Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các biện pháp quản lý thích hợp có thể khắc phục được mầm bệnh virus cơ hội trong ao nuôi tôm docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.63 KB, 6 trang )

Các biện pháp quản lý thích hợp có thể khắc phục được mầm bệnh
virus cơ hội trong ao tôm


Các loại virut giết tôm đáng sợ hiện gây thiệt hại cho khắp các ao tôm ở Ấn độ và kết
quả là hàng loạt các báo cáo mô tả hiện tượng và báo cáo khoa học chính thức cũng
đã xuất hiện. 50% thất bại do bệnh năm 1997 đã vượt quá tỉ lệ 30% năm 1996. Sự thua
lỗ gia tăng đối với bệnh virút đã làm cho các cộng đồng nuôi tôm bất lực và học được
một bài học thấm thía.


Khi những diễn biến của lịch sử 2 năm nuôi tôm vừa qua được xem xét lại thì những
thành công vẫn còn rất hạn chế đối với những trại nuôi quảng canh. Những thay đổi được
kiến nghị trong việc quản lý và thực hiện những biện pháp có lợi cụ thể để phòng bệnh
virút phải được ưu tiên. Việc quản lý có chọn lọc chất lượng đàn tôm mẹ, tổ chức lại
những biện pháp ương nuôi, phân loại thức ăn cần được xem xét để cố gắng đạt được
mức độ thành công nhất định. Mặc dù hầu hết các đàn tôm thành thục tự nhiên nhiễm
đốm trắng nhưng chúng vẫn khỏe mạnh bởi vì chúng tồn tại trong sự hoà hợp với tự
nhiên. Trong sinh sản nhân tạo đòi hỏi cũng phải có điều kiện tương tự như vậy. Đối với
sự lây nhiễm virút thì sự lây nhiễm theo chiều ngang đã được xác định rõ ràng và thậm
chí theo chiều dọc cũng được nghi ngờ ở một số thể virút nào đó.

Lựa chọn tôm bố mẹ

Hầu hết khuynh hướng hiện nay ở các trại giống qui mô nhỏ là mua cả những tôm từ
ngư dân đánh bắt được ở những thủy vực nông cạn. Không may, những đàn tôm ở những
thủy vực này hiện ngày càng phải chịu ảnh hưởng của lượng nước thải có chứa virus từ
các vuông nuôi tôm. Tôm sú từ những vùng không bị ô nhiễm, ngoài khơi sâu (ở 100 sải
= 182m) có màu hơi đỏ với vằn hơi nâu. Các cá thể tôm bố mẹ như thế thường không
nhiễm virus và rất thích hợp cho sinh sản nhân tạo, tuy nhiên chúng rất hiếm thấy. Tôm
giống được sản xuất từ những đàn tôm này đã được ghi nhận là nuôi thành công. Tôm


ngoài tự nhiên duy trì một sự cân bằng vi khuẩn trong ống tiêu hóa của chúng. Virus nếu
có hiện diện sẽ bị làm yếu đi hoàn toàn và không gây hại do một cơ chế bảo vệ vật chủ
hữu hiệu so với những cá thể trong thủy vực nông cạn. Những đàn tôm sú không nhiễm
bệnh từ các vùng ven bờ như thềm lục địa biển Arabian (khu vực của Ấn độ) có thể được
kiểm tra qua máy dò ADN (Lightner ctv, 1992) để phát hiện virus bằng cách lấy mẫu ở
chân bơi mà không gây chết. Một vài quần thể con đực không nhiễm virus đã qua kiểm
định được sử dụng cho việc đa thụ tinh đồng loạt (bằng cách chuyển tinh) của những bầy
tôm đánh bắt ở vùng biển sâu của vịnh Bengal. Thêm vào đó, những bầy tôm cái mới
thành thục của vùng Andamans có thể được khai thác một cách thận trọng. Một chính
sách có tính quốc gia về việc kiểm soát nguồn tạo giống và nguồn di truyền nên được
thiết lập. Những cá thể đực/cái đã sinh sản trong đàn với nhau nên tránh sử dụng do sự bổ
sung những gen mới vào trong quần thể bị giới hạn. Kết quả là con cháu cuối cùng sẽ mất
đi sức đề kháng với bệnh. Các trung tâm phân phối ở Andamans cần được tổ chức để
phân phối tôm mẹ/ấu trùng đã qua kiểm dịch bằng đường không. Phân tích mô hình tuổi
những tôm già hơn chủ yếu tương quan với chiều dài giáp đầu ngực, tổng chiều dài thân
và trọng lượng và giúp theo dõi phần trăm tỉ lệ gia tăng cơ thể trên lần lột xác và số lần
đẻ có thể xảy ra trong tự nhiên.

