Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Khí quyển và hải dương - Các dòng chảy của Đại dương ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.67 KB, 19 trang )

Khí quyển và hải dương
Các dòng chảy của
Đại dương
Như đã đề cập trước đây, các chuyên gia không hoàn toàn đồng ý với nhau về tình
trạng đại dương của Đại Dương Bắc Cực.
Tuy nhiên không có một thắc mắc nào về việc biển Bắc Cực gần như chưa được
khám phá và tìm hiểu. điều này có thể thay đổi trong những năm tới đây, khi các
nhà khoa học nhận thức được tầm quan trọng cực kỳ của Đại Dương Bắc Cực.
Hiện nay xem ra các khối nước lạnh chảy ra ngoài Bắc Cực phần lớn có ảnh
hưởng đến khí hậu trên khắp thế giới. Với mối đe dọa từ sự ấm lên toàn cầu, các
nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến bất cứ sự tan chảy nào của vỏ băng trên Đại
Dương Bắc Cực.
Một sự tan chảy như vậy có thể gây ra sự thay đổi khí hậu thậm chí còn lớn hơn
qua việc làm biến đổi các dòng chảy lạnh, khiến chúng chảy ra khỏi Bắc Cực và
bằng cách làm tăng lượng ánh sáng mặt trời phản chiếu ra khỏi các chỏm băng.
Về kích thước vật lý, Đại Dương Bắc Cực chỉ rộng 14 triệu km2; so với Ấn Độ
Dương thì nó nhỏ hơn gấp 6 lần. Các khối nước của Bắc Cực trung bình chỉ sâu từ
900 đến 1.200m. Tuy nhiên, đáy của Đại Dương Bắc Cực khá phức tạp, nó được
chia thành hai lưu vực sâu, bị các rặng núi, hay dãy núi ngầm cắt chéo qua.
Khí quyển và hải dương
Gần 1/3 Bắc Cực nằm trên thềm lục địa. Vùng thềm này đặc biệt rộng và cạn - một
sự mở rộng của các bờ biển phía bắc của Bắc Mỹ. Greenland, và Eurasia, bao
quanh Đại Dương Bắc Cực trên tất cả các mặt.
Các dòng chảy của Đại Dương Bắc Cực không được tìm hiểu nhiều và chắc chắn
là phức tạp, cho đại dương một vị trí độc nhất là nằm tại đỉnh của địa cầu. Nói
chung, các khối nước của nó lưu thông quanh cực theo chiều kim đồng hồ. Một số
đảo băng trôi của Bắc Cực di chuyển xung quanh thành một vòng tròn hoàn chỉnh
cứ mỗi 10 năm hoặc khoảng đó.
Trên tọa độ 75 độ vĩ bắc, Đại Dương Bắc Cực bị băng bao phủ quanh năm. Giữa
tọa độ 60 và 75 độ vĩ bắc, băng biển tách ra thành những tảng băng thường trôi về
hướng nam vào mùa hè. Băng biển mới hiếm khi hình thành trong đại dương bao


la dưới tọa độ 60 độ vĩ bắc.
Các Đại Dương của ngày mai
Vào năm 1971, nhà khám phá biển vĩ đại Thor Heyerdahl tránh không nhúng cây
bàn chải đánh răng của mình vào giữa Đại Tây Dương - do nước biển bị ô nhiễm
rõ ràng. Từ đó cứ mỗi năm, hàng triệu tấn chất thải, thuốc trừ sâu và các loại chất
hóa học khác được đổ ra đại dương.
Các luật định bảo vệ đại dương được ban hành kể từ năm 1899, khi chính phủ Hoa
Kỳ coi việc thải chất độc hại trong ngành công nghiệp ra biển là bất hợp pháp. Tuy
nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng đại dương và các sinh vật sống của nó vẫn còn bị
đe doạ do sự ô nhiễm liên tục, khai thác quá mức, và do những thay đổi của thời
tiết.
Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác tiếp tục chú trọng đến những vấn đề này bằng
cách khuyến khích các quốc gia riêng biệt hành động một cách có trách nhiệm.
Một số tin rằng có sự tiến triển, rằng ít nhất thì sự ô nhiễm ở mức có thể nhìn thấy
Khí quyển và hải dương
đã giảm đi. Nhưng mức độ độc hại tiềm tàng của các kim loại nặng và những chất
độc hại khác vẫn có thể được tìm thấy trong cá biển khi nằm trên bàn ăn của chúng
ta.
