Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phương hướng tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.42 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Nội dung chính
I.Sự cần thiết đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư
nhân
II.Cơ sở thực tiễn nhằm đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển
kinh tế tư nhân
III. Phương hướng tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để nhằm thúc đẩy
kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển
Kết luận

LỜI NÓI ĐẦU


Trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam mang hình thức kinh tế kế hoạch hố
tập trung bao cấp. Điều đó làm trì trệ nền kinh tế vì đây là một mơ hình hành
chính áp đặt vào đời sống. Dưới áp lực của chun chính, có thể các thể chế
của kinh tế thị trường và các hình thức bên ngồi của các loại hình hình tế tư
nhân có thể bị xố bỏ xong bản thân tiến trình nội sinh của kinh tế thị trường
lại khơng bị xố bỏ.Nghĩa là mầm mống kinh tế tư nhân vẫn sinh sơi, nảy
nở, nó là nền tảng kinh tế thị trường và kinh tế thị trường là bộ máy kinh tế
cần thiết, tất yếu của sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.Chính vì thế
trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế chậm phát triển sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì phát triển kinh tế nhiều
thành phần là một chính sách đúng đắn, đặc biệt sự phát triển thành phần
kinh tế tư nhân là một mục tiêu quan trọng, ngày càng chiếm một vị trí quan
trọng trong cơ cấu thành phần kinh tế. Vì vậy, Đại hội VII Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã quyết định đổi mới nền kinh tế nhằm đưa kinh tế thoát khỏi
trạng thái suy thoái, bế tắc và khủng hoảng, điều cơ bản là thay đổi trong
phương thức, mơ hình phát triển kinh tế. Đồng thời thấy được sự sai lầm
trong việc xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và thành phần kinh tế tư


nhân bởi vì xét cho cùng chuyển sang nền kinh tế thị trường tức là chuyển
sang tiến trình kinh tế trong đó kinh tế tư nhân là nền tảng và rốt cuộc là
thừa nhận quy luật tổng quát của sự phát triển: quy luật tăng thêm của giá trị.
Đối với sinh viên chúng ta việc học tập, nghiên cứu khoa học, thực tiễn
đời sống là rất cần thiết. Tơi chọn đề tài này vì để có một cái nhìn tổng qt,
tồn diện nền kinh tế đất nước. Ngồi ra cịn thấy vấn đề: “Đổi mới cơ chế,
chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân là một vấn đề đáng quan
tâm” là một vấn đề đáng quan tâm. Ngoài ra, chúng ta với cương vị là những
người chủ tương lai của đấy nước tiếp nhận và mở mang thêm nhiều kiến
thức, rút ra những kinh nghiệm, hiểu rõ những ưu điểm và sai lầm, yếu kém
mà thực tế kinh tế Việt Nam đang còn nhiều vấn đề nan giải. Để rồi chúng ta
thực hiện mục tiêu, định hướng phát triển: xây dựng nước ta thành một nước
có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hợp lý,
thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển để phát triển một nền kinh tế vững chắc.

1


NỘI DUNG CHÍNH
I.Sự cần thiết đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh
tế tư nhân.
1.Khái niệm kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân là một trong sáu thành phần kinh tế của nước ta hiện
nay: kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế tập
thể phát triển với nhiều hình thức trong đó hợp tác xã là nịng cốt, kinh tế cá
thể và tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài, kinh
tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành
nghề nào pháp luật không cấm, kinh tế tư bản nhà nước phát triển đa dạng
dưới nhiều hình thức liên kết, liên doanh; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
được tạo mơi trường phát triển thuận lợi. Như vậy kinh tế tư nhân là bộ phận

cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường của Việt Nam, góp phần
thực hiện cơng nghiệp hố đất nước ( Báo cáo chính trị của ban chấp hành
trung ương Đảng khố VIII tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của
Đảng ).
Trước những năm 1980, ở nước ta kinh tế tư nhân khơng được khuyến
khích phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh
hành chính. Trong thời gian này, nền kinh tế nước ta chỉ có hai hình thức
kinh tế chính: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể, kinh tế gia
đình và kinh tế tiểu chủ tồn tại chủ yếu dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập
thể và kinh tế nhà nước, còn kinh tế tư bản tư nhân hoặc đã chuyển thành
kinh tế tập thể, hoặc kinh tế nhà nước hay cơng ty hợp doanh.
Kể từ khi thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế, nhất là từ sau đại hội
đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng(1986), kinh tế tư nhân đã đuợc hồi sinh
trở lại và mở rộng qui mơ, phạm vi hoạt động khá nhanh chóng.
Nhìn một cách tổng quát, khu vực kinh tế tư nhân như đã trình bày ở trên
bao gồm các hình thức kinh tế sau đây:
 Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình
hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, khơng th mướn lao
độnh làm thuê.
 Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý
và điều hành; hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
có sử dụng lao động thuê mướn ngồi lao động của chủ, qui mơ vốn đầu

2


tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
 Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công tỷtách nhiệm hữu hạn,

doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theoluật doanh
nghiệp tư nhân, luật công ty.
Như vậy kinh tế tư nhân là một khái niệm hình thành từ hoạt động thực
tiễn gắn liền với tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa những loại hình kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa.Trong điều kiện của kinh tế tư bản cổ điển, sự xác lập
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ra ở sự xác lập
của kinh tế tư bản tư nhân, và sự thắng lợi của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
là sự xác lập và thắng lợi của hệ thống kinh doanh tư bản chủ nghĩa với các
chủ thể tư bản tư nhân. Ở đây, có thể nói tư bản tư nhân là đại biểu kinh tế
của kinh tế hàng hoá phát triển, của phương thức sản xuất tư bản cơng
nghiệp, là hình thái kinh tế dặc trưng quyết định của kinh tế công nghiệp
phát triển cổ điển. Điều này có nghĩa là quá trình tiến hố của kinh tế thị
trường dẫn đến kinh tế tư bản tư nhân với các chủ thể là các nhà tư bản tư
nhân.
Đại hội VI(12-1986) Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định đổi mới
nền kinh tế. Công cuộc đổi mới này đã dược trực tiếp đặt ra nhằm đưa nền
kinh tế thoát khỏi trạng thái suy thoái, bế tắc và khủng hoảng, điều cơ bản là
thay đổi trong phương thức , mơ hình phát triển kinh tế. Thực chất của sự
đổi mới kinh tế là chuyển sang kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Và xét cho cùng chuyển sang nền kinh tế thị trường tức là chuyển
sang tiến trình kinh tế trong đó kinh tế tư nhân là nền tảngvà rốt cuộc là thừa
nhận quy luật tổng quát của sự phát triển: qui luật tăng thêm giá trị.
2.Vai trò lịch sử kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế.
“Kinh tế tư nhân với tư cách là những “mảnh” của các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa xã hội sẽ còn chung sống với các “mảnh” xã hội chủ
nghĩa mới được khai sinh và lớn dần lên trong một xã hội quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” (Mac_LêNin). Kinh tế tư nhân với những mặt mạnh và mặt
yếu của chúng đang ngày càng được quan tâm, phát triển.Kinh tế tư nhân cơ
thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trọng trong nền kinh tế, ngoại trừ
một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền nhằm đảm bảo an ninh-quốc

phòng. Sự phát triển của kinh tế tư nhân có vai trị lớn trong q trình phát
triển kinh tế thị trường, dã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực
trong việc: góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế
chung, đổi mới bộ mặt kinh tế-xã hội, tạo ranhiều sản phẩm và dịch vụ cho

