Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Danh y HOÀNG VĂN UẨN pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.91 KB, 6 trang )

Danh y
HOÀNG VĂN UẨN
HOÀNG VĂN UẨN
Không rõ quê quán. Soạn quyển Nam Dược Cẩm Nang (Hà Nội 1934).


HOÀNG ĐÔN HÒA
HOÀNG ĐÔN HÒA
(Không rõ năm sinh năm mất)
Là lương dược danh tiếng dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (Xã
Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây). Đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân
qua khỏi vụ dịch năm 1533 bằng thuốc Nam tại địa phương. Ông cũng
đã trị cho cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thổ tả ở Thái
Nguyên năm 1547 bằng bài Tam Hoàng Hoàn (Hoàng nàn, Hoàng lực
và Hùng hoàng. Ông cũng đã cụ thể hóa nguyên tắc ‘Thanh tâm tiết
dục’ của Tuệ Tĩnh bằng ‘Tinh công hô hấp’ dược ghi lại trong sách
‘Hoạt Nhân Toát Yếu’. Tác phẩm y học của ông còn để lại là ‘Hoạt
Nhân Toát Yếu’


Danh y
OẠT BÁ NHÂN (1304 – 1386)
HOẠT BÁ NHÂN (1304 – 1386)
Hoạt Thọ, tự Bá Nhân, hiệu Anh
Ninh Sinh, quê gốc ở Hứa châu,
Tương Thành (nay là Hà Nam,
Tương Thành). Triều Nguyên năm
đầu, ông nội làm quan ở Giang Nam,
từ Tương Thành dời nhà đến Nghi
Chân (nay là Giang Tô, Nghi Chinh),
Hoạt Thọ ra đời ở đây. Về già ông


đến ở Dư Điêu (nay là Chiết Giang).
Ông là danh y ở cuối đời Nguyên đầu đời Thanh. Ông thông minh hiếu
học, thời niên thiếu đọc và nghiên cứu bách gia chư tử, có thể mỗi ngày
đọc ngàn lời sách. Ông giỏi cả văn và thơ, tham gia khảo thí khoa cử
chưa vừa lòng, bèn từ bỏ con đường làm quan để học y. Trước hết, ông
theo danh y Vương Cư Trung học các điển tịch y học như ‘Tố Vấn’,
‘Nạn kinh’, ‘Thương hàn luận’, tiến bộ nhanh. Sau ông theo học châm
pháp (phép châm kim) với Đông Bình Cao ở Động Đương, học được
hết y thuật của thầy. Vì vậy, ông chẳng những giỏi biện chứng dùng
thuốc, mà còn có hiểu biết rất sâu về châm
cứu học. Lúc lâm sàng, ông thường dùng cả thuốc lẫn kim, trị lành rất
nhiều bệnh nặng, danh vang một dãy Giang Tô, Chiết Giang, người đời
Danh y
bấy giờ tôn xưng ông là ‘thần y’. Ông đi đến đâu người ta tranh nhau
để được tiếp nghe ông nói một lời để biết rõ việc sinh tử.
Về mặt học thuật, ông mươi phần tôn sùng ‘Nội kinh’ và ‘Nạn kinh’,
nhìn nhận là các sách mà người học y phải đọc. Nhung trong hai sách
ấy, ngôn ngữ giản lược mà ý nghĩa sâu kín, lại sách ra đời xa xưa, có
nhiều khó khăn cho người mới học. Vì vậy, ông chủ trương rằng đọc
sách người xưa, ắt trước tiên phải nắm vững cương lĩnh và hệ thống
của sách, rồi sau mới nghiên cứu tìm hiểu phần sâu hơn; làm như thế
mới thu được hiệu quả là ra công ít, gặt hái nhiều. Và ông biên soạn ra
hai bộ sách ‘Độc Tố Vấn Sao’, ‘Nạn Kinh Bản Nghĩa’ để giúp người
sau đọc dễ hiểu hơn
‘Độc Tố Vấn sao’ gồm 3 quyển, trong đó Hoạt Thọ căn cứ vào nội
dung chủ yếu của ‘Tố Vấn’ qui nạp ra 12 loại (tạng tượng, kinh độ,
mạch hầu, bệnh năng, nhiếp sinh, luận trị, sắc mạc, châm thích, âm
dương, tiêu bản, vận khí, hối tụy) để tiến hành nghiên cứu. Phương
pháp ‘nghiên cứu ‘Tố Vấn’ có lựa chọn’ của ông được coi là đầu tiên
trong lịch sử, có ảnh hưởng tương đối lớn đối với y gia của hậu thế.

