong nhiệm kì, Đại hội VII
của Đảng cịn quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài. Đó là việc thơng
qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
"Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000". Đại hội đã bầu
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) gồm 146 ủy viên, Bộ Chính trị
BCHTƯ gồm 13 ủy viên. Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư của Đảng.
Bước vào nhiệm ki Đại hội VII của Đảng, vào thập niên cuối cùng của thế kỉ
XX đã có nhiều biến động to lớn, tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử lồi
người. Bối cảnh quốc tế và nước ta có những thay đổi lớn, tác động đến quá trình



đổi mới của ta, bắt đầu từ Đại hội VI và tiếp tục sau Đại hội VII của Đảng.
Tình hình quốc tế. Về chính trị, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường việc thực hiện âm
mưu "diễn biến hịa bình"; kích động việc thực hiện đa ngun chính trị, đa đảng,
nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi trụy,
độc hại; đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào nước ta nhằm cấu kết với bọn phản
động và các phần tử xấu trong nước, tăng cường hoạt động nhằm lật đổ chế độ...
Về kinh tế, những thay đổi ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho chúng ta
nhiều đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về nhiều
chương trình hợp tác kinh tế và nhiều hợp đồng về lao động. Trong thời gian ngắn,
nước ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường
truyền thống Bang thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến động cung
cầu và giá cả của thị trường thế giới. Nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi
về giá chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên, trong khi một số nước
tiếp tục chính sách bao vây kinh tế nước ta, gây cho ta thêm nhiều khó khăn.
Song, chúng ta cũng có những điếu kiện thuận lợi mới. Quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta ngày căng được mở rộng, trong đó quan hệ với một số nước
được cải thiện và từng bước bình thường hóa. Điều đó tạo thêm khả năng để
chúng ta mở rộng thị trường, thu hút nguồn vốn và kĩ thuật, học hỏi kinh nghiệm
của thế giới. Đống thời, quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, địi hỏi chúng ta
phải nhanh chóng vươn lên thích ứng với những yêu cầu khắt khe về chất lượng,
hiệu quả, về quy chế và luật pháp kinh doanh của thị trường thế giới.
Tình hình trong nước: Trên tất cả cặc lĩnh vực, nhất là về kinh tế - xã hội, vẫn
cịn nhiều khó khăn (như đã trình bày ở trên), bao trùm nhất là "Đất nước ta vẫn
chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.... nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng
bỏng chưa được giải quyết".
Nhưng chúng ta có thuận lợi cơ bản, đó là: những thành tựu bước đầu rất quan
trọng và những kinh nghiệm đổi mới đã thu được trong những năm trước là to lớn;
đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ đường lối đổi mới; cục diện
chính trị nước ta ổn định. Chúng ta có nhiều tiềm năng để phát triển: đội ngũ lao

động vã cán bộ khoa học - kĩ thuật cần cù, thông minh, sáng tạo; khả năng thâm
canh, tăng vụ và mở rộng diện tích trong nơng nghiệp, phát triển nghề rừng và
thủy sản cịn lớn; cơng nghiệp dầu khí, cơng nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu
có những điều kiện thuận lợi để mở rộng; vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn
nhiều...
Xuất phát từ đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước nói trên, căn cứ vào mục
tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI),


Đại hội VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 .năm (19911995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Các mục tiêu cụ thể là:
Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân
số. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bảo đảm để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết yếu của người lao
động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công.
- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán
bộ.
- Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành quả
cách mạng.
Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (19911995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu
quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt
đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế".
Để thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh
tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng
bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu cơng nghiệp hóá đẩy mạnh nhịp

độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành tương
đối thơng suốt cơ chế quản lí mới.
2. Tiến bộ và hạn chế, thời cơ và thách thức
Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (19911995), trên các lĩnh vực của công cuộc đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu và tiến bộ to lớn:
+ Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch đã hoàn thành vượt mức.
Trong 5 năm, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước


đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5%-6,6%).
Cơng nghiệp tăng bình qn hàng năm 18,3% (kế hoạch là 7,5%-8,5%). Một
số ngành có mức tăng cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên liệu (cả
dầu khí) gấp 3,2 lần, điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần, chế biến thực
phẩm gấp 1,9 lần.
Nơng nghiệp tăng bình qn hàng năm 4,5% (kế hoạch là 3,7%-4,5%) Sản
lượng lương thực 5 năm này tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ bản để
ổn định đời sống nhân dân; phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Kim ngạch xuất khẩu thủy, hải sản năm 1995 tăng
gấp 8 lần năm 1990.
Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990, bình qn hàng năm
tăng 12%. Giao thơng vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa tăng 62%.
Viễn thơng phát triển nhanh; doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch tăng gấp 10
lần. Thị trường hàng hóa trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của xã hội vê số lượng, chất lượng và chủng loại.
Lĩnh vực tài chính, tiền tệ có tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã từng bước đẩy
lùi lạm phát và chặn được nạn lạm phát cao. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991,
giảm xuống 17,5% năm 1992 và 12,7% năm 1995. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được
kiềm chế, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi, thay bằng vay của dân,
của nước ngồi.

