Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx - Phần Mười Một: Triết Học Cổ Điển Đức - Nội dung khái niệm của triết học Kant potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.02 KB, 48 trang )

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

Phần Mười Một: Triết Học Cổ Điển Đức - Nội dung khái niệm của triết học
Kant
I - NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT
+ Giai đoạn «tiền phê phán» ở thời tuổi trẻ của Kant là một giai đoạn ngắn, có
hướng duy vật. Trong quyển sách nổi tiếng «Lịch sử phổ cập của tự nhiên và lý
thuyết về bầu trời»[1] (1755), lần đầu tiên được trình bày một quan niệm duy vật
có tính cách lịch sử về tư tưởng. Kant quan niệm bầu trời với những tinh tú, mặt
trời, quả đất, đều là kết quả của một quá trình lịch sử tự nhiên.

+ Giai đoạn «phê phán», khi Kant đặt vấn đề về triết học căn bản tức là vấn đề
quan hệ giữa tư tưởng và thực tại, thì Kant lại chuyển sang duy tâm.

Năm 1781, ông viết cuốn «Phê phán lý tính thuần túy», tiếp theo đó là những
cuốn «Phê phán lý tính thực tiễn» (1788) và «Phê phán năng tính nhận xét»
(1790)[2].

+ Cách đặt vấn đề của Kant. Kant đặt vấn đề triết học trên lập trường phê phán.
Đó là một mặt thay đổi mới so với hướng huyền học. Hướng huyền học đặt vấn
đề: thực tại là gì? Trái lại, Kant đặt vấn đề: chúng ta hiểu biết đối tượng khách
quan thế nào, làm thế nào mà hiểu biết được thực tế khách quan - Do chỗ phê phán
năng lực hiểu biết mà quy định được đối tượng thực tế.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

Kant quan niệm cách đặt vấn đề như vậy là cách mạng, giống như Copenic[3] đã
đảo lộn vũ trụ quan cũ bằng cách chủ trương rằng quả đất chạy chung quanh mặt
trời, trái hẳn với quan niệm cũ là mặt trời xoay quanh quả đất. Trước kia, người ta
quan niệm lý tính hướng theo thực tại, người ta cải thiện lý tính theo thực tại. Kant
cho rằng đặt vấn đề như vậy thì không giải quyết được, vì chúng ta chưa biết thực


tại là gì. Do đó Kant đặt vấn đề: chúng ta hiểu biết thực lại bằng cách thế nào?

Nhưng cách mạng của Copernic đi từ chủ quan sang khách quan, trái lại cách
mạng của Kant đi từ khách quan vào chủ quan, cho lý tính quy định thực tại chứ
không phải thực tại quy định lý tính như trước nữa. «Cách mạng» của Kant là một
«cách mạng duy tâm».

Sự đảo ngược đó thực hiện thế nào? Thực hiện bằng cách phê phán chủ quan của
ta xem nó đạt được đến đâu.

+ Cách phê phán của Kant. Kant phê phán chủ quan theo 3 hướng:

1 - Phê phán lý tính thuần túy.

[Kant] chứng minh rằng lý tính thuần túy không đạt được đối tượng, mà thực tế nó
cũng không có đối tượng, nên nó không đạt được chân lý - muốn có đối tượng thì
phải có kinh nghiệm. Ở chỗ này, Kant có phần tiến bộ vì đã chống lại hướng
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

huyền học cũ (huyền học đòi đặt đối tượng là tinh thần và Thượng đế bằng lý tính
thuần túy. Kant cho lý tính thuần túy không có đối tượng, tức là không có khoa
học nào nắm được Thượng đế, chỉ có khoa học tự nhiên. Vấn đề Thượng đế không
thể đặt ra được trên cơ sở lý luận).

b - Phê phán lý tính thực tiễn.

Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta thường bám vào sự việc trước mắt. Đó là chủ
quan của sự hoạt động. Trong chủ quan nghiên cứu, chúng ta có hướng bỏ quên
kinh nghiệm, nhưng trong hành động thực tiễn, chúng ta lại hay quên mục đích
cao xa, quên quy luật phổ cập.


Kant phê phán luân lý kinh nghiệm chủ nghĩa, tức là luân lý linh báo dựa vào Giáo
hội của chế độ cũ, luân lý dựa vào tình cảm. Ông nói hoạt động thực tiễn của ta
cần phải nhằm một mục đích cao xa là thực hiện một lý tưởng phổ cập của nhân
loại hoạt động theo lý tính (có nghĩa là lý tính thuần túy), chứ không để cho cảm
tính làm chủ, không theo điều kiện sự việc vụn vặt trước mắt.

Phần thực hiện nhằm ngó lên trời.

c - Phê phán năng 1ực phán đoán (tính nhận xét)
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx


Thống nhất hai điểm mâu thuẫn trên như thế nào? Lý tính và kinh nghiệm, lý
tưởng và thực tế sẽ phối hợp làm sao? Kant cho rằng có thể tìm giải pháp trong
vấn đề năng lực của sự nhận xét. Trong những nhận xét của chúng ta, có hai hạng
nhận xét độc lập, tự túc, không dựa vào cái gì hết, chỉ dựa vào nội dung của nó, đó
là nhận xét thẩm mỹ và nhận xét về mục đích trong tự nhiên. Nhận xét mỹ thuật là
cái này đẹp, cái kia đẹp; nhận xét mục đích tự nhiên là vật này có mục đích của nó.
Nội dung của những nhận xét ấy bao hàm một sự điều hòa căn bản giữa lý tính và
kinh nghiệm, lý tưởng và thực tế.

Trong hai hạng nhận xét trên, hạng nhận xét thẩm mỹ là quan trọng hơn cả. Kant
là người đầu tiên sáng lập khoa thẩm mỹ học, sau đó có hai quan niệm thẩm mỹ
nữa của Hegel và Marx. Kant nhận định sở dĩ chúng ta nhận xét một vật đẹp, mà
nhận xét đúng, là vì tư tưởng về vật chất ấy thống nhất được những điểm đối lập
về 4 mặt:

- Nhận xét thẩm mỹ bao hàm phổ cập không khái niệm: nó là nhận xét phổ cập về
một cá thể, nhằm tính chất cá thể.


- Nó bao hàm một cái lý thú vô tư, không dựa vào cảm giác khoái lạc.