3


xã hội. Ngồi ra nó cịn là lĩnh vực chính thu hút nhiều lao động xã hội và
huy động các nguồn vốn trong dân cư vào phát triển kinh tế.
Mặt mạnh chủ yếu của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân
mạnh mẽ, mà với nó hoạt động kih doanh diễn ra năng động, nhanh chóng
đổi mới, hệ thống điều hành và quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả và chi phí thấp.
Lợi ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người, tồn tại lâu dài.
Việc sử dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là việc làm
cần thiết và khôn ngoan nhẩttong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
2.1.Kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, qui
mơ kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, qui mơ kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên một
thời kinh tế tư nhân khơng được khuyến khích phát triển, là đối tượng cải tạo
xã hội chủ nghĩa để từng bứơc thu hẹp và xoá bỏ khu vực kinh tế này.
Cùng với q trình đổi mới, các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã
thay đổi khá căn bản: kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể đựơc khuyến
khích phát triển, kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, xong trong nhận thức lý luận của
các cấp hoạch dịnh chính sách trên thực tế cịn nhiều quan điểm chưa nhất
qn. Ít nhất có bốn quan điểm khác nhau về vị trí của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân như sau:
 Coi kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu

hẹp và từng bước xố bỏ. Đây là quan diểm đã từngchiếm vị trí thống trị
trong nhiều năm trước đây.
 Coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là khơng có bóc lột nên có thể
khuyến khích phát triển, cịn kinh tế tư bản tư nhân là có bác lột nên có
thể tạm thời chấp nhận trong một giai đoạn nào đó, xong về lâu dài phải
giới hạn sự phát triển.
 Coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần thiết có vai trị và vị trí quan
trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết bổ sung hài hoà với kinh tế
nhà nước trong quá trìng phát triển lâu dài của nền kinh tế.
 Coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ yếu của nền
kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự phát triển
chung của nền kinh tế. Tronh khi đó kinh tế nhà nước đóng vai trị hỗ
trợ, chỉ làm nhữnh gì mà kinh tế tư nhân khơng muốn làm hoặc làm
không hiệu quả .

4


2.2.Kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh
tế xã hội của Đảng và nhà nước phải nhằm tạo lập mơi trường kinh tế mới,
thích hợp trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng cuă mình làm giàu
cho bản thân và cho đất nước.
Việc chấp nhận quan hệ trao đổi hàng hoá sức lao động và chấp nhận sụ
phân phối chưa cân bằng là phù hợp với qui luật của kinh tế thị trường- dù
điều này xét về mặt luân lý và đạo đức là điều mà chúng ta không mong
muốn.
Tuy nhiên, nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế
của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu

nhập và về sự bóc lột sức lao động. Trong quan hệ mua bán sức lao động,
nhà nước thông qua luật lao động : tiền lương, giờ làm việc, điều kiện an
toàn lao động, vệ sinh lao động…. Tương tự như vậy trong quan hệ phân
phối và phân phối lại thu nhập. Nhà nước hoàn có thể thơng qua việc xác
định thể chế th mướn lao động, hợp đồng tiền lương, trả công lao động…
để trả lại một phần giá trị thặng dư cho người lao động đã tạo ra nó. Như
vậy, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa chủ và nghười làm thuê
đã được nhà nước qui định và giám sát. Đó là chưa kể vai trị kiểm tra, kiểm
sốt của các tổ chức như Đảng, Cơng Đồn, Nữ Cơng…đối với hoạt động
của giới chủ và người lao động.
Tất cả những điều trêncho thấy giữa các doanh nghiệp tư bản tư nhân
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ chủ nghĩa có sự khác nhau căn bản.
Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư bản tư nhân
hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của
chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng
góp quan trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một nước đi theo chủ nghĩa xã hội, Trung Quốc luôn quan tâm đến sự
phát triển của kinh tế tư nhân.Thực vậy, trong nhiều năm qua mặc dù chỉ là
bộ phận mang tính chất bổ sung, xong kinh tế tư nhân ở Trung Quốc đã có
vai trị, tác dụng và hiệu quả to lớn làm tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế
quốc dân, đồng thời cịn góp phần mở ra một môi trường tốt đẹp cho việc
khai thác, phát triển thị trường và thúc đẩy kinh tế công hữu nhanh chóng
hồ nhập vào nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân phát triển đã hình thành
nên những quan niệm mới về kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân phát triển
đã dần có sự liên kết chặt chẽ với nền kinh tế thị trường, tạo môi trường vật
5