Ngoài các luật bảo vệ ra, các chuyên gia còn đồng ý rằng cần phải nghiên cứu kỹ
càng hơn về việc các đại dương “đương đầu” với sự xâm lấn của con người và
những thay đổi như thế nào. Chắc chắn là các đại dương đều có khả năng tự làm
sạch. Nhưng vẫn không rõ là hàng đống rác thải và chất gây ô nhiễm đi đâu.
Khí quyển và hải dương
Điều gì tiếp sức mạnh cho các
dòng chảy của Đại dương?
Bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào có gió thổi ngang qua bề mặt đại dương, thì nó
cũng đều ảnh hưởng đến nước. Nếu gió mạnh và ổn định, thì nước bắt đầu chuyển
động, đầu tiên là chầm chậm.
Màng nước trên bề mặt là màng đầu tiên bị thay thế. Độ sâu của dòng chảy phu
thuộc vào sức gió và thời gian mà nó thổi theo một hướng. Khi đó, gió là một

trong những thế lực tự nhiên chính làm các dòng chảy chuyển động.
Các cơn gió trên khắp những vùng nào đó của đại dương, như các vùng biển phía
nam quanh Nam Cực, có thời gian tồn tại đặc biệt dài. Các thủy thủ cũng có thể
phụ thuộc vào các dòng chảy do những cơn gió mậu dịch thổi bên trên và bên dưới
đường xích đạo cấp lực. Những cơn gió tây tại phía bắc Thái Bình Dương và Đại
Tây Dương lúc đó là một đai đáng tin cậy khác của những dòng chảy được gió
điều khiển.
Hệ gió sinh ra một sự vận động chung của nước tại bề mặt hướng về phía tây gần
đường xích đạo, và hướng về phía đông giữa đường xích đạo và các cực. Tại
những nơi này, các dòng chảy rộng nhiều dặm, nhưng ít khi sâu hơn 92m. Do lực
gió khác nhau theo mùa, nên tốc độ của dòng chảy thay đổi theo tháng.
Một nhóm những dòng chảy quan trọng do gió điều khiển khác xuất hiện gần phía
nam và đông châu Á. Ở đó những cơn gió mạnh gọi là gió mùa thổi theo một
hướng trong nửa năm, và theo một hướng ngược lại trong nửa năm sau. Vào mùa
đông, áp khí cao trên đất liền hướng những cơn gió ra ngoài khơi.
Khí quyển và hải dương
Vào mùa hè, khi đất làm ấm bầu không khí bên trên nó, áp suất giảm xuống, và
những cơn gió chuyển hướng thổi vào đất liền. Những dòng chảy hình thành trong
đại dương từ những cơn gió này gọi là những dòng chảy chậm theo gió mùa. Nổi
tiếng nhất là những dòng chảy tại phía bắc Ấn Độ Dương.
Những dòng chảy chậm theo gió khác có thời gian tồn tại ít nhiều đều đặn được
hình thành từ những thay đổi của những cơn gió biển trong vùng. Vào ban ngày,
đất trở nên ấm hơn vùng đại dương tiếp giáp. Không khí ấm bay lên và bị thay thế
bởi không khí lạnh hơn thổi vào từ biển. Vào ban đêm, đất nhanh chóng lạnh đi,
nhưng đại dương vẫn giữ lại phần lớn lượng nhiệt của nó.
Không khí ấm hơn trên đại dương dâng lên và bị thay thế bởi không khí lạnh hơn
thổi ra từ đất liền. Do đó những cơn gió tại bề mặt thổi từ biển vào đất liền vào
ban ngày, và thổi từ đất liền ra biển vào ban đêm. Những cơn gió breeze này tác
động đến các dòng chảy ngoài biển.
Những cơn gió biển, kết hợp với những tác động của những thay đổi định kỳ về

nhiệt độ nước, có thể ảnh hưởng đáng kể đến thủy triều. Thực ra, chính những
dòng chảy này đôi khi được nhắc đến như thủy triều do đặc tính tuần hoàn của
chúng. Chúng được gọi là triều khí tượng, trái với triều thiên văn do lực hút của
mặt trời và mặt trăng.
Tương tác giữa gió và nước có thể tạo ra một số tác động thú vị. Tại các vùng ven
biển, gió thổi song song với bờ biển có thể khiến cho những tầng nước gần bờ bên
trên bị thổi ra biển. Sự thiếu hụt này sau đó được bù đắp bởi các tầng nước ở đáy
di chuyển lên trên.