‘Nạn Kinh Bản Nghĩa’ gồm hai quyển, trong đó Hoạt Thọ từ gốc độ
‘Nạn Kinh’ gốc ở ‘Nội Kinh’, xuất phát, đem các thiên, các điều, chữ
nghĩa ‘Kinh ngôn’, dựa theo ‘Tố Vấn’, ‘Linh Khu’ khảo đính từng mục
một, đồng thời tham khảo các bản chú thích từ đời Nguyên trở về trước,
kết hợp với kiến giải của mình, tiến hành chú thích rõ ràng toàn diện.
Vì có không ít kiến giải độc đáo, cho nên có ảnh hưởng tương đối lớn
Danh y
đến những bản chú giải về ‘Nạn kinh’. Liên tục hơn 600 năm sách này
được y gia hậu thế xem trọng.
Về phương diện khảo đính kinh lạc, huyệt đạo, ông cũng có cống hiến
lớn. Xem như trong quyển ‘Kỳ Kinh Bát Mạch’, hai mạch Nhâm, Đốc
thống lĩnh các mạch âm dương trong thân thể con người có huyệt đạo
riêng. Vậy nên ông nhận xét là phải xem ngang hàng với 12 kinh mạch.
Sách vở về châm cứu học trước đây đều không đem hai kinh mạch này
luận thuật chung với 12 kinh mạch. Vì vậy, ông dựa theo ‘Linh Khu,
‘Tố Vấn’, trong đó có tư liệu về kinh lạc, huyệt đạo, biên soạn một
quyển ‘Thập Tứ Kinh Phát Huy’. Sách này ra đời có ảnh hưởng rất lớn
đối với sự phát triển môn học châm cứu, chẳng những là sách mẫu mực
cho những người học môn châm cứu trong nước, mà xa hơn như ở Nhật
Bản, sách cũng được xem là ‘Tập Y Chi Căn Bản’ (sách cơ sở để học
y), trở thành một loại sách ‘được truyền tụng trên đời’. .
Ông còn tinh thông mạch học, có viết một quyển ‘Chẩn gia khu yếu
trong đó có nhiều chỗ kiến giải độc đáo, là một quyển sách tham khảo
trọng yếu cho người học tập mạch chẩn.
Ông mất năm 1386, hưởng họ 82 tuổi

HUỲNH CHUNG
Không rõ quê quán. Soạn sách Tinh Chế Phụ Nhân Khoa (Sài Gòn
1933).
Danh y