chất và xã hội rộng lớn, đưa quan niệm kinh tế thị trường đi sâu vào đời

sống hiện đại. Do đó, nó là tiền đề đưa yếu tố thị trường vào lĩnh vực tư
tưởng và hoạt động kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Kinh tế tư nhân còn là
chủ thể tự nhiêncủa kinh tế thị trường, là nòng cốt của kinh tế thị trường.
Mặt khác kinh tế tư nhân khơng ngừng bổ sung để hồn thiện cơ cấu thị
trường, hồn thiện thị trường hàng hố và thị trường sức lao động, khắc
phục những khiếm khuyết của thị trường. Và kinh tế tư nhân có vai trị bổ
sung cần thiết không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã
hội chủ nghĩa.
3.Đặc điểm kinh tế tư nhân.
Một đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân là: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu
chủ thuộc kinh tế tư nhân nhìn chung nhỏ bé. Sản xuất kinh doanh phần lớn
chỉ là tái sản xuất giản đơn, khả năng tích luỹ, mở rộng thành doanh nghiệp
qui mơ lớn là khó khăn. Xong, nó đóng vai trị quan trọng trong viẹc giải
quyết việc làm, huy động nguồn lực nhỏ phân tán trong dân cư….Những
doanh nghiệp có mức vốn ít chiếm số lượng nhiều. Năm 1992, với số lượng
1.498.601 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ đã sử dụng 2.577.611 lao động và
huy động 14.400 tỷ đồng vốn, tạo ra 16.529 tỷ dồng doanh thu, tính bình
qn một cơ sở sản xuất kinh doamh có 9 triệu đồng tiền vốn, sử dụng 1,7
lao động, tạo ra 11 triệu đồng doanh thu. Năm 1996, số lượng 2.215.000 cơ
sở nhưng qui mơ bình quân của một cơ sở hầu như không đổi so với bình
quân chung năm 1995 ( vốn kinh doanh 11 triệu đồng, lao dộng 1,9 người,
doanh thu 17 triệu đồng ). Như vậy, một cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể,
tiểu chủ ở nước ta về qui mơ có những đặc điểm: vốn sản suất kinh doanh
khoảng 11 triệu đồng, sử dụng 3,3 lao động (kể cả chủ) ở nông thôn và 6,3
lao động ở thành phố (1996). Doanh thu hàng năm khoảng 18 triệu
đồng….Có thể những số liệu trên chưa phản ánh đầy đủ, nhưng cũng cho
thấy phần nào thực trạng qui mô vốn, lao động, doanh thu….của loại hình cá
thể tiểu chủ ở nước ta, nhìn chung là nhỏ bé. Nó khơng phải là loại hình kinh
tế chủ yếu để làm giầu, nhưng lại cần thiết cho bước quá độ sang nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay nhất là trong phát triển sản xuất, hình thành

các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ và đội ngũ lao động cho nền kinh tế thị
trường. Về tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân với
số lượng khơng đều: Các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ cũng không đều,
tăng cao vào năm 1994 với mức tăng 60% so với năm 1993, nhưng các năm
tiếp théôc tốc độ tăng giảm dần, đạt bình qn khoảng 37%/năm ( 19941997 ), giảm cịn 4%/năm(1998). Xét về só lượng cơ sở sản xuất kinh doanh
thì các doanh nghiệp tư bản tư nhân có tốc độ gia tăng mạnh và cao hơn so
với các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ khoảng gần 3 lần. Kinh tế tư nhân
6


được đánh giá là có tốc độ phát triển khá nhanh và cao hơn so với tốc độ
phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể nhưng kém hơn so
với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mức tăng trưởng của khu vực
kinh tế ngồi quốc doanh trong ngành cơng nghiệp giai đoạn 1990-1995
khoảng 11% nhưng bắt đầu từ năm 1997 có biểu hiện suy giảm xuống còn
9% và năm 1998 còn 6,7%, năm 1999 cịn giảm mạnh hơn. Bình qn chung
mức tăng trưởng của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là
khoảng 10% hàng năm, cao hơn khu vự kinh tế nhà nước nhưng thấp hơn
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Nhờ có tốc độ phát triển và tăng trưởng
nhanh nên khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày càng quan trọng vào
GDP của nền kinh tế: từ 102.468 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 151.388 tỷ
đồng năm 1998, chiếm tỷ trọng 41,06% GDP. Như vậy, toàn bộ khu vực
kinh tế tư nhân(kể cả lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp) là đóng góp
rất đáng kể của tồn bộ khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân ở
nước ta trong thời kì đổi mới.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tốc độ phát triển của khu vực kinh tế cá
thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta đã có
dấu hiệu chững lại vào năm 1997 sau một thời gian phát triển có thể nói là
khá ngoạn mục. Điều này thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP của từng loại
hình kinh tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Sự suy giảm của khu vực

kinh tế tư nhân một mặt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực, đây được coi là nguyên nhân trực tiếp trước mắt, còn nguyên nhân sâu
xa bên trong lại do cơ chế chính sách quản lý vĩ mơ của nhà nước tỏ ra chưa
phù hợp với địi hỏi của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời do những hạn
chế về năng lực nội tại của bản thân khu vực kinh tế tư nhân.
II.Cơ sở thực tiễn nhằm đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát
triển kinh tế tư nhân.
1.Những kết quả đạt được của khu vực kinh tế tư nhân.
Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(tháng 12/1986) và nhất là
kể từ năm 1990 khi nhà nước ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư
nhân có hiệu lực từ năm 1991 thì kinh tế tư nhân đã được chú ý và có điều
kiện phát triển. Nếu như năm 1991 có 494 doanh nghiệp tư nhân, cơng ty
trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần thì đến năm 1995 đã có 15276 doan
nghiệp và đến năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30500
doanh nghiệp, tăng gấp 74 lần so với năm 1991, tính bình qn giai đoạn
1991-1999 mỗi năm tăng 3388 doanh nghiệp. Đến năm 2000 là năm áp dụng
luật doanh nghiệp mới( trên cơ sở hợp nhất luật cơng ty và luật doanh
nghiệp có sửa đổi) ban hành ngày 12/6/1999 và có hiệu lực từ 1/1/2000, số

7


doanh nghiệp đăng ký thành lập trong năm là 14443 với tổng số vốn đầu tư
là 24000 tỷ đồng chiếm 16% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Nhà nước
không phải bận tâm về vốn kinh doanh của khu vực tư nhân vì họ tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước toà án và với đối tác hợp đồng làm ăn của
họ. Ngồi ra, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân trong
những năm qua đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu huy động tiềm
lực vốn trong nước để thúc đẩyphát triển kinh tế.
Tính đến cuối năm 1996, kinh tế tư bản tư nhân đã huy động lượng vốn