Các dòng dềnh lên này đưa các chất dinh dưỡng bị phân hủy lên trên và có xu
hướng tích cực về mặt sinh học. Một ví dụ về vùng dềnh lên như vậy là vùng
ngoài khơi Peru. Những khối nước giàu dinh dưỡng này nuôi dưỡng một lượng
Khí quyển và hải dương
lớn cá trồng. Mặt khác, nếu gió khiến cho nước mặt chất chồng gần bờ thì một sự
rút xuống có thể xảy ra.
Hiệu ứng Coriolis
Gió không phải là lực lượng duy nhất cung cấp năng lượng cho các dòng chảy đại
dương. Thực vậy, các thủy thủ từ lâu đã biết rằng các dòng chảy thường chảy theo
nhiều hướng hoàn toàn trái ngược với những cơn gió thịnh hành.
Thuật ngữ hiệu ứng Coriolis mô tả độ lệch toàn cầu do vận động của chính Trái
đất gây ra. Nó được gọi như vậy sau khi nhà toán học người Pháp Gaspard
Coriolis vào thế kỷ 19 đã tính được con đường của một thể vận động trên bề mặt
xoay tròn uốn quanh bất cứ thể bất động nào trên cùng một bề mặt như thế nào.
Trong trường hợp này, bề mặt xoay tròn chính là Trái đất, quay theo trục của nó;
thể vận động là bất cứ dòng chảy đại dương ổn định nào.
Độ lệch là khoảng 45 độ tại mặt nước, và tăng lên theo độ sâu. Tại bán cầu Bắc,
hiệu ứng Coriolis làm lệch dòng chảy hướng về bên phải của hướng gió thịnh hành.
Tại Bán Cầu Nam, độ lệch là về bên trái của những cơn gió thịnh hành. Kết quả là,
các dòng chảy có xu hướng chảy theo chiều kim đồng hồ tại Bán Cầu Bắc và
ngược chiều kim đồng hồ tại Bán Cầu Nam.
Hướng của một dòng chảy do gió điều khiển cũng bị ảnh hưởng bởi độ sâu của

nước. Một dòng chảy chảy trực tiếp trước cơn gió tại vùng nước cạn. Tại vùng
nước sâu hơn, các tầng nước lạnh hơn và nặng hơn nằm bên dưới có thể gây ra sự
hòa lẫn và xáo trộn ngăn cản dòng chảy trên bề mặt. Hướng chảy cũng bị ảnh
hưởng bởi những vật cản như một bờ biển hay sự va chạm, dòng chảy khác.
Những vận động do nhiệt độ
Khí quyển và hải dương
Nhiệt độ và độ mặn ảnh hưởng đến tỷ trọng, hay “độ nặng” của bất cứ khối nước
nào. Nước càng lạnh và mặn hơn thì nó càng nặng hơn. Nhằm tìm hiểu những
khác biệt về tỷ trọng có thể di chuyển nước như thế nào, hãy tưởng tượng một một
bể nước có một phần nước lạnh bị tách biệt với phần nước ấm bởi một vách ngăn.
Dời bỏ vách ngăn, thì nước lạnh, nặng hơn sẽ chìm xuống và trải rộng ra khắp đáy
bể. Nước ấm hơn và nhẹ hơn sẽ chảy ra khắp bề mặt, hình thành tầng bên trên.
Nước biển sẽ chìm xuống khá nhanh trong một vùng nhỏ nơi đại dương cực lạnh.
Nó dâng lên nhanh hơn qua một vùng rộng lớn tại những vùng nước ấm hơn của
đại dương. Sự dâng lên và hạ xuống do nhiệt độ này có xu hướng di chuyển nước
đại dương của thế giới chảy vòng từ các cực đến đáy và ngang qua đường xích đạo.
Từ đường xích đạo, nước có xu hướng chảy lên bề mặt và sau đó quay trở lại các
cực, lặp lại chu trình này.
Những khác biệt về tỷ trọng nước có lẽ là nhân tố quan trọng nhất cấp lực cho các
dòng chảy sâu bên dưới bề mặt của đại dương. Trong khi những dòng chảy này
nhìn chung là những sự vận động nhẹ, thì chúng có thể mạnh lên tại nhiều nơi.