Do chưa từng bị tấn cống bởi virus, tất cả các cá thể tôm bố mẹ đánh bắt ngoài tự
nhiên nên được cách ly khỏi các khu vực trại giống như một phần của qui trình kiểm
dịch. Tôm bố mẹ được giữ trong các ao 400m
2
, thích hợp hơn là được giữ trong các nhà
kính làm bằng nhựa trong LDPE 92% nơi đảm bảo nhiệt độ luôn cao hơn bên ngoài 4
o
C.
Trong 1 tuần tôm bố mẹ được cách ly trong các giai trong ao nuôi vỗ và được cho ăn chế
phẩm vắc xin Vibrio anguillarum qua tiêm vào thức ăn tươi sống như mực. Vắc xin
Vibrio anguillarum tiêm vào thức ăn tươi sống có thể cải thiện đường ruột và ngăn chặn
sự lây truyền của virút theo chiều dọc trong các bể nuôi vỗ thành thục. Tất cả các tác

nhân có thể mang virus như nhuyễn thể, cua và thịt tôm đều cấm sử dung làm thức ăn
tươi sống cho tôm bố mẹ. Giun nhiều tơ nuôi trong khay, mực tươi và những loại thức ăn
chứa caroten được khuyến khích sử dụng (Wasilieski và Skatrud 1995). Sau đó, tôm bố
mẹ được thả ra khỏi giai vào trong ao nuôi vỗ. Vì nhiệt độ thấp có thể làm giảm khả năng
ăn và tiêu hóa vi sinh và ngay cả phá hủy những yếu tố kháng nguyên bảo vệ, nhà kính
với mái nhựa sẽ giúp tránh được những tác động trên. Hơn nữa việc sử dụng các loại vắc
xin mà tính năng hoạt động của virus được làm giảm đi hơn là virus đã chết đòi hỏi liều
lượng cấy vào ít hơn, đây là một yếu tố hấp dẫn trong việc xử lý số lượng lớn tôm bố mẹ.
Hầu hết mầm bệnh (virus) là những vi sinh vật cơ hội và chỉ tấn công khi cơ chế bảo vệ
của vật chủ đã yếu đi. Xét nghiệm với ấu trùng Artemia trong môi trường phân của tôm
bố mẹ trong bể thành thục và phân tích độ nhạy cảm trên Artemia cho sự hình thành dấu
vết có thể sử dụng như là một chỉ thị sinh học. Sinh khối tảo thạch được thay thế thường
xuyên như những túi hình trụ bên trong các ống dẫn nước (đục lỗ) của bể thành thục có
thể giúp hấp thụ các dịch nhày, dễ dàng phòng chống bất cứ sự xuất hiện quá mức của
mầm bệnh trong bể.

Ương ấu trùng

Để có được nguồn nước ương nuôi không bị nhiễm, nước biển đã qua lọc cát phải để
lắng và chảy nhỏ giọt qua các lớp than hoạt tính. Nước ngầm thường cho kết quả thành
công trong sản xuất giống. Các bể ương ngoài trời hoặc những bể chứa không được sử
dụng có thể phục vụ mục đích này. Trứng đẻ non không chứa tất cả các thành phần cơ
bản của noãn hoàng. Vì vậy sự biến thái không bình thường xảy ra do sự sử dụng đều đặn
noãn hoàng đang hình thành bởi ấu trùng nauplii bị kiềm hãm và xảy ra sự khủng hoảng
về enzym vào giai đoạn mysis 3. Ấu trùng nauplii (N3) phải được tắm formalin và iodine
để loại bỏ ký sinh trùng, có thể là vật mang mầm bệnh thụ động. Áp dụng nước dừa non
giàu hóa cytokinin (nồng độ 0.5%) vào bể ương ấu trùng ở giai đoạn zoea 1, kết hợp với
cấy chế phẩm sinh học Lactobacillus subtilis giúp ổn định môi trường nước ương. Những
mẻ ở những bể mà biến thái với tốc độ nhanh không bình thường phải tách riêng để theo
dõi kỹ hơn. Một môi trường vi mô tốt được duy trì qua việc cho ăn tảo được nuôi ở nồng