- Nó có tính chất mục đích tuy không nhằm một mục đích cụ thể.
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx


- Chân lý thẩm mỹ không nhằm một thực tế khách quan.

Tóm lại, triết học Kant bộc lộ một nhân sinh quan đòi hỏi [con] người thực hiện
mọi giá trị nhân bản trong đời sống thực tế: đấy là phần tiến bộ.

Nhưng khi nêu ra vấn đề làm việc theo cách nào, thì Kant lại không xuất phát từ
thực tế. Ông cho quy luật của mục đích đời sống người ta, tiêu chuẩn quy định
mục đích ấy là ở lý tính xa rời kinh nghiệm, xa rời thực tế. Về điểm này, Kant lại
còn lạc hậu hơn cả nhà duy vật thế kỷ XVIII. Các nhà triết học thế kỷ XVIII còn
cho mục đích của đời sống, tiêu chuẩn sự hoạt động là ở trong thực tế, nguyên lý
khoa học và luân lý đều xuất phát từ thực tế.
II - CƠ SỞ XÃ HỘI ĐỨC CUỐI THẾ KỶ XVIII
PHẢN ÁNH TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT
Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một nước lạc hậu so với các nước Tây Âu
chung quanh. Tập đoàn phong kiến Đức đang thống trị vững mạnh. Giai cấp tư sản
Đức còn yếu đuối, nhỏ mọn, chưa có điều kiện lên nắm chính quyền. Giai cấp tư
sản chưa đòi thực hiện nhân sinh quan của nó trong thực tế khách quan, trong xã
hội thực tại; mà trong thực tế khách quan là thực tế xã hội phong kiến Đức, tư sản
không thể tìm tiêu chuẩn để hoạt động được.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

Trong khi đó, ảnh hưởng cách mạng tư sản các nước xung quanh, nhất là cách

mạng tư sản Pháp, đã vang dội mạnh vào tư tưởng của giai cấp tư sản Đức; giai
cấp tư sản Đức cũng đặt vấn đề cách mạng, nhưng trong tư tưởng thôi, chứ không
phải là trong thực tế.

Lý tưởng đó thực hiện như thế nào, cái gì bảo đảm cho lý tưởng đó có thể thực
hiện được? Kant chỉ nêu ra nhận xét là có lý tưởng đã thực hiện được, như có tác
phẩm mỹ thuật hay trước tác tự nhiên có giá trị, thành công, thì sao trong thực tế
xã hội lại không thực hiện được. Chẳng qua những tác phẩm mỹ thuật thống nhất
được lý tính và cảm giác, lý tưởng và thực tế chỉ là một sự gặp gỡ ngẫu nhiên,
không có một nguyên lý gì làm cơ sở cho sự thành công chắc chắn cả. Kant còn
cho nó nguồn gốc của sự điều hòa đó là Thượng đế.

Sau khi đã phê phán mọi mặt hoạt động chủ quan của người ta, sau khi đã chứng
minh không thể để hoạt động của người ta ngoài thực tế (phủ định huyền học), thì
Kant lại trở lại tôn giáo, không có cách gì thực hiện khác. Sự bất lực trong tư
tưởng của Kant phản ánh sự bất lực của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ
thống Châu Âu đã tiến bộ nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản. Tính chất
bất lực ấy phản ánh trong quan niệm bị động về nhận xét thẩm mỹ, cho nó là sự
gặp gỡ giữa lý tính và cảm giác, có mục đích mà không tiến tới mục đích.
III - ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT

Giai cấp tư sản Âu Tây sau khi làm cách mạng thành công, sau khi đã nắm chính
quyền thì nó hết vai trò của nó. Lực lượng kinh tế của nó đã được thỏa mãn, đồng
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

thời nó đang phải e sợ, chống đối với một lực lượng xã hội mới đang lên là giai
cấp vô sản. Giai cấp tư sản trở thành lạc hậu, phản động. Những mục đích cao xa
mà nó đề ra khi đứng lên làm cách mạng như công lý, bình đẳng, bác ái chỉ còn
là lý tính, lý tưởng, không phải là cái để thực hiện nữa. Những mục đích đó chỉ
còn được nhớ lại như một lý tưởng, một lý tưởng cần thực hiện và là một lý tưởng

có thể thực hiện được.

Tư tưởng triết học Kant ở cuối thế kỷ XVIII đã phù hợp với tư tưởng giai cấp tư
sản Âu Tây của thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX này. Triết học Kant thành tư tưởng
thống trị, mang dạy trong các trường học ở Âu châu, đến nỗi sách giáo khoa tư sản
Âu Tây phân hai giai đoạn tư tưởng nhân loại về cổ điển và cận đại, lấy Kant làm
mốc.

Ba cuốn phê phán của Kant tương đương với 3 phần trong Triết học: triết học lý
thuyết, triết học thực tiễn, triết học thẩm mỹ; nó nghiên cứu ba vấn đề căn bản: giá
trị của Chân lý, Luân lý, Mỹ cảm.
IV - TRIẾT HỌC LÝ THUYẾT
Phê phán lý tính thuần tuý

A - BỐI CẢNH VÀ CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ

Cuối thế kỷ XVIII, nước Đức còn ở trình độ rất lạc hậu vì hai lý do:
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx


Về địa lý đứng ngoài những đường thương mại quốc tế lớn, chủ yếu bấy giờ đang
phát triển ở bờ biển Đại Tây Dương (tư bản phát triển ở Anh, Hà Lan, Pháp), trong
tình trạng bấy giờ Đức không có điều kiện phát triển ngoại thương.

Trong lịch sử thế kỷ thứ XVI vả XVII, các lực lượng tiến bộ ở Đức đã bị đàn áp
và tiêu hủy phần lớn, đặc biệt là trong «Chiến tranh nông dân» là cuộc chiến tranh
trong đó cải cách tôn giáo của Luther chống phong kiến. Phong trào Luther lúc
đầu lôi cuốn nông dân đi với công thương và tiểu phong kiến chống lại phong kiến
và Giáo hội. Nhưng kết quả của nó chỉ là sự thất bại của nông dân, và chỉ đi đến sự
xóa bỏ một phần quyền lợi Giáo hội, đề cao quyền lực các hoàng thân (Chúa chư

hầu) với cải cách của Luther. Nó chỉ là thắng lợi của chế độ hoàng thân dựa vào
tiểu phong kiến và lôi cuốn bọn tư sản và tiểu tư sản đầu hàng, còn nông dân thì bị
đàn áp hoàn toàn. Sau đó, những hạng tiểu tư sản và tư sản cũng bị đàn áp không
ngóc đầu lên được. Chế độ thắng là chế độ phân quyền, các hoàng thân cát cứ
ngăn trở kinh tế tư sản phát triển. Qua nửa đầu thế kỷ XVII, lại có chiến tranh 30
năm với sự can thiệp của hầu hết các cường quốc Âu châu, đã tiêu hao gần hết lực
lượng của Đức.