Bằng chứng là những nhà thám hiểm biển sâu đã tìm thấy những biểu hiện gợn
sóng và những trường hợp xảy ra xói mòn trên đáy đại dương. Những dòng chảy
nhanh bất thường tại đáy này đôi khi được gọi là những dòng chảy viền, vì chúng
dường như bị ảnh hưởng bởi địa hình, hay dạng đất, của đáy đại dương.
Các dòng chảy xoáy
Một loại dòng chảy khác vận động bởi ảnh hưởng của những con sóng vỗ bờ. Khi
những con sóng vỗ bờ đem nước đến bờ, nước phải bằng cách nào đó quay trở lại
biển. Nước do sóng vỗ dâng lên trước tiên chảy dọc theo bờ biển, rồi sau đó quay
trở lại biển qua những con sóng dưới một dạng được gọi là dòng chảy xoáy. Nước

chảy ngược ra biển theo những “đường” riêng biệt nơi có áp suất của sóng thấp
nhất do địa hình không đều tại bờ biển.
Khí quyển và hải dương
Các dòng chảy xoáy, còn được gọi là “dòng triều xoáy”, hay “dòng đối lưu đáy”,
có thể rất nguy hiểm. Chúng có thể nhanh chóng cuốn theo những tay bơi không
khỏe lắm xuống vùng nước sâu. Cách an toàn nhất để thoát khỏi một dòng chảy
xoáy là tránh đương đầu với nó, nên bơi gần song song với bờ biển đến khi có thể
thoát ra khỏi lực kéo ra ngoài của dòng chảy xoáy.
Khí quyển và hải dương
Những dòng chảy
đại dương chính
Bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào có gió thổi ngang qua bề mặt đại dương, thì nó
cũng đều ảnh hưởng đến nước. Nếu gió mạnh và ổn định, thì nước bắt đầu chuyển
động, đầu tiên là chầm chậm.
Màng nước trên bề mặt là màng đầu tiên bị thay thế. Độ sâu của dòng chảy phu
thuộc vào sức gió và thời gian mà nó thổi theo một hướng. Khi đó, gió là một
trong những thế lực tự nhiên chính làm các dòng chảy chuyển động.
Các cơn gió trên khắp những vùng nào đó của đại dương, như các vùng biển phía
nam quanh Nam Cực, có thời gian tồn tại đặc biệt dài. Các thủy thủ cũng có thể
phụ thuộc vào các dòng chảy do những cơn gió mậu dịch thổi bên trên và bên dưới
đường xích đạo cấp lực. Những cơn gió tây tại phía bắc Thái Bình Dương và Đại
Tây Dương lúc đó là một đai đáng tin cậy khác của những dòng chảy được gió
điều khiển.
Hệ gió sinh ra một sự vận động chung của nước tại bề mặt hướng về phía tây gần
đường xích đạo, và hướng về phía đông giữa đường xích đạo và các cực. Tại
những nơi này, các dòng chảy rộng nhiều dặm, nhưng ít khi sâu hơn 92m. Do lực
gió khác nhau theo mùa, nên tốc độ của dòng chảy thay đổi theo tháng.
Một nhóm những dòng chảy quan trọng do gió điều khiển khác xuất hiện gần phía
nam và đông châu Á. Ở đó những cơn gió mạnh gọi là gió mùa thổi theo một
Khí quyển và hải dương

hướng trong nửa năm, và theo một hướng ngược lại trong nửa năm sau. Vào mùa
đông, áp khí cao trên đất liền hướng những cơn gió ra ngoài khơi.
Vào mùa hè, khi đất làm ấm bầu không khí bên trên nó, áp suất giảm xuống, và
những cơn gió chuyển hướng thổi vào đất liền. Những dòng chảy hình thành trong
đại dương từ những cơn gió này gọi là những dòng chảy chậm theo gió mùa. Nổi
tiếng nhất là những dòng chảy tại phía bắc Ấn Độ Dương.
Những dòng chảy chậm theo gió khác có thời gian tồn tại ít nhiều đều đặn được
hình thành từ những thay đổi của những cơn gió biển trong vùng. Vào ban ngày,
đất trở nên ấm hơn vùng đại dương tiếp giáp. Không khí ấm bay lên và bị thay thế
bởi không khí lạnh hơn thổi vào từ biển. Vào ban đêm, đất nhanh chóng lạnh đi,
nhưng đại dương vẫn giữ lại phần lớn lượng nhiệt của nó.