độ muối thấp và có một tỉ lệ cao số lượng tảo sợi. Tảo kháng khuẩn Isochrysis galbana
(Bruce ctv 1967) được cho ấu trùng zoea 1&2 ăn, tảo khuê chuỗi cho zoea 3 và hỗn hợp
tảo khuê kích thước nhỏ cho mysis 1, 2 và 3 cộng với chlorophyte sau giai đoạn PL1.
Nuôi tảo Skeletonema đòi hỏi vitamin B cần nước biển tự nhiên bởi vì trong môi trường
không có vi khuẩn tảo phát triển rất yếu. Rất nhiều vitamin B được phóng thích từ quần
thể vi sinh vật tự nhiên được hấp thu bởi chuỗi tảo khuê này, sau đó được ấu trùng tôm
tiêu thụ. Vitamin góp phần vào quá trình xúc tác enzyme cho các giai đoạn đầu của ấu
trùng, biểu hiện bởi các sợi phân kéo dài ở phần đuôi. Chaetoceros phát triển rất kém khi
trong môi trường ương có kháng sinh. Nước biển không xử lý bằng chlorine là tốt nhất.
Sử dụng các hóa chất xử lý có nguồn gốc từ hợp chất furan trong bể ấu trùng sẽ tác hại
đến sự nhân đôi của nguyên sinh chất và tế bào của Chaetoceros. Sự biến dạng của các cá
thể còi và giảm sức đề kháng tự nhiên có thể xảy ra. Tỉ lệ ARN:ADN của ấu trùng vào
lúc bắt đầu dinh dưỡng ngoài có thể dùng như là một chỉ số (index) để ước đoán khả năng
sống sót của ấu trùng vào những tháng tiếp sau đó. Sự chuyển động của các lông tơ ở ấu
trùng nauplii có thể dùng làm index tốt hơn bởi vì sự rung động hiếu động thái quá của
các lông tơ chứng tỏ một quá trình sinh lý sinh trưởng bất thường. Nồng độ muối và nhiệt
độ phải được duy trì ổn định. Các loại thuốc có tác dụng ngăn chặn miễn dịch phải được
tránh sử dụng. Tôm bột được thả vào trong các ao gần như là hệ thống kín với thay nước
ít và phân hủy chất thải trong ao. Vì thế ương trong trại giống cũng đòi hỏi các biện pháp
phòng ngừa tương tự để đảm bảo sự thâm nhập tối thiểu của mầm bệnh và chuẩn bị cho
con giống có những phản xạ sinh hóa nội trong hệ thống kín. Hóa tính của nước về mặt
số lượng phải được kiểm soát hiệu quả trong hệ thống nửa kín. Những nổ lực để đảm bảo
tỉ lệ sống cao có thể phản tác dụng với sự có được thật sự khả năng miễn dịch tự nhiên.
Việc chuyển sang các loại thức ăn thương mại có vi khuẩn trong suốt giai đoạn mysis có
thể làm giảm sự lan truyền của virus theo chiều ngang bởi các dạng ấu trùng biến thái.
Nước ương ấu trùng có chứa nhiều Skeletonema hơn sẽ cho ấu trùng khỏe và chuyển hóa
sắc tố tốt hơn tương ứng với thành phần caroten và glucan ß 1, 3 của tảo (Myklestad
1974). Ương trong môi trường nước xanh hậu ấu trùng sẽ được chuẩn bị để thích nghi với
hệ thống ít thay nước trong ao nuôi thịt sau này. Có điều lạ là cho ăn đơn điệu số lượng
lớn ấu trùng Artemia nhằm tăng tỉ lệ sống của PL đã tạo ra hậu quả tai hại trong ao. Luân

