Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BỆNH CẢM CÚM (FLU) - Phần VIII ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.61 KB, 10 trang )

BỆNH CẢM CÚM
(FLU) - Phần VIII
SỬ DỤNG THUỐC

Các vắcxin hiện có sẵn để ngăn ngừa bệnh cúm (Xem phần các vắcxin cúm do
virút trong bài này)
Đối với bệnh cúm nhẹ, việc làm giảm bớt triệu chứng thì tương tự như cảm lạnh.
Có 2 loại thuốc kháng virút đã được phát triển để chữa trị bệnh cúm: các loại
thuốc ức chế neuraminidaza (neuraminidase inhibitors) và các loại thuốc ức chế
M2 (M2 inhibitors). Những loại thuốc này có thể rút ngắn thời gian của các triệu
chứng nhưng không cho thấy rằng chúng có thể ngăn ngừa và làm giảm bớt những
sự lây nhiễm. Các loại thuốc này không có hiệu quả nếu mới bắt đầu sử dụng sau
36 giờ đầu tiên mắc bệnh. Vì xảy ra tình trạng kháng thuốc, cho nên một số nhà
chuyên môn đề nghị rằng các loại thuốc này chỉ được sử dụng cho những bệnh
nhân bị bệnh nghiêm trọng hoặc những người có nhiều nguy cơ mắc bệnh.

Các Loại Thuốc Kháng Virut: Thuốc Ức Chế Neuraminidaza
Các Nhãn Hiệu và Các Lợi Ích: Zanamivir (Relenza) và oseltamivir (Tamiflu) là
những loại thuốc ức chế neuraminidaza. Chúng là những loại thuốc mới mà đã
được chế tạo để ngăn chặn một loại men virút quan trọng, gọi là neuraminidaza,
mà có liên quan đến sự tái tạo bản sao của virút (viral replication). Mặc dù có hiệu
quả, nhưng toàn bộ lợi ích của các loại thuốc này còn rất khiêm tốn.
Những điểm quan trọng trong việc sử dụng các loại thuốc này:
• Lợi ích chính của các loại thuốc này là có tác dụng làm rút ngắn thời gian khoảng
một ngày của các triệu chứng, và chỉ khi nào bắt đầu sử dụng thuốc trong vòng 48
giờ sau khi các triệu chứng trở nên rõ rệt. Các loại thuốc này có thể được dùng để
điều trị cho cả bệnh cúm loại A và cúm loại B.
• Các loại thuốc này có thể giúp làm giảm bớt sự lan truyền của virút.
• Sự đề kháng của virút đối với thuốc oseltamivir (Tamiflu) đang gia tăng. Do đó,
Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Dịch Bệnh Hoa Kỳ (The Centers for
Disease Control and Prevention – CDC) khuyến khích rằng, khi nào nghi ngờ bị


nhiễm bệnh cúm loại A (H1N1), thì việc điều trị sẽ bao gồm thuốc zanamivir hoặc
sử dụng kết hợp thuốc oseltamivir và rimantadine, thay vì chỉ dùng riêng
oseltamivir.
• Cả hai loại thuốc đều cho thấy một số lợi ích trong việc ngăn ngừa bệnh cúm.
Tuy nhiên, chỉ có oseltamivir được chấp thuận, và chỉ được dùng cho những bệnh
nhân trên 13 tuổi.
• Các loại thuốc này có thể có tác dụng giảm bớt các biến chứng của bệnh cúm,
mặc dù điều này cần được xác minh. Hiện vẫn chưa biết được rằng các loại thuốc
này có bất cứ ảnh hưởng gì lên toàn bộ tỉ lệ sống sót không.
• Oseltamivir là loại thuốc duy nhất được nghiên cứu trong các trường hợp cúm
chim (cúm gia cầm). Mặc dù loại thuốc này có tác dụng trong phòng thí nghiệm,
nhưng chưa thành công về lâm sàn. Tuy nhiên, kinh nghiệm còn rất hạn chế, và
hiện vẫn chưa rõ những người bị nhiễm cúm gia cầm mà được dùng thuốc đúng
lúc thì có hiệu quả không.
Các Hạn Chế và Các Tác Dụng Phụ. Mặc dù chúng có nhiều lợi ích hơn so với
các loại thuốc ức chế M2, nhưng các loại thuốc ức chế neuraminidaza này thì tốn
kém hơn. Để có được hiệu quả, chúng cần phải được uống trong vòng 2 ngày sau
khi các triệu chứng mới bắt đầu. Thuốc ức chế neuraminidaza cũng không có hiệu
quả để chống lại chứng bệnh có triệu chứng giống như cúm (một loại bệnh mà
không phải do virút cúm gây ra). Cũng có một số khác biệt giữa hai loại thuốc này
mà có thể rất quan trọng đối với một số cá nhân:
• Zanamivir được sử dụng dưới dạng thuốc xịt mũi hoặc thuốc hít. Những người bị
bệnh suyễn hoặc bị các rối loạn khác về phổi có thể gặp phải tình trạng co cứng
đường hô hấp và do đó nên sử dụng loại thuốc này với sự lưu ý. Các tác dụng phụ
thường không đáng kể đối với đa số bệnh nhân. Điều quan trọng là phải đảm bảo
rằng những bệnh nhân cao tuổi có thể sử dụng đúng cách dụng cụ hít thuốc
zanamivir.
• Oseltamivir được sử dụng dưới dạng viên nang và dạng lỏng. Các tác dụng phụ
cũng không đáng kể, nhưng có khoảng 10 – 15% số bệnh nhân bị buồn nôn và nôn
mửa. Những bệnh nhân bị suy yếu chức năng thận nên dùng thuốc ở những liều