Không khí ấm hơn trên đại dương dâng lên và bị thay thế bởi không khí lạnh hơn
thổi ra từ đất liền. Do đó những cơn gió tại bề mặt thổi từ biển vào đất liền vào
ban ngày, và thổi từ đất liền ra biển vào ban đêm. Những cơn gió breeze này tác
động đến các dòng chảy ngoài biển.
Những cơn gió biển, kết hợp với những tác động của những thay đổi định kỳ về
nhiệt độ nước, có thể ảnh hưởng đáng kể đến thủy triều. Thực ra, chính những
dòng chảy này đôi khi được nhắc đến như thủy triều do đặc tính tuần hoàn của
chúng. Chúng được gọi là triều khí tượng, trái với triều thiên văn do lực hút của
mặt trời và mặt trăng.
Tương tác giữa gió và nước có thể tạo ra một số tác động thú vị. Tại các vùng ven
biển, gió thổi song song với bờ biển có thể khiến cho những tầng nước gần bờ bên
trên bị thổi ra biển. Sự thiếu hụt này sau đó được bù đắp bởi các tầng nước ở đáy
di chuyển lên trên.
Khí quyển và hải dương
Các dòng dềnh lên này đưa các chất dinh dưỡng bị phân hủy lên trên và có xu
hướng tích cực về mặt sinh học. Một ví dụ về vùng dềnh lên như vậy là vùng
ngoài khơi Peru. Những khối nước giàu dinh dưỡng này nuôi dưỡng một lượng
lớn cá trồng. Mặt khác, nếu gió khiến cho nước mặt chất chồng gần bờ thì một sự
rút xuống có thể xảy ra.

Hiệu ứng Coriolis
Gió không phải là lực lượng duy nhất cung cấp năng lượng cho các dòng chảy đại
dương. Thực vậy, các thủy thủ từ lâu đã biết rằng các dòng chảy thường chảy theo
nhiều hướng hoàn toàn trái ngược với những cơn gió thịnh hành.
Thuật ngữ hiệu ứng Coriolis mô tả độ lệch toàn cầu do vận động của chính Trái
đất gây ra. Nó được gọi như vậy sau khi nhà toán học người Pháp Gaspard
Coriolis vào thế kỷ 19 đã tính được con đường của một thể vận động trên bề mặt
xoay tròn uốn quanh bất cứ thể bất động nào trên cùng một bề mặt như thế nào.
Trong trường hợp này, bề mặt xoay tròn chính là Trái đất, quay theo trục của nó;
thể vận động là bất cứ dòng chảy đại dương ổn định nào.
Độ lệch là khoảng 45 độ tại mặt nước, và tăng lên theo độ sâu. Tại bán cầu Bắc,
hiệu ứng Coriolis làm lệch dòng chảy hướng về bên phải của hướng gió thịnh hành.
Tại Bán Cầu Nam, độ lệch là về bên trái của những cơn gió thịnh hành. Kết quả là,
các dòng chảy có xu hướng chảy theo chiều kim đồng hồ tại Bán Cầu Bắc và
ngược chiều kim đồng hồ tại Bán Cầu Nam.
Hướng của một dòng chảy do gió điều khiển cũng bị ảnh hưởng bởi độ sâu của
nước. Một dòng chảy chảy trực tiếp trước cơn gió tại vùng nước cạn. Tại vùng
nước sâu hơn, các tầng nước lạnh hơn và nặng hơn nằm bên dưới có thể gây ra sự
hòa lẫn và xáo trộn ngăn cản dòng chảy trên bề mặt. Hướng chảy cũng bị ảnh
hưởng bởi những vật cản như một bờ biển hay sự va chạm, dòng chảy khác.
Khí quyển và hải dương
Những vận động do nhiệt độ
Nhiệt độ và độ mặn ảnh hưởng đến tỷ trọng, hay “độ nặng” của bất cứ khối nước
nào. Nước càng lạnh và mặn hơn thì nó càng nặng hơn. Nhằm tìm hiểu những
khác biệt về tỷ trọng có thể di chuyển nước như thế nào, hãy tưởng tượng một một
bể nước có một phần nước lạnh bị tách biệt với phần nước ấm bởi một vách ngăn.
Dời bỏ vách ngăn, thì nước lạnh, nặng hơn sẽ chìm xuống và trải rộng ra khắp đáy
bể. Nước ấm hơn và nhẹ hơn sẽ chảy ra khắp bề mặt, hình thành tầng bên trên.
Nước biển sẽ chìm xuống khá nhanh trong một vùng nhỏ nơi đại dương cực lạnh.