trùng được làm giàu hóa bằng dầu cá mòi có thể được bổ sung để đáp ứng nhu cầu ADN
cho quá trình lột xác đồng loạt và sự hình thành màng tế bào. Cho ăn luân trùng đông
lạnh cho kết quả khích lệ hơn. Sự nở hoa của tảo Tetraselmis có chứa hàm lượng cao
arginine giúp cung cấp một loại giá thể tuyệt vời cho sự phát triển của vi khuẩn
Lactobacillus trong môi trường. Các bể ương ấu trùng cần được chiếu sáng từ giai đoạn
N6 cho đến PL7 để giúp quá trình chuyển sắc tố. Độ mặn ương nên từ 15-20ppt. Vào giai
đoạn PL5 độ mặn nên duy trì trong khoảng 28ppt và quá trình thuần hóa xuống 24ppt nên
chấm dứt vào giai đoạn PL6/PL7.

Nuôi thịt

Sản lượng của vụ hè vượt trội hơn sản lượng của vụ đông. Nước thải ra bị ô nhiễm và
lẩn quẩn trong các kênh rạch nên trách lấy vào để nuôi. Thay vào đó nước giếng khoan
dọc theo bờ biển có thể cung cấp nước có độ mặn từ 12-15ppt sẽ cho tỉ lệ sống cao. Ao
hệ thống bán kín làm giảm tối thiểu nguồn nước thải, do đó làm giảm sự căng thẳng về
môi trường. Nuôi một vụ vào mùa hè sau đó nghỉ phơi ao trong thời gian còn lại của năm
sẽ cho kết quả chấp nhận được. Sự khác nhau về nhiệt độ nước trong suốt thời vụ sản
xuất ở mùa đông cũng như chu kỳ lột xác bị ức chế có thể tác động tiêu cực đáng kể đến
sức ăn của tôm.

Các ao nuôi thường được quản lý bởi những hộ nuôi qui mô nhỏ. Hầu hết các ao hợp
tác xã được cho nông dân thuê vì họ dễ dàng đạt được những mức thành quả hấp dẫn về
mặt kinh tế. Những đơn vị nhà nước quản lý những trại tôm có qui mô lớn thường tăng
tổng chi phí nên tạo ra áp lực làm sao để đạt được năng suất cao. Xử lý nước ao nuôi
bằng chlorine trước khi thả giống là biện pháp phản tác dụng mà cố tình loại trừ những vi
sinh vật cạnh tranh và đón tiếp mầm bệnh cơ hội vào. Hầu hết các ao chứa trong trại nuôi
được xem là nơi để ương nuôi virus. Việc phơi ao chứa mỗi 6 tháng được khuyến cáo
nhưng thường không được thực hiện. Năng suất giảm đi của các ao tôm cũng có thể được
bù đắp qua "việc chuyển san nuôi từng vuông", qua đó mật độ cao được san qua những
ao kế bên đã được chuẩn bị. Việc chuyển san đã chứng tỏ rất thành công trong việc góp

phần nâng cao năng suất nuôi đáng kể. Postlarvae dùng để thả nuôi phải được lấy mẫu để
kiểm tra bằng phương pháp cho nhịn đói trong nước được lọc qua mắt lưới 1 micron
trong 7 ngày. PL được cho ăn chủ yếu thức ăn viên trở nên yếu hoặc chết trong vòng vài
ngày. PL ăn thức ăn tự nhiên như vi khuẩn, tảo đơn bào, copepod, và luân trùng sống
được tới 5 ngày. Chỉ số của tuyến ruột giữa của PL có thể dùng để so sánh với PL từ mẫu
thử cho nhịn đói.