Do những nguyên nhân đó, tới thế kỷ XVIII, Đức rất lạc hậu: phong kiến còn phân
quyền, nhưng giai cấp tư sản lại được ảnh hưởng tư tưởng giai cấp tư sản Âu Tây
nói chung (nhất là Anh, Hà Lan, Pháp). Mức yêu cầu đứng về khái niệm là mức
yêu cầu của cách mạng Âu Tây, nhưng lại mâu thuẫn với tình trạng thực tế rất
thấp, chỉ đi đến liên minh các chư hầu mở đường cho giai cấp tư sản phát triển
phần nào về kinh tế, tham gia hành chính phần nào, nhưng chưa có vấn đề nắm
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

chính quyền. Do đó tư tưởng Đức cuối thế kỷ XVIII, một mặt về nội dung thì rất
tiến bộ, đặt vấn đề sâu sắc, nhưng về lập trường thì lại lạc hậu, chỉ quan niệm
những khái niệm tiến bộ trên một lập trường duy tâm thôi. Về văn học có phong
trào nổi tiếng là Sturm und Drang[4], một phong trào lãng mạn có tính chất cách
mạng tư sản đề cao cá nhân tuyệt đối cá nhân đây là những đức tính tự phát của
cá nhân nhưng lại đầu hàng về chính trị. Về tư tưởng triết học, cái gọi là Cổ điển
Đức (danh từ của Marx) có 4 triết gia: Kant, Fichte[5], Schelling[6] và Hegel.
Đặc biệt là tư tưởng Kant và Hegel phản ánh trong phạm vi duy tâm (vì hoàn cảnh
nghèo nàn của Đức) những yêu cầu của Cách mạng tư sản Âu châu nói chung,
nhất là Cách mạng tư sản Pháp. Lập trường thì duy tâm, nhưng nội dung thì lại có
phần sâu sắc hơn những nhà tư tưởng Pháp, Anh, vì những người này hạn chế
những vấn đề nghiên cứu trong phạm vi những đòi hỏi thực tế trước mắt. Cụ thể
Kant đặt vấn đề: về mặt triết học lý thuyết, phải tiêu diệt những mơ hồ của huyền
học và tôn giáo, biện chính khoa học mới. Các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ Anh,

Pháp đã thực hiện trên nhiệm vụ ấy về hai mặt: xây dựng vũ trụ quan duy vật, và
xây dựng lý thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa về quá trình hiểu biết của người ta
(Locke, Condillac[7], Diderot, Helvétius[8] ). Kant cũng đặt vấn đề phê phán
huyền học, phê phán khoa học giả dối chứng minh bằng lý tính những cái mơ hồ
như tồn tại của Thượng đế, bất diệt của Linh hồn, tuyệt đối của Tự do. Chúng ta
hiểu biết thế nào mà dám chứng minh những vấn đề lớn lao như thế? Đặt vấn đề
phê phán lý tính thuần túy, Kant có điều kiện đi sâu vào cơ cấu sự hiểu biết.
Nhưng mặt khác, yêu cầu lại hữu hạn, không triệt để: Kant không trực tiếp phê
phán tôn giáo và huyền học mà phê phán những nhận thức có tính chất trước kinh
nghiệm. Trong ấy, Kant lại đặt một số vấn đề về những khoa học mà Kant cho là
thực tế có trước kinh nghiệm và có giá trị chân chính. Cạnh huyền học, Kant nhận
thấy có hai khoa học có trước kinh nghiệm và chân chính: toán pháp thuần túy và
vật lý học thuần túy (toán học đi từ những nguyên lý không phụ thuộc vào kinh
nghiệm; về vật lý, Kant lấy một số nguyên lý mà người ta bấy giờ cho là thuần
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

túy: nguyên lý hoả lực, thăng bằng giữa động lực và phản lực, v.v , vì bấy giờ
khoa học còn chịu nhiều ảnh hưởng của huyền học). Sự phê phán lý tính thuần túy
của Kant không triệt để ở chỗ phá bỏ huyền học có tính chất tôn giáo, nhưng lại
biện chính cho toán học và vật lý học thuần túy, như thế Kant đã giữ lại một phần
những thành kiến huyền học mà không cho đó là những thành kiến huyền học. Vì
duy trì nó nên phải tìm cho nó một nguyên lý triết học có tính chất huyền học.
(Sau này, Kant viết «Nguyên lý huyền học của khoa học tự nhiên» (1786) và
«Nguyên lý huyền học về pháp lý» (1785)[9], và đều cho là chân chính). Đó là
phần hữu hạn của phê phán luận của Kant.

Sở dĩ hữu hạn như thế, vì với mức độ khả năng thực tế của giai cấp tư sản Đức bấy
giờ, chỉ có thể đặt vấn đề phê phán những khái niệm huyền học có tính chất tôn
giáo, và sự phê phán ấy ăn khớp với cuộc đấu tranh thực tế chống uy quyền chính
trị của Giáo hội liên minh với bọn đại phong kiến, nhưng những khái niệm huyền

học có tính chất vật lý hay pháp lý thì chưa thể giải phóng được. Chưa thể nhận
thức được nguồn gốc của nó, vì những kinh nghiệm vật lý phản ánh sự cấu kết
giữa tư sản và phong kiến về phương diện sản xuất, phương diện kinh tế và pháp
lý, ở đây chỉ có vấn đề dàn xếp thôi. Vấn đề tư hữu, đối với tư sản Đức, chỉ thực
hiện với sự bảo hộ của nhà vua thôi, chứ chưa thể độc lập được. Một số vấn đề mà
tư sản Đức chưa thể yêu cầu một cách thực tế và triệt để được thì vẫn nằm trong
phạm vi huyền học, và Kant cho nó là chân chính. Kết quả là trong phạm vi tư
tưởng, Kant chỉ có thể phê phán lý tính thuần túy trên một lập trường duy tâm, nếu
không thì không thể biện chính được những mệnh đề có phần tiến bộ và lạc hậu
ấy, phản ánh ảnh hưởng tư tưởng Cách mạng tư sản Âu Tây trong hoàn cảnh lạc
hậu của nước Đức.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