Nó dâng lên nhanh hơn qua một vùng rộng lớn tại những vùng nước ấm hơn của

đại dương. Sự dâng lên và hạ xuống do nhiệt độ này có xu hướng di chuyển nước
đại dương của thế giới chảy vòng từ các cực đến đáy và ngang qua đường xích đạo.
Từ đường xích đạo, nước có xu hướng chảy lên bề mặt và sau đó quay trở lại các
cực, lặp lại chu trình này.
Những khác biệt về tỷ trọng nước có lẽ là nhân tố quan trọng nhất cấp lực cho các
dòng chảy sâu bên dưới bề mặt của đại dương. Trong khi những dòng chảy này
nhìn chung là những sự vận động nhẹ, thì chúng có thể mạnh lên tại nhiều nơi.
Bằng chứng là những nhà thám hiểm biển sâu đã tìm thấy những biểu hiện gợn
sóng và những trường hợp xảy ra xói mòn trên đáy đại dương. Những dòng chảy
nhanh bất thường tại đáy này đôi khi được gọi là những dòng chảy viền, vì chúng
dường như bị ảnh hưởng bởi địa hình, hay dạng đất, của đáy đại dương.
Các dòng chảy xoáy
Một loại dòng chảy khác vận động bởi ảnh hưởng của những con sóng vỗ bờ. Khi
những con sóng vỗ bờ đem nước đến bờ, nước phải bằng cách nào đó quay trở lại
biển. Nước do sóng vỗ dâng lên trước tiên chảy dọc theo bờ biển, rồi sau đó quay
trở lại biển qua những con sóng dưới một dạng được gọi là dòng chảy xoáy. Nước
Khí quyển và hải dương
chảy ngược ra biển theo những “đường” riêng biệt nơi có áp suất của sóng thấp
nhất do địa hình không đều tại bờ biển.
Các dòng chảy xoáy, còn được gọi là “dòng triều xoáy”, hay “dòng đối lưu đáy”,
có thể rất nguy hiểm. Chúng có thể nhanh chóng cuốn theo những tay bơi không
khỏe lắm xuống vùng nước sâu. Cách an toàn nhất để thoát khỏi một dòng chảy
xoáy là tránh đương đầu với nó, nên bơi gần song song với bờ biển đến khi có thể
thoát ra khỏi lực kéo ra ngoài của dòng chảy xoáy.
Khí quyển và hải dương
Các dòng chảy Bán Cầu Bắc
Tại những đại dương phía bắc, các kiểu lưu thông khá khác nhau. Các đại dương
gần như bị bao quanh bởi vùng đất lân cận biển cực, và các ranh giới rõ ràng là
không đều hơn.
Sự lưu thông tổng thể là theo chiều kim đồng hồ, thay vì ngược chiều kim đồng hồ.

Nói chung, các dòng chảy của các đại dương phía bắc di chuyển hơi nhanh hơn và
sâu hơn các dòng chảy ở phía nam. Tại những vùng cao, mô hình dòng chảy vẫn
phức tạp hơn.
Tại những vùng xích đạo của Bắc Đại Tây Dương và Bắc Thái Bình Dương,
khoảng giữa 10 và 20 độ vĩ bắc, Dòng Chảy Bắc Xích Đạo chảy về hướng tây. Tại
vùng phía bắc của Ấn Độ Dương, do địa khối khổng lồ của châu Á bao quanh nó,
những cơn gió này là những cơn gió mùa đa dạng. Dòng chảy gọi là dòng chảy gió
mùa chảy về hướng tây trong suốt mùa đông, và về hướng đông vào mùa hè.
Tại vùng tây nam của Bắc Đại Tây Dương, một phần của Dòng Chảy Bắc Xích
Đạo chảy về hướng bắc Tây Ấn và trở thành Dòng Chảy Antilles. Phần còn lại
chảy vào biển Caribbea, nơi nó kết hợp với một phần của Dòng Chảy Nam Xích
Đạo.
Dòng chảy kết hợp đổ ra khỏi biển Caribbea vào Đại Tây Dương và kết hợp với
Dòng Chảy Antilles bên ngoài bắc Florida. Một phần của hệ vịnh Stream từ eo
biển Florida đến Cape Hatteras, Bắc California được gọi là Dòng Chảy Florida.
Một phần từ Cape hatteras đến nam Grand Banks gọi là vịnh Stream.