đầu tư vào sản xuất kinh doanh gần 21000 tỷ đồng. Theo báo cáo của bộ tài
chính, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này đã tăng từ 70,5 tỷ đồng năm
1991 lên gần 12000 tỷ đồng vào cuối năm 1996. Chỉ tính riêng thành phố Hồ
Chí Minh, đến tháng 6/1996 đã có 7260 doanh nghiệp tư bản tư nhân được
cấp giấy phép kinh doanh với số vốn pháp định là 6927 tỷ đồng. Trong thời
kì 1991-1996, bình quân mỗi năm vốn kinh doanh của kinh tế tư bản tư nhân
tăng thêm 3940 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư của toàn xã
hội.
Kinh tế tư nhân đã tạo ra việc làm, toàn dụng lao động xã hội. Thực vậy,
sự phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời gian qua đã đóng góp phần
quan trọng vào việc giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia
tích cực và có hiệu quả đối với vấn đề giải quyết việc làm. Tính đến năm
1996 đã giải quyết việc làm cho 4.700.742 lao động, chiếm gần 70% lực
lượng lao đọng xã hội trong khu vực sản xuất phi nơng nghiệp. Xét ở góc độ
giải quyết việc làm thì đây là khu vực có tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu
tư cao nhất trong nền kinh tế. Nếu như khu vực có vốn đầu tư nước ngồi là
khu vực có sự tăng trưởng mạnh, trong thời gian qua đã thu hút được
208000 lao động, thì riêng kinh tế tư bản tư nhân năm1996 đã giải quyết
việc làm cho 370742 lao động. Mặt khác doanh nghiệp tư bản tư nhân còn
thu hút 20 lao động trên một tỷ đồng tiền vốn, kinh tế cá thể thu hút 165 lao
động trên 1 tỷ dồng tiền vốn. Những con số này tuy so với hơn 30 triệu lao
động nước ta khơng nhiều nhưng rất có ý nghĩa đối với việc phát triển kinh
tế, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Trong khi đó
doanh nghiệp nhà nước chỉ thu hút được 11,5 lao động trên 1 tỷ đồng tiền
vốn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 1,7 lao động trên
1 tỷ đồng tiền vốn. Riêng các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong 5
năm(1991-1996) tuy số vốn huy động chưa lớn nhưng bình quân mỗi năm
giải quyết thêm khoảng 72020 việc làm, năm 1996 cả nước có 336146 người
đang trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm

hữu hạn, công ty cổ phần. Năm 1997 là 428009 lao động, năm 1998vào
8


khoảng 497480 lao động ( tăng 16,2% so với năm 1997) chiếm 1,3% tổng số
lao động toàn xã hội. Riêng khu vực hộ gia đình nơng dân, năm1995 đã thu
hút 30.820.224 lao động, chiếm 88,93% lao động xã hội. Nếu gộp với 1,3%
số lao động trong khu vực doanh nghiệp tư bản tư nhân thì tốngr số lao động
thuộc kinh tế tư nhân chiếm 90,1% tổng số lao động toàn xã hội(khu vực
nhà nước chỉ giải quyết việc làm cho khoảng 9% tổng số lao động xã hội và
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi là 0,67% tổng lao động tồn xã hội). Qua
đó ta càng thấy rõ đay là một khu vực kinh tế có vai trị thực sự quan trọng
trong việc tạo việc làm cho lao động xã hội cả ở hiện tại và trong tương lai.
Đồng thời, các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã tạo ra thu nhập ổn định cho
người lao động trong khu vực này. Ở thành phố Hồ Chí Minh, thu nhập của
người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân khoảng 500.000 đến 600.000
đồng/1 tháng, ở Hà Nội là 400.000 đến 500.000 đồng/1tháng.
Kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng
trưỏng nền kinh tế. Phát triển kinh tế tư bản tư nhân đã tạo thêm nguồn thu
cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết
việc làm cho lao động xã hội, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân cịn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 1995,
khu vực tư nhân đóng góp 43,50% GDP, trong đó hộ gia đình và nơng dân
chiếm tỷ trọng 35,95% GDP, khối tư bản tư nhân chiếm 7,5%GDP. Mặc dù
các năm 1996,1997 có sự giảm sút nhưng năm 1998 khu vực này vẫn chiếm
tỷ trọng 41,1%GDP, trong đó: hộ gia đình và nơng dân chiếm 33,6%GDP,
khu vực tư bản tư nhân chiếm trên 50%GDP cả nước. Nhờ vậy, khu vực
kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc
đọ tăng trưởng cao trên 8%/năm liên tục trong giai đoạn 1992-1997, và đỉnh

cao đạt 9,5% vào năm1995.
Khơng chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân cịn góp phần quan trọng tăng nguồn
thu ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội đặt
ra. Nguồn thu ngân sách từ các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã tăng lên
đáng kể trong những năm qua từ 51 tỷ đồng năm 1991 lên 1475 tỷ đồng năm
1996. Nếu năm 1990 khu vực kinh tế ngoài quốc doanh( khơng kể kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài) nộp ngân sách (qua thu thuế) là 969 tỷ đồng chiếm
2,3%GDP, thì đến năm 1998 đã tăng lên 11086 tỷ đồng chiếm 3,5%GDP,
tính ra bình qn hàng năm khu vực ngồi quốc doanh đóng góp vào nguồn
thu ngân sách trên dưới 3%GDP của cả nước, cao gấp trên 3 lần đóng góp
của khu vực liên doanh với nước ngồi( 0,9%GDP/năm) và gần bằng một
nửa đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào nguồn thu ngân sách nhà
9


nước hàng năm( khoảng 7%GDP/năm). Tính riêng các doanh nghiệp tư bản
tư nhân: năm 1991 đóng góp cho ngân sách nhà nước được 51 tỷ đồng, năm
1996 tăng lên 1457 tỷ đồng(tăng gần 300 lần). Tại thành phố Hồ Chí Minh,
trong những năm 1995-1996 khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp
khoảng 50% ngân sách địa phương. Thực tế cho thấy địa phương nào chú ý
khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này đều tự cân đối được ngân sách.
Tuy so với khu vực kinh tế nhà nước, tỷ trọng của kinh tế tư bản tư nhân
trong tổng thu ngân sách nhà nước còn thấp xong khu vực kinh tế tư nhân đã
và đang có những đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách và tăng tiềm lực
cho nền kinh tế.
Thực hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng và nhà nước ta là: “lấy việc giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngồi
cho cơng nghiệp hố-hiện đại hố đất nước, năng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc

khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh
doanh”, huy động sức mạnh tổng lực của nền kinh tế cho phát triển đất nước,
xây dựng nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ
văn minh”, thì chính sách phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân những năm qua đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu đó. Nhìn
một cách tổng thể, sự hồi sinh và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
trong những năm đổi mới vừa qua đã mang lại nhiều kết quả kinh tế xã hội
to lớn, mà nổi bật là:
1.1.Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham
gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
việc làm.
Kinh tế tư nhân đã huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế cá
thể, tiểu chủ tuy qui mô nhỏ nhưng với số lụơng cơ sở sản xuất kinh doanh
lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh: từ
14000tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26500 tỷ đồng vào năm 1996, chiếm tới
8,5% tổng vốn đầu tư sản xuất của toàn xã hội. Ta thấy được sự tăng lên của
vốn đầu tư và qui mô của nó. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động
được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ đồng(tình đến hết năm 1996),
bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1991- 1996 tăng thêm 3940 tỷ đồng,
chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn
kinh doanh của các ngành. Tính đến thời điểm năm 1996, khu vực kinh tế tư
nhân đã huy động được tổng lượng vốn lên đến 47155 tỷ đồng, chiếm tới
15% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Mặc dù trong nhữn năm
đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài của nhà
nước đã thu hút thêm nguồn vốn FDI ngày một tăng( từ 13,7% tổng số vốn
10