B - TRIẾT HỌC LÝ THUYẾT CỦA KANT

I - CẢM GIÁC LUẬN TIÊN NGHIỆM
(Esthétique transcendantale)

Cái hình thức huyền học mà Kant trực tiếp phê phán là Leibnitz bấy giờ đang
thống trị tư tưởng Đức. Lập luận căn bản của Leibnitz để phát triển huyền học là
liên hệ chặt chẽ bằng cách lẫn lộn cảm giác và nhận thức. Ông cho căn bản hai cái
là một, và chỉ phân biệt ở chỗ cảm giác có tính chất mập mờ và nhận thức thì rõ
rệt. Ví dụ: cùng trong bản nhạc, nếu ta tiếp thu bằng cảm tính thì ta chỉ nắm một
cách mập mờ những quan hệ toán lý mà nhà toán học có thể phân tích rõ rệt bằng
lý tính - những quan hệ thẩm mỹ mà ta nắm mập mờ bằng cảm tính cũng chính là
những quan hệ mà toán lý phân tích được một cách rõ rệt bằng lý tính. Nếu căn
bản hai cái là một, thì nhà lý luận thuần túy có thể nhận định về thực tế khách
quan mà không cần kinh nghiệm, do đó dùng lý luận thuần túy mà biện chính
những mệnh đề của huyền học.


Kant phê phán điểm căn bản là sự lẫn lộn cảm thức và nhận thức. Sự khác nhau
không chỉ ở chỗ mập mờ và rõ rệt, mà trong cảm thức thì đối tượng xuất hiện
trước chúng ta, còn nhận thức là sự nhận xét, nhận định về đối tượng, do đó cảm
thức phải đi trước, như thế không thể nào với lý luận thuần túy mà nắm được đối
tượng. Đó là phần tiến bộ trong cảm giác luận tiên nghiệm.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

Phần lạc hậu của nó là ở chỗ Kant nói thêm rằng, sở dĩ cảm giác có giá trị độc lập
như thế mà không thể thay thế bằng lý luận thuần túy, là nó có điều kiện căn bản
là những hình thức của cảm giác có trước kinh nghiệm, đó là không gian và thời
gian. Một vật không thể nào xuất hiện trong cảm thức nếu không xuất hiện trong
không gian và thời gian, đó là điều kiện của đối tượng, và nó có trước đối tượng.
Nếu nó có trước kinh nghiệm ấy, và nó có một giá trị không phụ thuộc kinh
nghiệm, đó là toán pháp thuần túy nghiên cứu không gian và thời gian. Tại sao nó
có trước kinh nghiệm? Kant cho nó là điều kiện của kinh nghiệm không phụ thuộc
vào thực thể tự tại, vì nếu phụ thuộc vào thực tại thì nó không thể có trước kinh
nghiệm. Nó là điều kiện phổ cập và tất yếu nhưng lại chủ quan, nó là hình thức
trước kinh nghiệm (à priori) của kinh nghiệm. Kant có đề cao giá trị độc lập của
cảm thức đối với nhận thức, và do đó gây cơ sở phê phán huyền học, nhưng một
mặt muốn bảo vệ tính chất thuần túy của những kỳ vọng của toán pháp thuần túy,
nên lại tuyệt đối hóa hình thức của cảm giác - không gian và thời gian -, biến
những hình thức ấy thành hoàn toàn chủ quan, do đó tách rời đối tượng xuất hiện
trong kinh nghiệm và vật tự tại. Kant đề cao kinh nghiệm, nhưng lại cho nó căn
bản là chủ quan, không phản ánh thực tại, nên học thuyết của Kant là duy tâm tiên
nghiệm. Nó đối lập với duy tâm kinh nghiệm chủ nghĩa, cả hai đều lấy chủ quan
làm xuất phát điểm, nhưng chủ quan của Kant có tính chất phổ cập và tất yếu, nó
là điều kiện tiên thiên của tất cả các cảm giác chủ quan có tính chất phổ cập và tất
yếu, nó là điều kiện của đối tượng thực tại tương đối trong kinh nghiệm, tuy không

phải là thực tại tuyệt đối, không phải là tự tại (ta không biết được tự tại mà chỉ biết
được thực tại trong không gian và thời gian).

Kant có phê phán huyền học, nhưng lại hạ thấp giá trị của khoa học cho là không
nắm được thực tại tuyệt đối, và như thế đã mở hé cửa cho sau này trở lại tôn giáo.
Đó là hai mặt của lý thuyết, phản ánh thực trạng xã hội và tình trạng giai cấp tư
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

sản Đức: trong khi đả phá cái thuần tuý của huyền học, Kant lại bảo vệ một thứ
thuần túy khác gần kinh nghiệm hơn thuần túy Toán lý. Kant chưa công nhận
thế giới vật chất quan niệm theo cơ lý là thực tại tuyệt đối. Giai cấp tư sản Đức đã
thấy cái hình thức thực tại xuất hiện trong cuộc Cách mạng tư sản, nhưng chưa đi
tới chỗ thấy được chỉ có thực tại ấy mà thôi. Chỗ tiến bộ của nó là công nhận giá
trị của cảm thức, không cho nó là lý luận mập mờ như Leibnitz. Do đó, sau này
triết học Kant ảnh hưởng rất nhiều trong tư tưởng tư sản Âu Tây, biến thành một
học thuyết giáo khoa xem như học thuyết mở đầu cho một thời kỳ mới. Thực ra,
nó chỉ xây dựng một cơ sở duy tâm, để một mặt thì hoạt động trong kinh nghiệm
thực tế, nhưng một mặt khác thì lại chống lại lập trường duy vật của phong trào xã
hội chủ nghĩa, và một phần nào hé cửa để đến lúc cần trở lại tôn giáo. Điểm tiến
bộ nữa là nó sẽ mở đường cho sự phân tích những hiện tượng tinh thần. Sự nghiên
cứu quan hệ giữa cảm thức và nhận thức sẽ mở đường cho sự nghiên cứu quá trình
tiến triển của ý thức của Hégel, cung cấp điều kiện để phát triển chủ nghĩa duy vật
về sự hiểu biết của người ta từ thực tế lên lý luận. Đó là công trình lớn nhất của
Triết học Cổ điển Đức.