Tại Thái Bình Dương, các khối nước của Dòng Chảy Bắc Xích Đạo chia ra bên
ngoài Philippines. Một phần chuyển sang hướng bắc và hình thành Dòng Chảy
Khí quyển và hải dương
Nhật Bản, hay Kuroshio. Phần khác xoay sang hướng nam, sau đó chảy về hướng
đông, và cuối cùng hình thanh Dòng Nghịch Xích Đạo giữa dòng chảy Bắc và
Nam Xích Đạo chảy về hướng tây.
Vào khoảng 40 độ vĩ bắc, vịnh Stream và Dòng Chảy Nhật Bản bắt đầu chảy về
hướng đông, tuần tự hình thành nên các dòng chảy Bắc Đại Tây Dương và Bắc
Thái Bình Dương. Khi tiếp cận với điểm cuối phía đông của đại dương, một phần
của mỗi dòng chảy chuyển sang hướng nam, trở thành Dòng Chảy Canaries tại Đại
Tây Dương và Dòng Chảy California tại Thái Bình Dương.
Sau đó hai dòng chảy này kết hợp với Dòng Chảy Bắc Xích Đạo (dòng này chảy
về hướng tây), hoàn thành một vòng kim đồng hồ. Do đó, hai hoàn lưu vòng chính
này được hình thành tại các đại dương của Bán Cầu Bắc: một xuất hiện tại Đại

Tây Dương và một xuất hiện tại Bắc Thái Bình Dương.
Hoàn lưu vòng lớn tại Bắc Đại Tây Dương bao quanh cái gọi là Biển Sargasso,
một vùng nước tương đối lặng, nơi các khối tảo đuôi ngựa trôi nổi, hay rong biển,
tích tụ lại tại đó.
Một phần rộng lớn của Dòng Chảy Bắc Đại Tây Dương không chuyển sang hướng
nam, nhưng chảy lên dọc bờ biển châu Âu. Một số vòng ngược trở lại hướng tây
và hình thành Dòng Chảy Irminger, nam Iceland. Phần còn lại chảy vào Đại Tây
Dương dưới dạng Dòng Chảy Bắc Thái Bình Dương. Tại Thái Bình Dương, một
phần của Dòng Chảy Thái Bình Dương chuyển sang hướng bắc và trở thành Dòng
Chảy Alaska.
Các dòng chảy lạnh gọi là Dòng Chảy Labrador, tại Đại Tây Dương, và Dòng
Chảy Oyashio (Okhotsk), tại Thái Bình Dương, chảy về hướng nam từ các vùng
Bắc Cực đến 45 độ vĩ bắc; ở đó chúng chia ra. Một phần của mỗi dòng chảy cuốn
về hướng đông, kết hợp với Dòng Chảy Bắc Đại Tây Dương hay Dòng Chảy Bắc
Khí quyển và hải dương
Thái Bình Dương. Những phần khác di chuyển theo hướng tây nam và hình thành
một cái nêm giữa bờ biển và các khối nước ấm từ phía nam.
Tại vùng phía bắc của Đại Tây Dương, Dòng Chảy Đông Greenland chảy về
hướng nam dọc bờ biển đông của Greenland. Kết hợp với Dòng Chảy Irminger ở
phía đông nam Iceland, nó uốn quanh đầu phía nam của Greenland. Sau đó nó
chảy về hướng bắc qua eo biển Davis vào vịnh Baffin. Ở đó nó chuyển sang
hướng khác và trở thành Dòng Chảy Labrador.
Khí quyển và hải dương
Các dòng chảy nghịch
Tại những đại dương phía bắc, các kiểu lưu thông khá khác nhau. Các đại dương
gần như bị bao quanh bởi vùng đất lân cận biển cực, và các ranh giới rõ ràng là
không đều hơn.
Sự lưu thông tổng thể là theo chiều kim đồng hồ, thay vì ngược chiều kim đồng hồ.
Nói chung, các dòng chảy của các đại dương phía bắc di chuyển hơi nhanh hơn và
sâu hơn các dòng chảy ở phía nam. Tại những vùng cao, mô hình dòng chảy vẫn

phức tạp hơn.
Tại những vùng xích đạo của Bắc Đại Tây Dương và Bắc Thái Bình Dương,
khoảng giữa 10 và 20 độ vĩ bắc, Dòng Chảy Bắc Xích Đạo chảy về hướng tây. Tại
vùng phía bắc của Ấn Độ Dương, do địa khối khổng lồ của châu Á bao quanh nó,
những cơn gió này là những cơn gió mùa đa dạng. Dòng chảy gọi là dòng chảy gió
mùa chảy về hướng tây trong suốt mùa đông, và về hướng đông vào mùa hè.