đầu tư phát triển của nhà nước năm 1990 lên đến trên 35% năm 1998) nhưng
khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư phát

triển rất đáng kể cho nền kinh tế: 49% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội
năm 1990 và trên 21% năm 1998, tức là chiếm trên 1/5 tổng lượng vốn đầu
tư tồn xã hội-là một tỷ trọng khơng nhỏ.
1.2.Kinh tế tư nhân đã thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và
đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền
kinh tế, tăng qui mô của kim ngạch xuất khẩu.
Trứơc đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh…
đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số
lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân khơng được
kinh doanh, cịn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh
khác thì khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia. Trong đó nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất
lương thực, thực phẩm;ni trồng hải sản, đánh cá; lâm nghiệp, hàng hố
bán lẻ; chế biến; sành sứ; giầy dép….Lĩnh vực sản xuất lương thực đặc biệt
là xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ hải sản, lĩnh vực dệt
may, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…đã mang về hàng tỷ đô la ngoại tệ cho
nền kinh tế,trong đó có đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân. Chính sự phát
triển phonh phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản
phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh…của khu vực kinh tế tư nhân đã tác
động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp nhà nước buộc các doanh nghiệp nàh
nước phải cải tổ, sắp xếp lại để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường.
Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực
kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức
ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của nhà nước phải đổi mới đáp ứng
yêu cầu địi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói
chung. Như vậy, phát triển kinh tế tư bản tư nhân sẽ tăng cường lực lượng
kinh tế dân tộc và cùng với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt với kinh tế
nhà nước tạo thế và lực làm đói trọng với tư bản nước ngồi trong việc bảo
đảm sự phát triển dộc lập của nền kinh tế. Đến nay đã có 59 doanh nghiệp tư
nhân và công ty trách nhiệm hữư hạn, công ty cổ phần là đối tác trong liên

doanh với nước ngồi có số vốn đầu tư theo giấy phép gần 146 triệu USD.
Một số doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị phương án liên doanh với nhà
nước. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc
hình thành và xác lập vai trị, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo
yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc
đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị
trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài.
11


Khơng những thế, kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng qui mô của kim ngạch xuất khẩu. Sự phát
triển của kinh tế tư nhân đã khơi dậy nhiều ngành nghề truyền thống trong
các ngành, vùng địa phương, đã tạo ra nhiều chủng loại đa dạng, phong phú
và cung cấp nhiều hơn hàng hố phục vụ xuất khẩu. Chỉ tính riêng năm
2000, con số thống kê của tổng cục hải quan, kinh ngạch xuất nhập khẩu đã
tăng khá: xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD, nhập khẩu đạt 3,336 tỷ USD. Thông
qua việc mở rộng sản xuất, năng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp
ở khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế đất nước ngày càng tham
gia đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, giúp cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra mạnh mẽ hơn. Những ngành sản phẩm có
khả năng cạnh tranh, khai thác được lợi thế so sánh ở các vùng, miền đựơc
chú trọng phát triển. Nhờ đó khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung
cũng được tăng lên, các nguồn lực đầu tư cho phát triển được khai thác có
hiệu quả hơn. Từ đó xuất hiện các cơ sở kinh doanh điển hình làm ăn giỏi,
đời sống người lao động ngày càng được nâng lên, giải quyết nhiều chỗ việc
làm cho xã hội
1.3.Bên cạnh đó, qua thực tiễn ta thấy kinh tế tư nhân đã góp phần quan
trọng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ,
trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, trong các ngành nghề và các vùng kinh

tế đất nước.
Trong nông nghiệp, nếu như năm 1990 số lượng các hộ cá thể có khoảng
trên 9,4 triệu hộ thì đến năm 1995 đã lên tới 11.974.595 hộ hoạt động trên
gần 9000 xã trong khắp 7 vùng simh thái. Trong đó số hộ nơng nghiệp
chiếm 79,58%, hộ lâm nghiệp chiếm 0,15%, hộ thuỷ sản chiếm 1,92%, hộ
cơng nghiệp chiếm 1,34%, hộ dịch vụ chiếm 1,18%, cịn lại là các hộ khác.
Trong số các hộ đó, nhóm hộ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất(79,58%),
nếu hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng thì con số này cịn lớn hơn nữa. Như
vậy, trong lĩnh vực nông nghiệp số hộ tư nhân, cá thể chiếm tỷ trọng lớn
81,65%. Đay thực sự là một lực lượng kinh tế mạnh thể hiện: chỉ trong thời
gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm rất nhiều trang thiết bị hiện đại, tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước. Cũng chủ
trong một thời gian không lâu, theo báo cáo của bộ nơng nghiệp và phát
triển nơng thơn thì nông dân nước ta đã bỏ vốn lập trên 110000 trang trại,
trong đó riêng các tỉnh phía Bắc là 67000 trang trại. Trang trại là các tổ chức
kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nơng nghiệp
lên sản xuất hàng hố, chủ trang trại bỏ vốn ra kinh doanh. Các trang trại đã
tạo ra một lượng hàng hố lớn, trung bình một trang trại cung cấp một lượng
giá trị hàng hoá 91,449 triệu đồng, trong đó tỷ trọng hàng hố là 86,74%.Số
12


hàng hố này chủ yếu là nơng sản, hải sản, một số nhỏ là sản phẩm chăn
nuôi. Kinh tế trang traị đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên
kinh tế hàng hố, giải quyết nhiều cơng ăn việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động( kinh tế trang trại đã tạo ra việc cho 60 vạn lao động)…
nhưng quan trọng hơn cả là kinh tế trang trại đã dưa vào lối làm ăn mới
trong nông nghiệp mà cơ chế của thời bao cấp đã dẹp bỏ. Vởy có thể nói
kinh tế tư nhân trong nơng nghiệp thời gian qua đã góp phần xứng đáng vào
thành tích của ngành nơng nghiệp nói chung, tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng

của Việt Nam, và 30% kim ngạch hàng xuất khẩu. Nếu như năm1990 nơng
nghiệp chiếm 32% GDP thì năm 1999 nông nghiệp chiếm tỷ trọng là 24%
GDP.
Trong lĩnh vực cơng nghiệp thì kinh tế tư nhân đã thâm nhập mạnh mẽ
vào lĩnh vực cơng nghiệp. Tồn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong cơng
nghiệp đã đưa phần đóng góp vào sản lượng cơng nghiệp cả nước từ 37%
năm 1990 lên 58% năm 2000, trong đó có đóng góp quan trọng nhất là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong lĩnh vực dầu khí và cơng
nghiệp chế tạo. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước, mà đặc biệt là các
doanh nghiệp hộ gia đình có vai trị rất quan trọng trong lĩnh vực cơng
nghiệp chế tạo. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong cơng nghiệp sẽ cịn
tăng hơn nữa vì những đổi mới trong thể chế rất mạnh với những bộ luật mới
ra đời từ 1998 dến nay, nhất là luật doanh nghiệp ra đời năm1999, luật đầu
tư nước ngoài được sửa đổi với những thuận lợi mới cho các nhà đầu tư.
Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, sự phát triển của kinh tế
tư nhân trong hoạt động công nghiệp cũng phát triển rất mạnh và đóng góp
lớn vào kinh tế nói chung, kinh tế nơng nghiệp nơng thơn nói riêng. Trong
những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng 18% đến 20% số hộ
nơng dân tham gia hoạt động sản xuất phi nơng nghiệp, trong đó một nửa là
hoạt động trong lĩnh vực kinh tế tư nhân. Theo các báo cáo thì khu vực tư
nhân trong nơng thơn cả nước hiện có 24000 doanh nghiệp và tổ hợp sản
xuất kinh doanh, trong đó có khoảng 33% là các doanh nghiệp tổ hợp tư
nhân trong lĩnh vực công nghệp và tiểu thủ công nghiệp.
Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ: Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân
hoạt động sôi nổi, ngày càng lấn át khu vực quốc doanh. Số lượng tăng lên
nhanh chóng: năm1986 có 56,8 vạn hộ, năm 1987 đã là 64 vạn hộ, năm 1988
là 71,9 vạn hộ, năm 1989 là 81,1 vạn hộ và 16 vạn hộ kinh doanh không
chuyên nghiệp, năm1995 là 94 vạn hộ. Về mặt số lượng và cơ cấu: ngày
1/1/1995 số hộ cá thể trong cả nước là 1882798 hộ. Số lượng các hộ phân bố
không đều, tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phịng,

thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…Về lao động: lĩnh vực dịch vụ và
13


thương mại tư nhân, cá thể cũng là nơi thu hút nhiều lao động, giải quyết
việc làm.
Về doanh số hoạt động: tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân đã
tăng từ 66,9% lên 75,1% và thương nghiệp quốc doanh giảm từ 30,4%
xuống con 23,7%. Giao thông vận tải tư nhân đã đảm nhiệm 63,5% khối
lượng hàng hoá vận tải và 79,5% khối lượng hành khách, tạo ra 989,8 tỷ
đồng.
Về đóng góp nguồn thu vào ngân sách của khu vực này cũng rất đáng
kể. Năm 1996 doanh thu thương mại dịch vụ gấp 6 đến 7 lần năm 1991, tổng
thuế nộp vào ngân sách nhà nước tăng từ 908 tỷ( năm 1991) lên 5180 tỷ
đồng (năm 1995) gấp 5 đến 6 lần. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn
phải kể đến vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất khẩu.
Nếu tính cả đầu tư nước ngồi thì khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng
góp vào xuất khẩu là 35% năm1997 và 54% giữa năm 2000.
Trong xây dựng kết cấu hạ tầng: Trong thập kỷ tới nhu cầu vốn sẽ rất
lớn, ước tính khoảng 6%-7% GDP, vì thế việc thu hút sự tham gia của khu
vực kinh tế tư nhân là hết sức quan trọng. Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng,
phải kể đến hệ thống đường nông thôn mà những năm qua khu vực kinh tế
hộ nông thôn-thực chất là khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trị rất lớn.
Trong các ngành nghề và các vùng kinh tế đất nước thì vốn các ngành:
những năm 1991-1996 trong tổng số 17442 cơ sở thì lĩnh vực thương mại,
dịch vụ chiếm tỷ trọng 39%, lĩnh vực công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng
35%, lĩnh vực khác chiếm 26%. Trong những năm 1997-1998, có sự chuyển
biến theo hướng các doanh nghiệp thương mại dịch vụ tăng. Với các vùng:
khu vực kinh tế tư nhân rất phát triển ở đng bằng sơng Cửu Long, tập
trung ở các thành phố như thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh

Đồng Nai.
1.4.Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm
đầu tầu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn cơng nghiệp hố- hiện đại
hố, mở cửa hợp tác với bên ngoài.
Nhờ đổi mới và phát triển nên khu vực kinh tế tư nhân chúng ta đã từng
bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết
các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày
càng lớn( khoảng trên 40000 chủ doanh nghiệp và trên 120000 chủ trang
trại. Đây thật sự là một thành quả có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng đội
ngũ các nhà doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước
thời mở cửa của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù được hình thành một cách
14


tự phát nhưng nhờ đựơc đào luyện trong cơ chế thi trường, đội ngũ các nhà
doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng kịp thời với sự
chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên, tham gia vào hầu hết các lĩnh
vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm bao gồm cả
những ngành kỹ thuật cao(phần mềm, điện tử) đã làm chủ nhiều lĩnh vực
như nuôi trồng, công nghiệp chế biến….Trong lĩnh vực nông-lâm-ngư
nghiệp, hàng trăm ngàn trang trại cung cấp nơng sản hàng hố cho xuất
khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo ở Việt Nam.
1.5.Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực
kượng sản xuất phát triển, thực hiện cơng bằng xã hội.
Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác
nhau, đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực
lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Trứơc hết là
sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu. Nếu trước đây quan hệ sở hữu ở nước
ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sở hữu

đã được mở rộng hơn: cịn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu
hỗn hợp. Quan hệ phân phối giờ đây càng trở nên linh hoạt, đa dạng, ngồi
phân phối chủ yếu dựa trên lao động cịn sử dụng các hình thức phân phối
theo góp vốn, theo tài sản….Chính sự chuyển biến của các quan hệ sở hữu,
quản lý, phân phối đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo, đa dạng,
linh hoạt dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng nền kinh tế và tâm lý
xã hội ở nước ta hiện nay. Những chuyển biến của quan hệ sản xuất nói trên
đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của khu vực kinh
tế tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy đã góp phần
xố đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần đưa đất nước
vượt qua khủng hoảng. Hơn nữa, kinh tế tư nhân cịn góp phần ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội.
2.Những tồn tại và hạn chế của kinh tế tư nhân.
2.1.Khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung qui mơ cịn nhỏ bé, vốn ít, cơng
nghệ lạc hậu, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển và vai trị của nó
trong nền kinh tế thị trường.
Đặc trưng nổi bật của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay là qui mơ nhỏ
bé. Số doanh nghiệp có mức vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1% tổng số
doanh nghiệp, mức vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 87,2%, trong đó có 29,4%
có mức vốn dưới 100 triệu đồng. Trung bình mỗi hộ kinh doanh phi nơnh
nghiệp có số vốn kinh doanh là 29,78 triệu đồng, sử dụng 1,78 triệu lao
động. Đối với số hộ kinh doanh nơng nghiệp cũng có qui mô nhỏ, sử dụng
15