II - PHÂN TÍCH LUẬN TIÊN NGHIỆM
(Analytique transcendantale)

Phân tích những khái niệm căn bản vận dụng trong nhận thức, đó là đối tượng của
phần này. Mục đích của nó cũng giống phần trên, là một mặt phê phán huyền học,

một mặt biện chính vật lý học thuần túy của vật lý học. Kant phê phán huyền học
có tính chất tôn giáo đứng về mặt nhận thức. Nhận thức không phải là một cảm
thức được phân tích, mà chỉ là tổng hợp cảm giác và chỉ tổng hợp thôi, vậy nếu
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

không có cảm giác thì nó cũng bất lực, như thế không thể có huyền học. Ở đây,
Kant đi rất sâu vào vai trò tổng hợp cảm giác của nhận thức, nhận thức có tính
chất khách quan nhờ thông qua cảm giác. Ví dụ, khi ta nói một đối tượng là khách
quan là khi ta có khả năng nhận thấy tính chất đồng nhất của vật lý qua những cảm
giác mà nó gây trong ý thức, những cảm giác ấy phải thống nhất trong một khái
niệm, không phải thống nhất của vật ấy qua những cảm giác mà nó gây trong ý
thức, không phải thống nhất một cách máy móc. Trong kinh nghiệm, phải có một
nguyên lý thống nhất các cảm giác trong một khái niệm, và thông qua nó ta mới
nhận thức tính chất đồng nhất của đối tượng. Cái gì cho ta phân biệt các cảm giác
thâu nhận trong kinh nghiệm thực tế và cảm giác trong mơ mộng? Kant cho cái
phân biệt đó là: trong kinh nghiệm thực tế, những cảm giác liên kết với nhau theo
quy luật phổ cập và tất nhiên, còn trong mơ mộng sự liên kết ấy không theo quy
luật. Vậy sự phân biệt là khái niệm quy định sự liên kết các cảm giác: nếu có sự
liên kết phổ cập tất nhiên thì đối tượng có tồn tại khách quan.

Trong số 12 phạm trù mà Kant gọi là phạm trù của trí tuệ có ứng dụng tất nhiên
trong hiện tượng khách quan, thì có hai phạm trù chủ yếu là:

- Phạm trù số lượng.
- Phạm trù nhân quả.

Những hiện tượng thế giới khách quan đều có số lượng quy định một cách khách
quan, và đều theo quy luật nhân quả, hiện tượng trước liên kết với hiện tượng sau
một cách tất nhiên. Những quy luật ấy là do sự ứng dụng tất nhiên của những
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx


phạm trù của trí tuệ vào hiện tượng. Phạm trù số lượng ứng dụng vào hiện tượng
thì đẻ ra quy luật số lượng. Phạm trù nhân quả ứng dụng vào hiện tượng thì đẻ ra
quy luật nhân quả. Phạm trù là khái niệm căn bản quy định tính chất khách quan
của bất kỳ đối tượng nào. Vật này và vật nọ có thể khác nhau về số lượng, hiện
tượng này và hiện tượng nọ có thể khác nhau và nguyên nhân, nhưng tất cả đều
phụ thuộc vào phạm trù số lượng và nhân quả.

Cái gì chứng minh rằng những hiện tượng khách quan đều phụ thuộc vào những
phạm trù của trí tuệ? Phần phân tích tiên nghiệm sẽ chứng minh điều đó. Sự
chứng minh xuất phát từ phân tích cái ý thức nhằm vào đối tượng, giải thích thế
nào là tri giác được một đối tượng khách quan? Ví dụ: cái cây là một thực thể
khách quan. Điều kiện của một thực thể khách quan, như khi trông thấy cây, là do
chỗ một số cảm giác được liên kết trong ý thức một cách nhất định. Không phải
trông thấy màu xanh mà đã trông thấy một cây xanh, vì trong lúc mơ mộng cũng
có thể có cảm giác màu xanh nhưng chỉ là một cảm giác. Hai bên khác nhau ở chỗ
màu xanh không phải tự nhiên xuất hiện bất cứ lúc nào, mà nó phải xuất hiện theo
quy luật khách quan tất yếu và phổ cập, tức là chắc chắn rằng đứng theo một
phương diện nào đó thì sẽ có một cảm giác nào đấy. Những cảm giác kế tiếp trong
ý thức một cách tất yếu, phổ cập, có giá trị với tất cả mọi người. Có nắm cảm giác
theo quy luật ấy, thì mới nói được rằng qua cảm giác kế tiếp nhau lung tung nên
không nhằm đối tượng của thế giới khách quan. Tính chất khách quan của thế giới,
theo Kant, là quy luật tính của luồng cảm giác kế tiếp nhau trong ý thức. Ví dụ
nước sông chảy xuôi tức là cảm giác của ta lúc trông thấy sông phải kế tiếp theo
một trật tự nhất định, từ ngược về xuôi. Chỉ có theo quy luật khách quan ta mới
nhận định được đối tượng.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

Nhưng tại sao cảm giác lại sắp xếp một cách tất yếu và phổ cập? Tại sao quy luật

tất yếu, phổ cập đó lại thiết lập tính chất khách quan của thế giới?