Việc bón phân lập đi lập lại để gây màu nước là một biện pháp quản lý cần phải bỏ.
Sự nở hoa của tảo không chọn lọc dẫn đến những ảnh hưởng không mong muốn, tước
đoạt mất sinh thái vi sinh vật trong ao của vật chủ các loại vi khuẩn. Nuôi trong ao không
còn dựa vào sự nở hoa của tảo và tương tác của vi khuẩn ngoại bào. Việc đưa hàng trăm
kg chất dinh dưỡng có nguồn gốc hữu cơ và vô cơ vào trong ao để kích thích sự nở hoa
của tảo thật ra dẫn đến tình trạng bệnh vi khuẩn hàng loạt. Hầu hết các vấn đề bệnh vi
khuẩn trong ao là do tình trạng quá giàu dinh dưỡng qua việc đưa nguồn dinh dưỡng vào
ao vô kể, lặp lại (thức ăn, phân bón) và sự gia tăng đáng kể các khuẩn lạc có hại. Hầu hết
các ao chết vì nhiễm virus có chứa tỉ lệ rất cao loại khuẩn lạc Vibrio màu xanh trong tổng
số khuẩn lạc đếm trong đĩa cấy petri. Copepod nuôi khi thả vào trong ao có thể làm giảm
nhanh chóng số lượng vi khuẩn do tập tính lọc có hiệu quả của chúng.

Sự nở hoa của hỗn hợp tảo được cấy trong các bể xi măng (150 tấn) ở mật độ cao (12
x 106 tế bào/ml) sử dụng chiết xuất từ bùn biển và rong đã khử trùng phải được lọc trong
bể cát có áp suất cao và rửa lại để chỉ thu hoạch tảo cô đặc để gây màu trong ao. Ở bề mặt
giữa bùn và nước cần được hình thành một thảm vi sinh vật khoẻ mạnh. Cống ao cần phải
là loại ngăn kín với nhiều ống có lỗ đặt theo chiều ngang ở các độ sâu khác nhau. Thiết
kế kiểu này cho phép thay được nước ở các độ sâu khác nhau trong cột nước và bảo đảm
nhiệt độ đồng đều ở các điểm trong ao. Khi có sự xuất hiện bệnh đốm trắng bất thường
trên tôm khoẻ mạnh trong ao không được sử dụng thuốc để chữa trị bởi vì cách này nói
chung sẽ làm yếu đi hệ thống miễn dịch của tôm. Việc sử dụng thuốc nên được tránh và
cách ly triệt để các hệ thống bị nhiễm bệnh nên được thực hiện. Việc rào chắn xung
quanh các ao bệnh có thể làm để ngừa sự lây nhiễm ngay cả từ không khí từ các ao đã bị

bệnh. Xác tôm bệnh nên được loại bỏ cẩn thận.

Nuôi lồng bên trong ao với mật độ thấp các loài cá biển có thể làm giảm vi khuẩn
gram dương từ hệ thống sinh thái ương nuôi. Ương PL6 ban đầu trong hệ thống ương nổi
nằm trong ao có quần thể tảo nở hoa trong 2 tuần mà không cần cho ăn thức ăn viên sẽ
giúp hình thành một mạng lưới của Vibrio ruột mà bám chủ yếu vào thành/dịch ruột.
Thành phần vi sinh vật của ống tiêu hóa ở tôm được xác định chủ yếu qua các đặc điểm
về sức sản xuất tự nhiên được tiêu hóa bao gồm mạng lưới thức ăn trong ao. Sự gắn kết
thường xuyên, sự cân bằng thành công hiển nhiên (sau khi cố định chắc chắn vào những
vị trí tiếp nhận có tính cạnh tranh) của những quần thể vi khuẩn có lợi như thế có thể sẽ
gia tăng tỉ lệ sống, kháng kháng sinh, trung hòa độc tố, hạn chế sự căng thẳng và kéo dài
mối quan hệ hợp tác trong hệ thống tiêu hóa đối với hoạt động tiêu hóa vi sinh vật. Vi
sinh vật có lợi (probiont) được tin là hoặc là ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn cơ hội
hoặc giúp khả năng chịu đựng một sự lây nhiễm.

