Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt nam trung đại_2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.13 KB, 6 trang )

Hình tượng con người công dân và con người
cá nhân trong văn học Việt nam trung đại

TK XVIII – nđ TK XIX; nc TKXIX: tư duy văn học đã có sự phân biệt
văn với sử, với triết, đã chịu sự chi phối của quan niệm sáng tác từ
"những điều trông thấy". Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng nhân đạo, là
khẳng định con người. Thể loại văn học dân tộc đạt được những thành
tựu lớn, là văn chương hình tượng. Văn học chữ Nôm có sự phát triển
vượt bậc với những thành tựu hết sức rực rỡ.

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lý giải, cảm thụ của
chủ thể
Thi pháp học cho rằng: Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu
hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả
thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học
đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con
người, nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp
nhất định. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con
người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải,
cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên
tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên
giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó.

Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học, tuy
nhiên trước nay người ta chỉ chú ý tới phương diện khách thể của nó.
Nhân vật mang những phẩm chất gì? Tính cách nhân vật như thế nào?
Ngoại hình được khắc họa ra sao, tâm lý nhân vật có gì đặc sắc? Ngôn
ngữ nhân vật có được cá tính hóa hay không? Đó là những vấn đề không
thể bỏ qua khi phân tích nhân vật như một khách thể. Từ đó, cũng nhiều


khi người ta phân tích nhân vật như những con người có thật ở ngoài
đời.

Đối với nhân vật trong hệ thống hình tượng tự sự, có nhiều cách hình
dung về chức năng và cấu tạo. Về loại hình nhân vật, người ta chia ra
nhân vật chính, phụ, nhân vật chính diện, phản diện. Về mặt cấu trúc có
người chia ra nhân vật mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cánh,
nhân vật tư tưởng. Sự chú trọng đến hình tượng khách thể của con người
là cần thiết, song xem nhẹ việc tìm hiểu các nguyên tắc lý giải, cảm thụ
của chủ thể trong hình tượng sẽ dẫn đến việc giản đơn hóa bản chất của
sáng tác văn học, đặc biệt là vai trò sáng tạo tư tưởng của nhà văn, rút
gọn tiêu chuẩn tính chân thực vào một điểm là miêu tả giống hay không
giống so với đối tượng.

Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta khám phá cách cảm
thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con
người giống hay không giống so với đối tượng

1.3. Từ khái niệm vô ngã, hữu ngã của Phật giáo đến con người phi
ngã, bản ngã trong văn học Việt Nam trung đại.

1.3.1. Từ khái niệm vô ngã và hữu ngã …

Theo Từ điển Phật học, vô ngã (無我, sa. anātman, pi. anattā), là một
trong Ba tính chất (sa. trilakṣaṇa) của sự vật. Quan điểm vô ngã là giáo
pháp cơ bản của đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman, pi.
attā), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm
trong sự vật. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã (hữu ngã) là cái “tôi”, cái
"tôi" cũng chỉ là một tập hợp của Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn
thay đổi, mất mát và, vì vậy, "tôi" chỉ là một sự giả hợp, gắn liền với cái

Khổ.

1.3.2. … đến khái niệm phi ngã – bản ngã.

Từ khái niệm triết học của vô ngã và hữu ngã đó, có thời văn học Việt
Nam trung đại đã dùng khái niệm phi ngã và bản ngã để nó đến hình
tượng con người cá nhân và con người cộng đồng trong các tác phẩm ra
đời trong thời kỳ này. Tuy nhiên khái niệm này, hiện tại sách giáo khoa
hiện hành rất ít sử dụng.

Từ điển tiếng Việt giải thích, phi: không, chẳng phải, sái quấy. Ngã: ta.
Phi ngã là cái ngoại tại, không phải ta, tức là sự vật ngoại giới, đối lập
với bản ngã. Phi ngã đồng nghĩa với vô ngã.

Bản ngã: cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi người.

2. Những biểu hiện của con người công dân và con người cá nhân
trong văn học Việt Nam trung đại.

2.1. Xét trên bình diện nội dung

2.1.1. Con người công dân biểu hiện qua các bình diện

Thứ nhất, là con người gắn bó trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc:
Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn); Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc Tuấn);
Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão); Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình
Chiểu)…

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ Thần – Lý Thường Kiệt ?)

Thứ hai, là con người có lý tưởng, hoài bão và khát vọng cao cả: Tụng
giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải); Cảm hoài (Đặng Dung); hay bài
thơ Ngôn hoài sau đây của Dương Không Lộ:

Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Thứ ba, có tầm hồn phóng khoáng, hồn hậu, chân thành: Thơ Nguyễn
Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,
Trần Minh Tông, …

Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kinh khô sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
(Bạch Đằng hải khẩu – Nguyễn Trãi)

Đây cũng chính là hình tượng của những con người gắn liền với cảm
hứng yêu nước trong dòng chảy của văn học Việt Nam trung đại.


2.1.2. Con người cá nhân biểu hiện qua các bình diện

Thứ nhất, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng
của mình: thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Khuyến, …
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

×