Kant trả lời rằng: vì nó ở trong cùng một tư tưởng. Nếu nó không liên kết một
cách tất yếu và phổ cập, thì ý thức của ta cũng không thống nhất, không phải một
ý thức nhất định, mà mỗi lúc một ý thức khác, do đó sẽ không thành một ý thức
nữa. Đã không có quy luật nào để liên kết những cảm giác, thì sẽ không thể nói tới
tư tưởng, không có bản ngã nữa. Nhưng thực tế thì mọi người đều có bản ngã, có ý
thức tư tưởng, mà ý thức thì là một. Được thế, vì những cảm giác được liên kết
theo những phạm trù nhất định của trí tuệ. Ví dụ, khi trông thấy một cái nhà, con
mắt có thể liếc từ trên xuống dưới, rồi từ dưới lên trên, nhưng trong lúc đi lại như
thế vẫn nắm được cùng một chiều của cái nhà. Ý thức dù đi từ trên xuống hoặc từ
dưới lên trên thì cũng chỉ là một ý thức, vì những cảm giác kế tiếp nhau phải liên
kết với nhau theo quy luật số lượng, nghĩa là nắm một chiều nhất định của cái
nhà. Nếu không liên kết cảm giác như thế, thì chỉ có một số cảm giác lung tung
chứ không thành một ý thức. Cái chứng minh giá trị của phạm trù trí tuệ (số lượng
và nhân quả) là tính chất căn bản của đối tượng khách quan, và tính chất căn bản
của đối tượng khách quan dựa vào sự thống nhất của bản ngã trong luồng ý thức.
Nếu ý thức không nắm đối tượng theo quy luật nhất định, phổ cập thì không thành
ý thức nữa, mà thực tế ta có ý thức thống nhất. Do lý lẽ trên mà Kant kết luận rằng
những phạm trù của trí tuệ có giá trị khách quan. Phạm trù chính của trí tuệ là số
lượng, nhân quả. Dựa vào những phạm trù đó có thể xây dựng được một vật lý học
thuần túy, trong đó phát triển phần thuần túy của vật lý học. Như nguyên lý thăng
bằng giữa động lực và phản động lực, và nguyên lý hỏa lực. Đứng trên lập trường
duy tâm, Kant không cho rằng thế giới mà ta gọi là khách quan là tuyệt đối, mà
căn bản nó chỉ có ở trong ý thức. Ý thức có tính chất thống nhất thực, nhưng
không thống nhất trong ý thức thực sự áp dụng những phạm trù của trí tuệ vào
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

cảm giác, trong lúc liên kết những cảm giác thành đối tượng khách quan. Nó chỉ
có trong hoạt động thực sự của trí tuệ để liên kết những cảm giác, chứ nó không

phải là một thực thể có thể nắm được như một thực thể trong vũ trụ. Nhà huyền
học cũ đã biến tính chất thống nhất trong hoạt động thực sự của trí tuệ thành một
thực thể là linh hồn bất diệt. Làm như thế là không đúng. Chúng ta không có
quyền biến hoạt động của trí tuệ thành một vật có tính chất thực thể. Sở dĩ những
nhà huyền học cũ đã biến hoạt động thực sự của trí tuệ thành một thực thể tinh
thần, là vì họ đã đi quá phạm vi chân chính của trí tuệ là hoạt động sắp xếp những
hiện tượng khách quan, tức là xây dựng vũ trụ quan khoa học. Do đó, các nhà
huyền học cũ đã đi đến một thực thể thống nhất vô điều kiện, tức là đi ra ngoài
phạm vi chân chính của tính chất thống nhất của ý thức. Sai lầm của huyền học về
vũ trụ quan cũng xuất phát từ sai lầm tương tự như trên.

1 - Phê phán lý thuyết về vũ trụ quan.

Nhà huyền học cũ cũng đòi hỏi một điều kiện vô điều kiện, vận dụng phạm trù của
trí tuệ một cách tuyệt đối, ngoài phạm vi kinh nghiệm, do đó mà trong lý thuyết về
vũ trụ quan, họ đã tất nhiên phải gặp những mâu thuẫn. Có 4 mâu thuẫn:

a - Về mặt số lượng:

Có thể nói thế giới là vô hạn trong không gian và thời gian, nhưng cũng có thế nói
thế giới là có hạn trong không gian và thời gian. Vì nếu không có lúc nào là lúc
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

đầu tiên thì cũng không có lúc nào là lúc bây giờ. Nếu là vô hạn thì sẽ không nắm
được thế giới. Thế giới đã có. Có là vì có hạn. Đã có thế giới thì có thể quy định
được chiều của nó tức là có hạn trong không gian rồi. Nhưng cũng có thể nói sau
một khu lại có một khu khác, vậy thế giới là vô hạn.

b - Về mặt chất lượng:


Thực thể có thể phân chia một cách vô hạn, vì nhỏ bao nhiêu thì cũng có thể phân
chia được nữa. Nhưng cũng có thể nói, đến một lúc nào đó có những yếu tố đơn
giản thuần túy không thể phân chia được, vì nếu không có yếu tố đơn giản thuần
túy thì không thể thành thế giới được. Cả hai mặt đều có lý cả.

c - Về quan hệ nhân quả:

Có thể nói những quan hệ nhân quả kế tiếp một cách vô hạn. Trước một hiện
tượng thì có một hiện tượng làm nguyên nhân, trước hiện tượng làm nguyên nhân
này lại có một hiện tượng khác làm nguyên nhân cho nó. Hiện tượng nào cũng có
nguyên nhân. Cứ thế, dây chuyền nguyên nhân này sang nguyên nhân kia tuyệt đối
đầu tiên, vì nếu chúng ta cứ đi mãi từ nguyên nhân này đến nguyên nhân trước thì
rốt cuộc không bao giờ nắm được một nguyên nhân nào hết, tức là không có sự
việc bao giờ hết.

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

d - Về phương thức tồn tại:

Có thể nói mọi hiện tượng đều có tính chất có điều kiện, nghĩa là không có thực
thể nào tuyệt đối vô điều kiện (nghĩa là không có Thượng đế). Nhưng mặt khác,
cũng có thể nói có thực thể tất nhiên tuyệt đối, vì nếu không thì những điều kiện
không biết dựa vào cái gì. Phải có một cái gì tuyệt đối để mọi vật dựa vào.

Đó là 4 mâu thuẫn trong vũ trụ quan cũ. Theo Kant, sở dĩ những mâu thuẫn ấy
xuất hiện và thành nội dung của những cuộc tranh luận liên miên giữa những nhà
huyền học cũ, vì ở đây lý tính đã sử dụng trí tuệ ngoài phạm vi kinh nghiệm thực
sự. Ví dụ thế giới quan khoa học vô hạn đã đi ra ngoài kinh nghiệm thực sự. Do
đó, không thể đặt vấn đề là hữu hạn hay vô hạn. Kant cho rằng mâu thuẫn này xuất
phát từ cách đặt vấn đề sai lầm, đáng lẽ chỉ sử dụng những phạm trù của lý tính

trong phạm vi kinh nghiệm, nhưng ở đây đã đặt vấn đề sử dụng trong toàn bộ.
Thực tế, trong kinh nghiệm không bao giờ nắm được toàn bộ. Đó là những mâu
thuẫn của lý tính thuần túy.