lượng thấp hơn.
Cách sử dụng hiện hành của những loại thuốc ức chế neuraminidaza ở các độ tuổi
khác nhau và các nhóm bệnh nhân khác nhau như sau:
• Những người trưởng thành: Cả hai loại thuốc được chấp thuận cho việc điều trị ở
những bệnh nhân tuổi trưởng thành.
• Trẻ em: Oseltamivir được chấp thuận sử dụng cho trẻ em từ 1 tuổi trở lên. Các
nghiên cứu cho thấy sự thuyên giảm đáng kể các triệu chứng và tỉ lệ nhiễm trùng
tai trong nhóm bệnh nhân này. Học Viện Nhi Khoa Hoa Kỳ (The American
Academy of Pediatrics) đề xuất: Trị liệu bằng thuốc này nên được áp dụng cho
những trẻ em bị cảm nhiễm cúm và có nhiều nguy cơ bị cảm nhiễm nghiêm trọng,
và áp dụng cho những trẻ em bị cảm nhiễm cúm ở mức độ vừa phải và có thể được
giảm bớt quá trình xảy ra các triệu chứng. Các biện pháp ngăn ngừa nên được sử
dụng (1) cho những trẻ em có nhiều nguy cơ cảm nhiễm mà chưa được chủng
ngừa và trong vòng 2 tuần sau khi chủng ngừa, (2) cho những thành viên trong gia
đình chưa được chủng ngừa và những nhân viên y tế tiếp xúc gần gũi với những
trẻ em chưa được chủng ngừa có nguy cơ cao hoặc những trẻ sơ sinh chưa đầy 6
tháng tuổi, và (3) để kiểm soát những sự bùng nổ của dịch cúm ở những nhân viên
chưa được chủng ngừa và những trẻ em trong trường học, hội sở.
• Các bệnh nhân có nguy cơ cao: Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng các loại
thuốc ức chế neuraminidaza an toàn và hiệu quả đối với những bệnh nhân mắc
phải những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hoặc những tình trạng mà có thể tạo ra
nguy cơ bị những biến chứng của bệnh cúm.

Các Loại Thuốc Kháng Virut: Các Loại Thuốc Ức Chế M2
Các Nhãn Hiệu và Các Lợi Ích. Amantadine (Symmetrel) và
rimantadine(Flumadine) là những loại thuốc ức chế M2. Những lợi ích sau đây có
thể áp dụng cho thiểu số những kiểu cúm A mà vẫn bị nhạy cảm với những loại
thuốc này:
• Cả hai loại có tác dụng bảo vệ chống loại cúm loại A và ngăn ngừa bệnh nghiêm
trọng nếu người đó tiếp xúc với sự lây nhiễm. (Để có được hiệu quả, bệnh nhân