Quy mơ đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm
1990 chiếm 15,8% tổng sản phẩm trong nước, năm 1995 là 27,4%. Trong 5 năm,
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 18 tỉ đơ la (theo mặt bằng giá năm 1995),
trong đó phần của Nhà nước chiếm 43%, đầu tư của nhân dân chiếm trên 80%, đầu
tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 27%.
Những kết quả về đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất trong nông,
lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Một số cơng trình quan trọng của nền
kinh tế, nhất là giao thông, thủy lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ sở du lịch,
dịch vụ . . . được đưa vào hoạt động.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thi
trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục
được xây dựng. Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo
hướng cơng nghiệp hóa. Cơ cấu sản xuất nơng nghiệp, cơng nghiệp cũng có những
thay đổi theo hướng có hiệu quả hơn. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng.


+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất, nhớp khẩu mở rộng, nguồn vốn
đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.
Trong 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ đô la (kế hoạch là 12-15
tỉ), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu cầu của sản
xuất và đời sống. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, đã có thêm một số mặt hàng
chế biến và tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn, như dầu thơ, gạo, cà
phê, hải sản, may mặc...
Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ đô la, kể cả phần nhập khẩu của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Tỉ trọng nhập khẩu vật tư thiết bị tăng
lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100
nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới.
Nhà nước còn mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu.

Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân hàng
năm là 50%. Đến cuối năm.1995, tổng số vốn đăng kí các dự án đầu tư trực tiếp
của nước ngồi đạt trên 19 tỉ đơ la, trong đó khống 1/3 đã được thực hiện. Tỉ
trọng đầu tư vào công nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu
khí thì chiếm trên 60%). Địa bàn đầu tư phân bố rộng hơn trên các vùng lãnh thổ.
Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh chiếm trên 65% tổng số vốn; xí
nghiệp có 100 % vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh
chiếm gần 17%. Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và
mở rộng với nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Cơ chế thu hút nguồn tài
trợ phát triển song phương và đa phương đã được thiết lập.
+ Khoa học và cơng nghệ có bước phát triển mới, văn hóa và xã hội có những
chuyển biến tích cực
Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.
Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút.
Tỉ lệ người biết chữ trong nhân dân đã nâng lên, đạt mức 90%, tỉ lệ trẻ em đi học
trong độ tuổi phổ cập tiểu hoc và số hoc sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ
học sinh lưu ban, bỏ học giảm. Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đến các xã,
phường, cơ sở vật chất được cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường
nội trú cho con em người dân tộc Hình thức trường chuyên, lớp chọn được phát
triển ở nhiều địa phương. Nhiều trường bán công và dân lập ra đời, hoạt động có
hiệu quả.


Các trường, lớp dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức. Hệ thống giáo dục
đại học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và
loại hình đào tạo. Các trường đại học và cao đẳng được sắp xếp lại các trung tâm
đại học quốc gia ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và ba trung tâm đại học khu
vực đang hình thành.
Cơng tác thơng tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát
triển phong phú cả về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu

cấu thông tin và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích
cực trong cơng tác tun truyền, giáo dục (đặc biệt là giáo dục truyền thống
cách mạng), đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi ảnh hưởng
của văn hóa độc hại. Diện phủ sóng truyền thanh, truyền hình được mở rộng.
Trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, đã có những cố gắng và tiến bộ về vệ sinh
phịng bệnh, thực hiện có kết quả các chương trình chăm sóc và bảo vệ trẻ em,
chương trình phịng chống sốt rét, bướu cổ, phòng chống suy dinh dưỡng; tăng tỉ
lệ số dân được dùng nước sạch, được cung cấp dịch vụ y tế tại xã phường. Một số
trung tâm y tế được đầu tư nâng cấp và trang bị lại. Chế độ bảo hiểm y tế được mở
rộng.
Công tác dân số, "kế hoạch hóa" gia đình phát triển sâu rộng và bước đầu đạt
được kết quả. Tỉ lệ sinh mỗi năm giảm gần 1 phần nghìn.
Chủ trương đền ơn, đáp nghĩa" đối với những người có cơng với nước được
tồn dân hưởng ứng. Phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện
ngày càng được mở rộng trở thành nét đẹp trong xã hội ta.
Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện
với mức độ khác nhau. Số hộ thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ
nghèo giảm đi. Nhiều địa phương đã thanh tốn được nạn đói. Mỗi năm giải quyết
được hơn một triệu lao động có việc làm.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của cơ chế bất hợp lí,
phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong
tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã
hội. Trên cơ sở đó, lịng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào
Đảng và Nhà nước được nâng lên.
+ Ổn định tình hình chính trị - xã hội được giữ vững, quốc phịng và an ninh
được củng cố
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền và mơi trường hòa


bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới.

Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc điều chỉnh
chiến lược quốc phòng, an ninh. Thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân được củng cố. Việc xử lí kiên quyết các vụ vi phạm pháp luật trong một số
lĩnh vực đã mở ra khả năng thiết lập và củng cố trật tự, an toàn xã hội, xây dựng
nếp sống và làm việc theo pháp luật.
+ Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị
Trên cơ sở cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên tất cả
các lĩnh vực.
Đảng được củng cố và tăng cường về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa được tiếp tục phát triển nhằm phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân.
Hệ thống chính trị từng bước được tiếp tục kiện tồn. Cuộc bầu cử Quốc hội
khóa IX được diễn ra sơi nổi trong tồn quốc vào ngày 19-7-1992. Quốc hội khóa
IX có 395 đại biểu. Kì họp thứ nhất của Quốc hội khóa IX họp ở Hà Nội (từ 19-9
đến 8-10-1992) đã bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
các ủy ban của Quốc hội và Đồn thư kí. Nơng Đức Mạnh được bầu giữ chức Chủ
tịch Quốc hội. Quốc hội đã bầu Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, Nguyễn Thị Bình
làm Phó Chủ tịch nước; phê chuẩn danh sách Phó Chủ tịch và các ủy viên của Hội
đồng quốc phòng và an ninh; đã bầu Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ; phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về danh sách các Phó Thủ tướng là
Phan Văn Khải, Nguyễn Khánh và Trần Đức Lương, các Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ. Mặt trận Tổ quốc vã các đồn thể chính trị xã hội
từng bước được đối mới về phương thức hoạt động. Khối đại đoàn kết dân tộc
được củng cố hơn.
Hệ thống pháp luật được phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ mới, ngày 15 4-1992, kì họp thứ 11 của Quốc hội khóa VIII đã thơng
qua Hiến pháp mới. Ngồi Lời nói đầu, Hiến pháp mới gồm có 12 chương và 147
điều. Ra đời trong thời kì đổi mới, Hiến pháp 1992 thể hiện tinh thần đổi mới, đáp

ứng yêu cầu phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại. Hiến pháp
mới đã điều chỉnh, sửa đổi một cách cơ bản toàn diện các quy định của Hiến pháp
1980, đặc biệt là chương về "chế độ kinh tế. Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung và
ban hành các đạo luật mới làm cho hệ thống pháp luật nước ta phù hợp với Hiến
pháp mới, bảo đảm quản lí xã hội thực sự được tiến hành bằng pháp luật.


+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham gia tích cực vào các hoạt
động của cộng đồng quốc tế
Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khơi phục vã mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp
tác nhiều mặt với Trung Quốc, tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết với Lào,
xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Campuchia; phát triến quan hệ với các nước
trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ
hữu nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới mối quan hệ với Liên
Bang Nga, những nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và Đông Âu; mở
rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hố quan hệ với
nhiều nuớc Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Trung Đơng, châu Phi và Mĩ Latinh;
mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực…
Đến nay nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán
với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực
tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tếdành cho ta sự viện trợ khơng
hồn lại hoặc cho vay để phát triển.
Bên cạnh thành tựu và tiến bộ đáng ghi nhận, nước ta vẫn còn nhiều yếu kém
và hạn chế:
Tình trạng tham nhũng, lãng phí, bn lậu, làm ăn phi pháp chưa được ngăn
chặn, có nơi nghiêm trọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, trong Đảng và các
đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây
dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế và cả trong hoạt động của các
cơ quan thi hành pháp luật... nghiêm trọng kéo dài.

- Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
tầng lớp cư, dân tăng nhanh. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở những
vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc, cịn nhiều khó
khăn. Nhịp độ phát triển dân số vẫn cao. Số người chưa có việc làm ở thành thị
cịn chiếm khoảng 7%, thời gian lao động ở nơng thôn mới được sử dụng ở mức
thấp.
- Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp; công tác giáo dục ở vùng sâu, vùng xa,
miền núi cịn nhiều khó khăn. Hệ thống khám - chữa bệnh phần lớn bị xuống cấp
cả về cơ sở vật chất vẫn chất lượng và tinh thần phục vụ. Người nghèo không đủ
tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Tình trạng ơ nhiễm mơi trường sinh thái,
hủy hoại tài nguyên ngày càng tăng; đã có những bệnh dịch, bệnh xã hội đe dọa
một số vùng, số người nhiễm HIV ngày càng tăng, văn hóa phẩm độc hại lan tràn,
tệ nạn xã hội phát triển; trật tự an tồn xã hội cịn nhiều phức tạp.


Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất qn, thực hiện)
khơng nghiêm. Quản lí nhà nước vê đất đai, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh
thái cùng các hoạt động văn hóa, hoạt động khoa học và công nghệ... chưa tốt.
Những thành tựu và tiến bộ của công cuộc đổi mới sau 10 năm, nhất là sau kế
hoạch 5 năm (1991-1995), đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả ở bên trong và bên
ngồi để đất nước bước vào thời kì phát triển mới: "Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công cuộc công nghiệp hóa đã cơ bản hồn thành, cho phép chuyển sang thời
kì mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khả năng giữ vững độc
lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn của
chúng ta.
Nhưng do vẫn cịn những hạn chế và yếu kém chưa được khắc phục nên khi
bước vào thời kì phát triển mới, đất nước gặp khơng ít khó khăn và thử thách. Bốn
nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (l-1994) và Đại

hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng nêu lên là những thách thức
lớn đối với nhân dân ta trong những thời kì tiếp sau của cơng cuộc đổi mới. Bốn
nguy cơ đó là :
+ Sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
do điểm xuất phát của ta quá thấp, nhịp độ tăng trưởng của ta chưa cao và chưa
vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
+ Âm mưu diễn biến hịa bình, dùng chiêu bài "dân chủ', "nhân quyền' của các
thế lực thù địch trước việc sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước do
khuyết tật của mơ hình cũ, hịng can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
+ Chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đất nước đổi mới, thực hiện chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường.
+ Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của
nhân dân đối với đảng, đối với chế độ bị xói mịn; các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch, dẫn tới chệch hướng xã hội chủ nghĩa là
mảnh đất thuận lợi cho "diễn biến hịa bình".
Những thách thức đó, nhân dân ta đã từng trải qua và còn phải trải qua. Từ
thực tế phong phú của 10 năm đổi mới, với những thành tựu đã đạt được cũng như
những yếu kém, khuyết điểm đã phạm phải, đem lại cho Đảng và nhân dân ta


những bài học kinh nghiệm sau:
+ Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định về
nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược,
nhạy cảm nắm bắt cái mới. Phê phán nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi
với việc khẳng định những việc làm đúng; không phủ nhận sạch trơn quá khứ,
không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này sang thái cực khác.

+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu chủ trương đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát
huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, chống mọi âm
mưu lợi dụng chiêu bài "dân chủ', "nhân quyền của kẻ thù để gây rối chính trị,
chống phá chế độ, can thiệp vào nội bộ nước ta.
+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trị quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Vận dụng
các hình thức kinh tế và phương pháp quản lí nền kinh tế thị trường là để sử dụng
mặt tích cực của nó phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứ không
phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường có những mặt tiêu
cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, nên khi vận dụng nó cần đấu
tranh khắc phục để hạn chế tối đa tiêu cực.
+ Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để tiếp
tục đưa sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu
lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân (cả ở trong nước và ở nước ngoài), phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự
cường, động viên sức mạnh của cả dân tộc phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, văn ninh.
+ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân
dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Động viên
mọi nguồn lực bên trong là chính, đồng thời khai thác tốt những điều kiện thuận
lợi mới trong quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ
những nhân tố tích cực phục vụ cho công cuộc xây dựng và bào vệ đất nước. Việc
mở rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn, phát
huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi việc xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Đảng ta phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng



cả về chính trị, tư tường, tổ chức, cán bộ; tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân
và tính tiên phong của Đảng; đối mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao trình
độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và tồn xã hội.



×