2 - Phê phán lý thuyết về Thượng đế.

Cuối cùng, nếu xét đến khái niệm Thượng đế tức phần cuối cùng của huyền học
cũ, thì chúng ta cũng thấy khái niệm Thượng đế xuất phát từ sự sử dụng bất chính
một phạm trù của trí tuệ. Phạm trù ấy có ý nghĩa trong thực tế kinh nghiệm. Đó là
phạm trù hỗ tương tác dụng. Mọi vật tác dụng lẫn nhau thì đó là đúng, nhưng nhà
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

huyền học vận dụng phạm trù ấy ra ngoài kinh nghiệm, đặt vấn đề hỗ tương tác
dụng trong toàn hộ tức là vấn đề thực thể tuyệt đối. Khái niệm Thượng đế là do
một phạm trù chân chính của trí tuệ nhưng bị sử dụng một cách bất chính.

Căn cứ vào đấy, Kant phê phán tất cả những cái trước kia gọi là dẫn chứng của sự
tồn tại của Thượng đế. Có 3 dẫn chứng:

- Dẫn chứng thực thể chủ nghĩa;
- Dẫn chứng vũ trụ quan chủ nghĩa;
- Dẫn chứng mục đích chủ nghĩa.

a - Dẫn chứng thực thể chủ nghĩa.

Nói rằng khái niệm Thượng đế là khái niệm của toàn bộ tất cả cái gì có thể có
được. Toàn bộ tất cả cái gì có thể có được tất nhiên là có, vì trong khái niệm ấy đã
có sự tồn tại. Kant cho rằng nói như thế không được, vì nói Thượng đế là thực thể
tuyệt đối nhưng không có cái gì chứng minh là cái đó có thực, mà nó chỉ là một
định nghĩa có tính cách danh từ. Chúng ta có thể xây dựng khái niệm với bất kỳ

thuộc tính gì, nhưng trong thuộc tính không thể để sự tồn tại, nghĩa là không thể
xây dựng cái tồn tại bằng khái niệm. Sở dĩ chuyển từ danh từ sang thực tại, vì căn
bản đã sử dựng phạm trù một cách toàn bộ ngoài kinh nghiệm thực sự, đặt một
thực thể toàn bộ tuyệt đối mà không đặt những điều kiện kinh nghiệm. Nắm như
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

thế chỉ là nắm một danh từ thôi. Dẫn chứng thực thể chủ nghĩa là một lập luận sai,
nhưng sai có hệ thống, vì lý tính đã sử dụng một phạm trù của trí tuệ, nhưng sử
dụng một cách không chân chính, ngoài kinh nghiệm. Trong kinh nghiệm, ta chỉ
nắm được những toàn bộ tương đối, trong đó những bộ phận thực sự tác dụng lẫn
nhau, mà không bao giờ nắm được một toàn bộ tuyệt đối, vì thực sự nó không có
trong kinh nghiệm. Vì chúng ta đã quen vận dụng phạm trù hỗ tương tác dụng
trong kinh nghiệm, vả lại muốn dùng nó ngoài kinh nghiệm, tuyệt đối hóa phạm
trù thì sẽ sai lầm. Ví như con chim càng bay cao bao nhiêu càng thấy nhẹ nhàng
bấy nhiêu, rồi nghĩ đến chuyện thoát khỏi phạm vi không khí để được tuyệt đối
nhẹ nhàng, nhưng đã quên rằng bay cao mấy vẫn phải dựa vào không khí chứ
không thể thoát khỏi thế gian mà bay cao hơn nữa. Đấy là nhận xét dẫn chứng căn
bản của thần học cũ.

b - Dẫn chứng vũ trụ quan chủ nghĩa

Vũ trụ quan chủ nghĩa dựa vào tính chất có điều kiện của mọi hiện tượng trong vũ
trụ. Tất cả mọi hiện tượng đã có điều kiện, thì toàn bộ phải dựa vào một cái gì vô
điều kiện, nếu không thì không bao giờ có cái gì hết. Cái toàn bộ phải dựa vào một
cái vô điều kiện tức là Thượng đế.

Đây cũng là sự vận dụng phạm trù của trí tuệ một cách không chân chính, ngoài
kinh nghiệm (vì trong kinh nghiệm cái gì cũng phải có điều kiện).

Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx


c - Dẫn chứng mục đích chủ nghĩa

Thuyết này dựa vào nhận xét rằng mọi vật đều có mục đích. Nhưng nếu muốn đi
đến Thượng đế, tức là thực thể tất nhiên tuyệt đối, tất nó phải dựa vào dẫn chứng
thực thể chủ nghĩa.

Kết quả của phê phán luận của Kant là ta đã có một số phạm trù có giá trị có thể
ứng dụng trong kinh nghiệm, tức là xây dựng một khoa học tự nhiên, nhưng không
có quyền vận dụng những phạm trù ấy ngoài phạm vi kinh nghiệm, để xây dựng
khái niệm vũ trụ toàn bộ, khái niệm Thượng đế, thực thể tuyệt đối. Huyền học
không thể đi xa hơn khoa học, vì nếu đi xa hơn, nó căn bản cũng phải vận dụng
những phạm trù của khoa học, nhưng nó vận dụng ngoài kinh nghiệm. Kant là
người đã có công chấm dứt huyền học cũ, bằng cách phê phán dứt khoát. Sau
Kant, trừ tổ chức Giáo hội là còn dạy 3 dẫn chứng cũ, còn các triết gia thì không
một ai sáng tác theo kiểu ấy nữa.

Công trình của Kant có tính chất lịch sử, nhưng mặt khác, trong khi phê phán
huyền học, Kant lại tuyệt đối hóa phạm trù của khoa học tự nhiên, nên lại sa vào
một thứ huyền học mới. Cơ sở giai cấp của huyền học ấy đã đưa nó tới chỗ không
nắm được khách quan tuyệt đối, mà chỉ nắm được một đối tượng của ý thức có
tính chất khách quan đối với chúng ta. Những hiện tượng đó có tính chất khách
quan trong ý thức mà thôi, nhưng trong ý thức nó vẫn có tính chất khách quan.
Thế giới khách quan mà Kant biện chính trên lập trường duy tâm là thế giới khoa
học mới theo quy luật số lượng và nhân quả. Nó là thế giới khách quan của khoa
học máy móc, do giai cấp tư sản đang lên xây dựng. Kant công nhận và biện chính
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

nó, nhưng chỉ công nhận nó là do những quy luật sắp xếp cảm giác, không công
nhận nó là một thế giới thực sự. Vì Kant đã biện chính thế giới quan mới, nên

trong đoạn này, Kant có phần tiến bộ ở chỗ chống thế giới quan cũ. Trong thế giới
quan cũ thì những phạm trù của trí tuệ được áp dụng một cách tuyệt đối vô điều
kiện - vô điều kiện tức là ngoài kinh nghiệm.