lao động gia đình, mặt bằng canh tác bình quân 0,8 ha/ 1 hộ, trong các doanh
nghiệp thì số doanh nghiệp có dưới 50 triệu lao động chiếm 90,09%, bình
qn vốn sử dụng của một doanh nghiệp chỉ là 3,7 tỷ đồng. Điều này cho
thấy tình trạng qui mơ kinh doanh nhỏ bé của kinh tế tư nhân, bộc lộ công

nghệ, quản lý và tay nghề của người lao động cịn thấp, uy tín và khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp chưa cao, kinh doanh cịn thiếu ổn định, tính
hợp tác liên kết và hiệu quả kinh doanh còn thấp…, trình độ và sự hiểu biết
về các luật doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh còn chưa tuân thủ luật pháp vê lao động, còn trốn lậu thuế, làm hàng
giả, hàng cấm, không đảm bảo về an tồn thực phẩm, vệ sinh mơi
trường….Ngồi ra, nhìn chung trong khu vực kinh tế tư nhân trình độ cơng
nghệ, trang thiết bị vẫn cịn nhiều lạc hậu, chắp vá và chậm đổi mới, nhiều
doanh nghiệp mới thành lập nhưng vẫn sử dụng công nghệ thải loại từ các
doanh nghiệp nhà nước, trình độ tổ chức, quản lý của chủ doanh nghiệp và
tay nghề của người lao động phần lớn đều thấp, số được đào tạo cơ bản cịn
ít, khả năng tiếp thị, xác tiến thương mại hạn chế. Mặt khác, những yếu kém
của khu vực này còn được thấy ở sự manh mún, thiếu một chiến lược kinh
doanh lâu dài, khả năng thâm nhập thị trường trong và ngồi nước đều thấp,
cịn khơng ít trường hợp cạnh tranh không làmh mạnh, chèn ép lẫn nhau,
hiệu quả kinh doanh chưa cao. Hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp tư nhân
mới đựơc hình thành trong những năm gần đây do qui mơ nhỏ, vốn ít, các
doanh nghiệp khơng có điều kiện đầu tư khoa học cơng nghệ hiện đại. Chỉ
có khoảng 25% số doanh nghiệp tư nhân và 20% số công ty trách nhiệm hữu
hạn sử dụng công nghệ khá hiện đại, cịn lại một số máy móc, thiết bị của
các cơ sở doanh nghiệp cũ, lạc hậu thuộc thế hệ những năm 60, 70. Cả nước
có 2/3 số cơ sở kinh tế tư nhân sử dụng các thiết bị thanh lý của doanh
nghiệp nhà nước.
Trong thời gian gần đây mặc dù số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh của
các khu vực này chưa cao, các doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ, hoặc hồ
vốn, đang cịn chiếm một tỷ lệ đáng lưu ý. Có thể thấy hoạt động kinh doanh
của kinh tế tư nhân cũng cịn nhiều khó khân vướng mắc, có thể khái quát
trên các mặt chủ yếu: “ thiếu vốn kinh doanh, khả năng tích tụ huy dộng vốn
kinh doanh còn thấp, thiếu một mặt bằng sản xuất kinh doanh, môi trường
pháp lý và môi trường tâm lý xã hội chưa thuận lợi”. Chính vì thế, tỷ lệ nợ

xấu trên tổng nợ tín dụng của cơ sở năm 2000 của các hộ kinh doanh cá thể
phi nông nghiệp là 20,4%, hộ nông dân là 0,01%, doanh nghiệp tư nhân là
23,6%. Điều đáng lưu ý là trong hoạt động sản xuất nhiều chủ doanh nghiệp
chưa thực hiện đầy đủ những qui luật như: tính cơng khai minh bạch trong

16


kinh doanh, thay đổi ngành nghề địa điểm….Ngồi ra, cịn có những trường
hợp trốn lậu thuế.
Tóm lại, đánh giá một cách tổng quát thì kinh tế tư nhân Việt Nam vhưa
phát huy hết tiềm lực của nó. Các nguồn lực về vốn, lao động, kinh nghiệm,
ngành nghề… chưa khai thác hết, vẫn còn khá lớn trong các tâng lớp dân cư.
2.2.Chất lượng lao động thấp, đội ngũ quản lý yếu.
Trong cơ cấu lao động của khu vực kinh tế tư nhân, số cơng nhân được
đào tạo có tay nghề rất thiếu. Đội ngũ quản lý doanh nghiệp cũng thiếu và
yếu: 3,2% có trình độ đại học, 9,5% có trình độ trung cấp, 60% đến 70%
mới có trình độ phổ thơng trung học, 80% chưa qua đào tạo chun mơn.
Khơng ít các chủ doanh nghiệp thiếu kiến thức quản lý và kinh nghiệm kinh
doanh trong cơ chế thi trường, thiếu những hiểu biết đầy đủ về pháp luật
trong nước và luật pháp quốc tế, hạn chế tầm nhìn dài hạn trong kinh doanh.
Vì vậy thua thiệt trong cạnh tranh trên thị trường là không tránh khỏi. Theo
số liệu trong nhiều nguyên nhân thì yếu kém về trình độ, năng lực quản lý
của chủ doanh nghiệp chiếm 86,2%, do thiếu thông tin về thị trường chiếm
70% là những nguyên nhân dẫn đến những thất bại, thua lỗ của các doanh
nghiệp tư nhân. Ngồi ra tính tự phát trong hoạt động kinh doanh còn mạnh,
sự quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư bản tư nhân cịn yếu. Tính
tự phát vơ nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh của khu vực này là không
tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường sơ khai như nước ta. Do bị chi phối
bởi lợi ích cá nhân nên khi luật pháp chưa hoàn chỉnh, quản lý nhà nước còn