Tại vùng tây nam của Bắc Đại Tây Dương, một phần của Dòng Chảy Bắc Xích
Đạo chảy về hướng bắc Tây Ấn và trở thành Dòng Chảy Antilles. Phần còn lại
chảy vào biển Caribbea, nơi nó kết hợp với một phần của Dòng Chảy Nam Xích
Đạo.
Dòng chảy kết hợp đổ ra khỏi biển Caribbea vào Đại Tây Dương và kết hợp với
Dòng Chảy Antilles bên ngoài bắc Florida. Một phần của hệ vịnh Stream từ eo
biển Florida đến Cape Hatteras, Bắc California được gọi là Dòng Chảy Florida.
Một phần từ Cape hatteras đến nam Grand Banks gọi là vịnh Stream.
Tại Thái Bình Dương, các khối nước của Dòng Chảy Bắc Xích Đạo chia ra bên
ngoài Philippines. Một phần chuyển sang hướng bắc và hình thành Dòng Chảy
Khí quyển và hải dương
Nhật Bản, hay Kuroshio. Phần khác xoay sang hướng nam, sau đó chảy về hướng
đông, và cuối cùng hình thanh Dòng Nghịch Xích Đạo giữa dòng chảy Bắc và
Nam Xích Đạo chảy về hướng tây.
Vào khoảng 40 độ vĩ bắc, vịnh Stream và Dòng Chảy Nhật Bản bắt đầu chảy về
hướng đông, tuần tự hình thành nên các dòng chảy Bắc Đại Tây Dương và Bắc
Thái Bình Dương. Khi tiếp cận với điểm cuối phía đông của đại dương, một phần
của mỗi dòng chảy chuyển sang hướng nam, trở thành Dòng Chảy Canaries tại Đại
Tây Dương và Dòng Chảy California tại Thái Bình Dương.
Sau đó hai dòng chảy này kết hợp với Dòng Chảy Bắc Xích Đạo (dòng này chảy
về hướng tây), hoàn thành một vòng kim đồng hồ. Do đó, hai hoàn lưu vòng chính
này được hình thành tại các đại dương của Bán Cầu Bắc: một xuất hiện tại Đại
Tây Dương và một xuất hiện tại Bắc Thái Bình Dương.
Hoàn lưu vòng lớn tại Bắc Đại Tây Dương bao quanh cái gọi là Biển Sargasso,

một vùng nước tương đối lặng, nơi các khối tảo đuôi ngựa trôi nổi, hay rong biển,
tích tụ lại tại đó.
Một phần rộng lớn của Dòng Chảy Bắc Đại Tây Dương không chuyển sang hướng
nam, nhưng chảy lên dọc bờ biển châu Âu. Một số vòng ngược trở lại hướng tây
và hình thành Dòng Chảy Irminger, nam Iceland. Phần còn lại chảy vào Đại Tây
Dương dưới dạng Dòng Chảy Bắc Thái Bình Dương. Tại Thái Bình Dương, một
phần của Dòng Chảy Thái Bình Dương chuyển sang hướng bắc và trở thành Dòng
Chảy Alaska.
Các dòng chảy lạnh gọi là Dòng Chảy Labrador, tại Đại Tây Dương, và Dòng
Chảy Oyashio (Okhotsk), tại Thái Bình Dương, chảy về hướng nam từ các vùng
Bắc Cực đến 45 độ vĩ bắc; ở đó chúng chia ra. Một phần của mỗi dòng chảy cuốn
về hướng đông, kết hợp với Dòng Chảy Bắc Đại Tây Dương hay Dòng Chảy Bắc
Khí quyển và hải dương
Thái Bình Dương. Những phần khác di chuyển theo hướng tây nam và hình thành
một cái nêm giữa bờ biển và các khối nước ấm từ phía nam.
Tại vùng phía bắc của Đại Tây Dương, Dòng Chảy Đông Greenland chảy về
hướng nam dọc bờ biển đông của Greenland. Kết hợp với Dòng Chảy Irminger ở
phía đông nam Iceland, nó uốn quanh đầu phía nam của Greenland. Sau đó nó
chảy về hướng bắc qua eo biển Davis vào vịnh Baffin. Ở đó nó chuyển sang
hướng khác và trở thành Dòng Chảy Labrador.

×