Cho ăn quá nhiều cho thấy góp phần vào sự gia tăng khả năng bị tấn công bởi virus.
Hầu hết các ao nuôi ở Ấn độ thể hiện hệ số chuyển hóa thức ăn thấp, sự lột xác đồng loạt
và một tập tính sinh lý cho thấy sức khỏe vượt trội trước khi không chống nổi sự tấn cống
của virus. Cho ăn 4 lần một ngày là đủ và cũng cung cấp cho tôm đủ cơ hội để tìm và tiêu
thụ thức ăn tự nhiên. Tôm cho ăn hoàn toàn thức ăn công nghiệp sẽ có nồng độ đạm
huyết thanh thấp hơn nhiều. Thu hoạch sớm ở mức trọng lượng 18-20g thì bảo đảm an
toàn hơn.

Ao dạng tròn với những đường cắt ngang có điểm trung tâm đồng tâm và được làm
đầy với rong agar (Gracilaria sps.) có thể hấp thụ những chất dinh dưỡng dư thừa và kiểm
soát sự nở hoa của tảo hoặc khống chế tảo sợi (do sự gia tăng độ mặn của hệ thống bán
kín) trong ao. Sự dụng chế phẩm vi sinh thương mại đã ủ trước thì tốt hơn những sản
phẩm sẽ được ủ trước khi dùng. Quá trình kích thích nhân tạo bằng các chế phẩm vi sinh
có lợi có thể được thay đổi hoặc tăng cường đối với sự có lợi của nông dân trong việc đa
dạng hóa những phương thức có hiệu quả về mặt sinh thái. Hầu hết các mầm bệnh tiềm

tàng bị triệt tiêu nhờ sự loại trừ có tính cạnh tranh. Hiện nay việc thả con giống tự nhiên
vào ao đang bị cấm. Người nuôi tôm cần nhận ra rằng không nên thả quá mật độ từ 10-15
con/m2. Nuôi vượt quá mật độ này đã trở thành tác nhân gây stress đầu tiên và đã là yếu
tố lớn nhất góp phần vào sự bùng nổ dịch bệnh năm 1994. Các ao nuôi nên làm một rãnh
xi măng dọc theo bờ và một viền bên trong của đê để chặn lại nước rửa trôi vào trong ao
do mưa. Sự rửa trôi cũng có thể là một trong những tác nhân tiềm tàng mang virus, có thể
từ đợt thu hoạch những tôm bị bệnh trước đó. Chiết xuất Yucca (từ cây Yucca schidigera)
có chứa hợp chất glyco là tác nhân kết dính ammonia tốt nhất trong ao kín một phần
(Wacharonke 1994). Việc xử lý chất thải phải trở thành một sự mong muốn có tính bản
năng của người nông dân.

Với các bài học từ các khu vực nuôi tôm phổ biến nhất trên thế giới việc cải tiến kỹ
thuật nuôi hứa hẹn phòng được sự xuất hiện của nhiều loại virus (BP, BMN, ) mà cũng
đã gây thành dịch cho Trung quốc, Đài loan, Thái lan, Philippines, Nuôi thủy sản hệ
thống sinh thái- thân thiện là một điều cần thiết và dần dần ngày càng trở nên hiện thực
(Kutty 1997). Nghiên cứu sâu hơn nữa để phát triển các thử nghiệm sinh học nhằm nhận
dạng những dòng vibrio khác nhau với những ảnh hưởng kháng virus (Gunderson, ctv
1968; Magnusson ctv 1967) và kỹ thuật phát hiện tốt hơn để sàng lọc virus tiềm tàng
trong suốt thời gian đầu phát triển của ấu trùng là cần thiết. Một sự biến chuyển từ khám
phá đến thử nghiệm ngoài hiện trường cần được thực hiện. Sự nhượng bộ thích hợp và
thực tiễn đối với các biện pháp nuôi hiện nay và những đối tượng sản xuất có thể làm nhẹ
gánh và hỗ trợ nền công nghiệp nuôi tôm ảm đạm bằng sự áp dụng những kiến thức và
kinh nghiệm chia sẻ được.

Người dịch: Vũ Ngọc Út - Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ


×