lỏng lẻo, các nhà kinh doanh tư nhân có thể sẽ tìm mọi cách lợi dụng sơ hở
để làm lợi cho mình, bất chấp lợi ích xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân
không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ dăng kí kinh doanh, khơng tn thủ
các nguyên tắc về quản lý kinh tế tài chính của nhà nước.
1.3.Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất khơng ổn định là tình
trạng phổ biếnđã tác động bất lợití chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Luật đất đai chỉ qui định quyền sử dụng đất, không cho phép tư nhân có
quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc mua bán đất đai. Hệ quả là quyền
sử dụng đất không được chuyển nhượng công khai, giá đất thiếu ổn định,
dẫn đến tình trạng đất đai bị đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả. Trong điều kiện
môi trường như vậy bất lợi hơn cả chính là các cơ sở kinh tế tư nhân mới
thành lập rất khó có được mặt bằng đất đai ổn định. Thêm vào đó việc phân
biệt đói xử trong việc giao đất của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
và cho thuê đất đối với các cơ sở kinh tế tư nhân cũng gây bất lợi và thiệt
thòi cho khu vực kinh tế tư nhân. Mặt khác, những vấn đề về chuyển
17


nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất đai chưa rõ ràng càng làm cho vấn đề
mặt bằng sản xuất căng thẳng hơn. Ngay cả khi doanh nghiệp đã bỏ ra rất
nhiều chi phí đẻ có mặt bằng sản xuất, nhưng sau dó họ lại rất khó khăn
trong việc dùng đất đai để làm tài sản thế chấp vay ngân hàng. Rất ts doanh
nghiệp có được mặt bằng sản xuất ngay từ khi mới thành lập mà thường phải
thuê hoặc tận dụng đất ở và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất
kinh doanh.
1.4.Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm cản trở đến sự phát triển sản
xuất kinh doanh của khu vực tư nhân.
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mua nguyên
liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị trường địa phương và dựa

vào mạng lưới quan hệ cá nhân. Hiện nay một số sản phẩm hàng hoá của
khu vực kinh tế tư nhân cũng đã có mặt trên thị trường thế giới, tuy vậy sản
phẩm dủ chất lượng xuất khẩu cịn ít và chịu sức ép cạnh tranh gay gắt, còn
lại phần lớn sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân được tiêu thụ trên thị
trường nội địa. Nhung gần đây, do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực, nền kinh tế tăng trưởng giảm, thu nhập của dân cư sút kém
nên sức mua trong nước cũng giảm. Thêm vào đó, hàng hố trong nước còn
tồn đọng với khối lượng lớn, cùng với hàng nhập lậu tràn lan khơng kiểm
sốt được đã làm cho việc tiêu thụ hàng hoá của khu vực kinh tế tư nhân rơi
vào tình thế cực kỳ bất lợi, làm cho nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn, phá
sản….Mặt khác, khả năng cạnh tranh để tồn tại, đứng vững trong cơ chế thị
trường của các cơ sở kinh tế tư nhân còn hạn chế, một số tiêu cực nảy sinh
đã làm cho tốc độ phát triển của cả khu vực kinh tế tư nhân đang chững lại
và có biểu hiện suy giảm trong những năm gần đây.
Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Những nguyên
nhân thuộc về bản thân các doanh nghiệp tư bản tư nhân chủ yếu là: sự nghi
ngại về tính nhất quán của chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, sự do dự chờ đợi, kể cả tâm lý mặc cảm, sự hạn chế về năng lực kinh
doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Những nguyên nhân thuộc về quản
lý nhà nước bao gồm: thiếu một hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô đồng bộ
và nhất quán, thiếu một điịnh hướng phát triển theo ngành và lĩnh vực kinh
doanh dẫn tới thiếu một chính sách ưu đãi, khuyến khích tạo động lực cho
kinh tế tư bản tư nhân phát triển.
III. Phương hướng tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để nhằm thúc
đẩy kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển.
Thực hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước có nghĩa là
chuyển dịch nền kinh tế của đất nước từ nông nghiệp sang công nghiệp,
18



nâng cao tỷ trọng các ngành sản xuất công nghiệp theo các chỉ tiêu về giá trị
sản xuất, về tỷ trọng lao động công nghiệp. Xuất phát từ các mục tiêu, nhiệm
vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, đồng thời tính đến các đặc điểm về qui
mơ vừa và nhỏ của các cơ sở của kinh tế tư nhân, vì vậy cần có những
phương hướng, chính sách và giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư
nhân. Để khắc phục những hạn chế và tồn tại nêu trên, nhằm thúc đẩy hơn
nữa sụ phát triển của kinh tế tư bản tư nhân, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta cần giải quyết một số vấn đề chủ
yếu sau:
Thứ nhất là: cần xác định rõ vai trị, vị trí quan trọng của kinh tế tư nhân
trong cơ cấu nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển ở nước ta.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của thành phần kinh tế này luôn phụ
thuộc vào những điều kiện do nhà nước và kinh tến nhà nước tạo ra như môi
trường thể chế, kết cấu hạ tầng…, có nghĩa là kinh tế nhân khơng thẻ tự tạo
ra các điều kiện phát triển của chính mình. Trong xu hướng đa dạng hố sở
hữu, hợp tác, liên kết, phụ thuộc lẫn nhau hiện nay thì nhà nước cần xây
dựng một chiến lược phát triển kinh tế tư nhân trong mối quan hệ với chiến
lược phát triển của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế tư nhân.
Trong đó khuyến khích tối đa sự phát triển của kinh tế tư nhân theo định
hướng và dưới sự kiểm soát, điều tiết của nhà nước phải là quan điểm chủ
đạo. Đó cũng là cơ sở quan trọng để xây dựng một khn khổ chính sách
kinh tế vĩ mô nhất quán, ổn định cũng như một hệ thống pháp luật rõ ràng
cho việc phát triển và quản lý kinh tế tư nhân, để nhà nước thực hiện vai trị
quản lý của mình, tạo cho các doanh nghiệp tư nhân lòng tin và giúp họ thấy
được định hướng rõ ràng. Đồng thời tiếp tục hồn chỉnh các chính sách,
pháp luật, quy định của nhà nước đã ban hành liên quan đến việc phát triển
kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát
triển, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế theo hướng tiến tới
thống nhất hai luật là Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước là

một. Ngồi ra cần nhanh chóng cải thiện mơi trường kinh daonh cho kinh tế
tư nhân mà cụ thể là tiếp tục xây dựng, sửa đổi và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, hấp dẫn đầu tư tư nhân thơng thống hơn, đơn giản nhưng phải đầy đủ
và phải ổn định lâu dài. Nhà nước cần trợ giúp các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân như thiết lập các quỹ tài trợ mới để phát triển các doanh
nghiệp tư nhân, thiết lập các cơ chế bảo lãnh rủi ro, tín dụng, cải tiến chế độ
về điều kiện vay vốn linh hoạt và không phân biệt đối xử, đặc biệt là về thế
chấp, bảo lãnh của các ngân hàng thương mại, loại bỏ tính chất áp đặt lãi

19



×