HÀ MỘNG DAO (1693 - 1763)
Hà Mộng Dao, tự Báo Chi, hiệu Tây Trì, về
già tự xưng là Nghiên Nông, người Quảng
Đông, Nam Hải, là danh y ở Lĩnh Nam, đời
Thanh. Khi còn nhỏ ông học khoa cử, nhung
vì nhiều bệnh, phải bỏ học nhiều nên thi
không đỗ. Con người ông tích cách hào sảng
phóng khoáng, buổi trà dư tửu hậu phương
cùng bạn bè bàn luôn thế sự cổ kim không
biết mệt. Đối thi văn, âm luật, lịch pháp, số học, các môn đều có nghiên
cứu sâu. Năm 29 tuổi học với Đốc học ở Quảng Đông là Huệ Sĩ Kỳ. Vì
ông đọc thông bách gia chư tử, tài hoa xuất chúng, lại giỏi thi văn nên
được thầy Huệ khen là ‘hạt châu quí của Nam Hải’. Lại vì cùng Lao
Hiếu Dự là tám bạn đồng học nổi tiếng nên được tặng là ‘Huệ môn bát
tử’ (bọn tám ngươi ở cửa thầy Huệ). Học xong kinh sách, ông nghiên
cứu thêm y thuật của Kỳ, Hoàng (Kỳ Bá, Hoàng Đế), lâu ngày tinh
thông nghề y. Năm 38 tuổi, ông mới đỗ Tiến sĩ; Khi vào điện thứ, được
hỏi về việc trị thủy, ông ví trị thủy như trị bệnh, nghìn lời thao thao bất
tuyệt, quan chủ khảo họ Cố hết lời khen tặng, kết quả đỗ đầu bảng. Sau
làm quan huyện trải qua các nơi, như: Quảng Tây, Nghĩa Ninh, Dương
Sóc, Sầm Khê, Tư Ân; mười mấy năm sau thăng quan châu ở Phụng
Thiên, Liêu Dương (nay là Thẩm Dương). Ông nổi tiếng giỏi hành
chính. Khi làm quan ông vẫn trị bệnh cho dân. Ông thanh liêm, biết
thương dân, quan tâm đến đời sống khổ cực của dân, có thành tích tết
Danh y
trong việc chữa trị bệnh dịch trong dân. Khi ở Tư ân, bệnh dịch lệ lưu
hành, ông cho thuốc uống kịp thời, cứu sống nhiều người. Quan trên ra
lệnh đem phương thuốc của ông công bố rộng rãi đần các quận ấp, cứu
dân rất nhiều. Khi ở Liêu Dương, có người bệnh thần kinh hơn năm tên
Vương Hồng, khi phát bệnh có sức mạnh phi thường, một lần từng

nhấc bổng một người lên ném vào lửa, lửa đốt sém hết da, ông đắp
thuốc cho nạn nhân mấy ngày thì khỏi. Ông lại ngồi ở công đường,
truyền lệnh bắt Vương Hồng trói vào cột ở sân. Vương vừa ca hát vừa
chửi mắng điên cuồng. Ông dùng cực hình cho hắn sợ, rồi bắt hắn uống
thuốc, tức là cho hai người đè hắn xuống, rót thuốc vào hai lỗ tai.
Không lâu sau, hắn mửa dữ, thần chí tỉnh táo các chứng đều hết. Số
đông người vây quanh trông thấy đều kinh ngạc bội phục. Y thuật của
ông vang tiếng khắp Phụng Thiên. Ông làm quan gần 20 năm, nhung
không có tiền dư, mình mặc triều phục mà lòng ở y học, chán mệt chốn
quan trường bèn xin từ quan về làng vào niên hiệu Càn Long năm thứ
15 (1750), quyết lòng theo nghiệp y tế thế lợi dân cho đến hết đời.
Tuổi già ông lấy việc viết sách làm vui, biên soạn rất nhiều sách thuốc,
trong số đó có quyển ‘Y Biển’ là tiêu biểu nhất, một quân y học nhập
môn, chữ nghĩa rõ ràng, đầy đủ, có tính cách cơ sở tốt. Hậu thế lấy sách
này và các sách sau đây của ông ‘Thần Hiệu Các Khí Bí Phương’,
‘Truy Lao Tiên Phương’, ‘Phụ Khoa Lương Phương’, ‘Ấu Khoa Lương
Phương’, ‘Đậu Chẩn Lương Phương’, họp lại ấn hành một bộ ‘Y
Phương Toàn Thư’. Ngoài ra, ông còn có các sách ‘Thương Hàn Cận
Ngôn’, ‘Châm Cứu Xuy Vân Tập’, ‘Chẩn Mạch Phổ’. Ông mất năm
1763, hưởng thọ 70 tuổi.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×