phải được dùng thuốc trong vòng 2 ngày sau khi căn bệnh khởi phát).
• Chúng có thể rút ngắn thời gian và làm giảm bớt mức độ nghiêm trọng của bệnh
cúm nếu bệnh nhân được dùng thuốc trong vòng 48 tiếng sau khi các triệu chứng
bắt đầu xuất hiện.
Những Hạn Chế. Những mặt hạn chế của các loại thuốc ức chế M2 bao gồm:
• Tình trạng kháng lại thuốc của virut (dung nạp thuốc của virut) đối với các loại
thuốc này xuất hiện nhanh chóng.
• Các loại thuốc ức chế M2 không có hiệu quả chống lại cúm loại B.
• Cả 2 loại thuốc này không chứng minh được có tác dụng làm giảm nguy cơ bị
các biến chứng của bệnh cúm, bao gồm viêm phổi (pneumonia) và viêm phế
quản(bronchitis).
Các Tác Dụng Phụ. Cả hai loại thuốc ức chế M2 thỉnh thoảng gây ra buồn nôn,
nôn mửa, khó tiêu, mất ngủ, và ảo giác. Amantadine ảnh hưởng đến hệ thống thần
kinh và có khoảng 10% số người mắc phải chứng căng thẳng thần kinh, trầm cảm,
lo âu, không tập trung, và chóng mặt. Rimantadine thì ít bị tình trạng như vậy.
Amantadinehiếm khi gây ra các cơn co giật, thường ở những người cao tuổi đã
từng có nguy cơ gặp phải các triệu chứng về tâm thần.
Lưu ý: Amantadine là một phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh Parkinson và
nên được tiếp tục trị liệu cho chứng bệnh đó.

Các Loại Vắc Xin Cho Bệnh Cúm Do Virut
“Chích Ngừa Cúm”. Các loại vắc xin này sử dụng các loại virut đã mất hoạt tính
(không còn sống). Chúng được thiết kế để kích thích hệ thống miễn dịch tấn công
các kháng nguyên có trên bề mặt của loại virut này. (Các kháng nguyên là những
phần tử lạ mà hệ thống miễn dịch đặc biệt xem như kẻ xa lạ và là mục tiêu để tấn
công).
Một cách đáng tiếc, những kháng nguyên trong các virut cúm này thực hiện những
biến đổi về gen [gọi là thay đổi nhỏ về kháng nguyên (antigenic drift)] theo thời
gian, do đó chúng có khả năng kháng lại loại vắc xin mà có hiệu quả vào năm
trước. Các loại vắc xin do đó được thiết kế lại hàng năm để thích ứng với dạng

virut hiện hành.
• Cúm loại A. Virut cúm loại A được phân loại thêm bằng những phân tử kháng
nguyên chính (hemagglutinin và neuraminidaza), mà chúng dùng làm mục tiêu
cho các vắc xin. Cúm loại A là một chứng bệnh đặc biệt, vì nó có thể lây nhiễm
cho những loài động vật khác, chẳng hạn như heo (lợn) hoặc gà, và thực hiện
những sự biến đổi gen quan trọng.
• Virut cúm loại B có khuynh hướng ổn định hơn virut cúm loại A, nhưng chúng
cũng biến đổi. Mặc dù cúm loại B khá ít phổ biến hơn loại A, nhưng một loại vắc
xin dành cho cúm loại B cũng quan trọng vì các chuyên gia lo ngại rằng các trẻ
nhỏ không tạo ra được sự miễn dịch đối với loại virut này, và sẽ mắc phải tình
trạng cúm nghiêm trọng nếu các trẻ nhỏ tiếp xúc với các virut cúm loại B.
Vắc xin dùng trong mũi. Một loại vắc xin nhẹ dùng trong mũi nhưng hoạt tính
(FluMist) đang chứng tỏ là có hiệu quả và an toàn cho những người có độ tuổi từ 2
– 49 khỏe mạnh và không mang thai, và đã được chấp thuận bởi FDA. Nó được
biết đến như một loại vắc xin cúm dùng trong mũi, có tác dụng làm yếu đi, và hoạt
tính (Live Attenuated Intranasal influenza Vaccine – LAIV). Vắc xin này được
thiết kế để phát triển chỉ ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ ở đường mũi, không phải ở
những lá phổi và đường hô hấp bên dưới có nhiệt độ ấm hơn. Nó làm tăng cường
các yếu tố miễn dịch nhất định. FluMist được sử dụng dưới dạng thuốc xịt mũi.
Thời Điểm và Tính Hiệu Quả của Vắc xin. Một cách lý tưởng, mọi người nên được
tiêm chủng mỗi năm vào tháng 10 hoặc tháng 11. Tuy nhiên, phải mất một khoảng
thời gian dài để toàn bộ nguồn cung cấp vắc xin đến được một số nơi. Trong
những trường hợp như vậy, những nhóm người có nguy cơ cao nên được tiêm
chủng trước tiên.
Các kháng thể cho virut cúm thường phát triển trong vòng 2 tuần sau khi tiêm
chủng, và khả năng miễn dịch đạt đến mức cao nhất trong vòng 4 – 6 tuần, rồi dần
dần yếu đi.
• Bởi vì các trẻ em dưới 9 tuổi không phát triển được khả năng miễn dịch nếu
được tiêm chủng 1 liều vắc xin, do đó Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Chống
Dịch Bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến khích 2 lần tiêm chủng cách nhau 1 tháng vào