Ở đây, Kant chứng minh rằng những phạm trù ấy chỉ có thể ứng dụng với điều
kiện là hạn chế trong phạm vi kinh nghiệm. Những phạm trù ấy chỉ có giá trị lúc
nó được ứng dụng vào cảm giác. Ngoài việc ứng dụng vào cảm giác, nó không có
đối tượng nữa, tức là vô giá trị. Quá trình ứng dụng những phạm trù để xây dựng
một thế giới quan có tính chất khoa học theo quy luật nhất định, phổ cập và tất
yếu, là quá trình trong ý thức chủ quan phản ánh quá trình thực sự xây dựng thế
giới mới theo kỹ thuật máy móc mới. Kant đã mô tả quá trình xây dựng một đối
tượng trong ý thức theo những quy luật máy móc của kỹ thuật thực sự mới xuất
hiện trong xã hội. Chính sức sản xuất mới là kiểu mẫu của quá trình xây dựng ý
thức mà Kant đã mô tả trên lập trường duy tâm. Kant nói: cái đó đối với tôi là vật
mà tôi xây dựng trong ý thức theo quy luật. Trong thực tế khách quan, cái mà
người ta xây dựng thực sự theo quy luật nhất định, chính là sản phẩm sản xuất
theo kỹ thuật máy móc. Nhưng Kant đã duy tâm hóa quá trình xây dựng ấy, biến
quá trình xây dựng thiết thực thành một quá trình xây dựng trong tinh thần, theo
quy luật tinh thần. Nội dung thì có tính chất tiến bộ vì nó phản ánh sức sản xuất
mới, nhưng lập trường thì phản ánh điều kiện thực tế của giai cấp tư sản Đức
đương thời, tức là chỉ hiểu biết kỹ thuật mới trong phạm vi duy tâm chứ không
nắm được một cách thực sự. Do đấy sau này, đến lúc giai cấp tư sản Âu Tây đã
nắm được quyền thống trị rồi thì cái mà Kant gọi là suy luận tiên nghiệm của
phạm trù (tức là suy luận giá trị thuần túy trước kinh nghiệm của phạm trù của trí
tuệ) được rất nhiều tác dụng, vì nó chứng minh phương thức sản xuất tư sản có giá
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

trị khách quan. Nhưng mặt khác, giá trị khách quan ấy chỉ có trong ý thức mà thôi.
Nó dựa vào kinh nghiệm, có ứng dụng trong kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm đó
chỉ được công nhận trong phạm vi ý thức chủ quan. Nó đã biện chính tất cả những

điều kiện thiết thực để phát triển phương thức sản xuất tư sản, nhưng không cho đi
xa hơn, nghĩa là không công nhận rằng phương thức sản xuất là thực tế khách
quan, có thực ngoài ý thức. Do đấy, nó chống được lập trường duy vật, tức là
chống được tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân. Để kiểm tra kết quả của suy
luận tiên nghiệm của phạm trù, Kant xét lại những lập luận giáo khoa của huyền
học cũ, và chứng minh rằng sở dĩ đã có những lập luận ấy là vì lý tính đã sử dụng
những phạm trù của trí tuệ ngoài phạm vi kinh nghiệm, mà sử dụng như thế tất
nhiên phải sai lầm.

III - BIỆN CHỨNG PHÁP TIÊN NGHIỆM
(Dialectique transcendantale)

Tức là giới thiệu và phê phán những lập luận của huyền học cũ. Những lập luận
mà Kant gọi là biện chứng, nghĩa là không có giá trị thức tế, chỉ có giá trị chủ
quan của nó. Về căn bản, biện chứng của Kant chỉ là một lập luận có giá trị chủ
quan, xuất phát từ chủ quan của ý thức nhưng không có giá trị thực tế: nó là lý
luận suông nhưng có thật, theo quy luật nhất định, chứ không phải lung tung. Biện
chứng pháp tiên nghiệm phê phán 3 phần của huyền học giáo khoa là:

- Lý thuyết về tâm lý
Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx

- Lý thuyết về vũ trụ
- Lý thuyết về Thượng đế.

l - Phê phán lý thuyết về tâm lý
(tức phê phán tâm lý học lý tính)

Nói chung, trong huyền học cũ, phần đó nhằm chứng minh rằng tâm hồn có giá trị
tuyệt đối, là một đơn vị tuyệt đối, bất di bất dịch, không phụ thuộc vào vật thể:

không chết sau khi vật thể chết. Ý thức có một tính chất thống nhất tuyệt đối. Tính
chất thống nhất ấy bảo đảm sự tồn tại của ý thức ngoài những hiện tượng biến
chuyển của vật thể. Vật thể có thể chết nhưng linh hồn thì bất diệt, vì linh hồn có
tính chất thống nhất. Vật thể thì có thể phân tán. Kant đã phê phán lý thuyết đó
như sau:

Ý thức có tính chất thống nhất thực, nhưng thống nhất trong ý thức thực sự áp
dụng những phạm trù của trí tuệ vào cảm giác, trong lúc liên kết những cảm giác
thành đối tượng khách quan. Nó chỉ có trong hoạt động thực sự của trí tuệ để liên
kết những cảm giác, chứ nó không phải là một thực thể có thể nắm được như một
thực thể trong vũ trụ. Nhà huyền học cũ đã biến tính chất thống nhất trong hoạt
động thực sự của trí tuệ thành một thực thể là linh hồn bất diệt. Làm như thế là
không đúng. Chúng ta không có quyền biến hoạt động của trí tuệ thành một vật có
tính chất thực thể. Sở dĩ những nhà huyền học cũ đã biến hoạt động thực sự của trí
tuệ thành một thực thể tinh thần là vì họ đã đi quá phạm vi chân chính của trí tuệ,

×