năm đầu tiên các trẻ được chủng ngừa. Nếu các trẻ em dưới 9 tuổi được tiêm
chủng 1 liều vắc xin trong năm chủng ngừa đầu tiên, thì các em nên được tiêm
chủng 2 liều vắc xin vào năm kế tiếp. Những trẻ em dưới 9 tuổi được tiêm chủng 1
liều đơn trong 3 năm trở lên thì nên tiếp tục được tiêm chủng những liều đơn.
• Nên lưu ý rằng nếu một cá nhân phát triển các triệu chứng cúm và được chẩn
đoán chính xác và đúng thời điểm, thì việc chủng ngừa của các thành viên khác
trong hộ gia đình này trong vòng 36 – 48 tiếng sẽ có thể bảo vệ hiệu quả các thành
viên này.
Đối với những người trưởng thành có sức khỏe tốt, việc chủng ngừa thường có tác
dụng làm giảm bớt tỉ lệ mắc bệnh vào khoảng 70 – 90%. Các loại vắc xin hiện
hành có thể phần nào ít hiệu quả đối với một số bệnh nhân, chẳng hạn như những
người cao tuổi và những người mắc một số chứng bệnh mãn tính. Tuy nhiên, ngay
cả đối với những người có khả năng miễn dịch kém hơn, loại vắc xin này thường
có tác dụng bảo vệ chống lại những biến chứng cúm nghiêm trọng, đặc biệt là
viêm phổi. Thật vậy, trong số những người cao tuổi, các nghiên cứu đáng quan
tâm hiện nay cho thấy rằng việc chủng ngừa cúm có thể giúp bảo vệ chống lại
chứng đột quỵ (tai biến mạch máu não), những tình trạng bệnh tim gây hại, và tử
vong từ mọi nguyên nhân.
Những Trẻ Mà Nên Được Tiêm Chủng. Những trẻ em sau đây trên 6 tháng tuổi
nên được chủng ngừa cúm:
• Học Viện Nhi Khoa Hoa Kỳ (The American Academy of Pediatrics - AAP) và
Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Chống Dịch Bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến khích
chủng ngừa cúm cho tất cả các trẻ em có sức khỏe tốt từ 6 tháng tuổi đến 18 tuổi.
• Ngoài ra, bất kỳ trẻ em nào trên 2 tuổi mắc phải chứng bệnh mà đòi hỏi được
chăm sóc thường xuyên hoặc trẻ nào đã từng nằm viện vì một chứng bệnh nghiêm
trọng (đặc biệt là bệnh phổi hoặc bệnh thận, bệnh tiểu đường, bệnh tế bào máu
hình liềm, hoặc thiếu khả năng miễn dịch). Nếu các bậc phụ huynh lo ngại về các
vắc xin mà có chứa chất dùng để bảo quản thimerosal, họ có thể hỏi bác sĩ về loại
vắc xin cúm có chứa ít chất thimerosal.
• Những trẻ em mà tiếp xúc trực tiếp với người dễ bị các biến chứng từ bệnh cúm

cũng nên được tiêm chủng.
• Những trẻ em mà tiếp nhận trị liệu bằng thuốc aspirin dài hạn cũng nên được
chủng ngừa bệnh cúm bởi vì các em có nhiều nguy cơ bị hội chứng Reye (Hội
chứng Reye là tình trạng não bị hủy hoại đột ngột và các vấn đề về chức năng hoạt
động của gan mà không biết được nguyên nhân), một chứng bệnh gây tử vong,
nếu các em mắc phải bệnh cúm.
• Các trẻ em trên 5 tuổi mà có nhiều nguy cơ mắc bệnh nghiêm trọng.

×