Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH CHỐNG NHIỄM KHUẨN ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.69 KB, 17 trang )

ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH CHỐNG
NHIỄM KHUẨN

Đáp ứng miễn dịch chống vi khuẩn và nấm gồm đáp ứng miễn dịch tế bào và
dịch thể; diễn tiến phức tạp do sự tiến hoá của vi sinh vật và tác động hổ tương
giữa môi trường vi sinh vật và vật chủ. Trong số những cơ chế này quan trọng
nhất là cơ chế miễn dịch không đặc hiệu với vai trò của bổ thể, thực bào,
cytokin.v.v. nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của vi sinh vật bằng phản ứng viêm và
đáp ứng miễn dịch nhớ.v.v. Trong thực tế, người ta đã sử dụng biện pháp phòng
nhiễm khuẩn bằng cách chủng ngừa các vắc xin. Các vi khuẩn không gây bệnh có
thể do hệ thống miễn dịch của cơ thể vật chủ kiểm soát được; nhưng nếu các vi
khuẩn thoát khỏi sự kiểm soát này thì sẽ gây bệnh. Vi khuẩn gây bệnh có thể chia
làm hai nhóm dựa trên vị trí ở trong tế bào hay ngoài tế bào (vi khuẩn nội bào và
vi khuẩn ngoại bào)
Vi khuẩn phát triển ngoại bào dưới sự kiểm soát của bổ thể, thực bào, kháng
thể. Vi khuẩn và nấm phát triển nội bào chỉ có thể bị phá huỷ do tác động của thực
bào thường được kích thích bởi cytokin do tế bào lympho T hoạt hoá tiết ra trong
đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
Cách phân loại này và cơ chế đề kháng tuỳ thuộc vào khía cạnh suy giảm
miễn dịch: hoặc suy giảm tế bào lympho T (suy giảm miễn dịch tế bào) điển hình
bởi nhiễm trùng các ký sinh vật nội bào; hoặc suy giảm tạo globulin miễn dịch,
điển hình bởi nhiễm trùng sinh mủ phát triển ngoài tế bào. Tuy nhiên có thể suy
giảm kết hợp cả miễn dịch dịch thể và tế bào.
I. Hệ thống sinh thái vi sinh vật và sự thích nghi của vi sinh vật với vật chủ
Các vi sinh vật thích nghi môi trường sống bằng cách điều chỉnh sự biểu lộ
hệ gen và bởi quá trình đột biến cũng như thay đổi trao đổi vật liệu di truyền DNA
giữa các nhiễm sắc thể và plasmid và ngay giữa các vi khuẩn.
Cơ chế chọn lọc phụ thuộc vào môi trường sinh thái vi sinh vật. Đối với vi
khuẩn sống trong nước và đất, sự chọn lọc chủ yếu theo chu kỳ sinh học trong vật
chủ, đặc biệt bởi sự cân bằng giữa các quần thể vi sinh vật trong môi trường, nhất
là đối với cơ chế đề kháng miễn dịch của vật chủ. Mặt khác, yếu tố chọn lọc xảy ra


với kháng sinh được sử dụng điều trị ở người và động vật (ví dụ sự đề kháng của
tụ cầu vàng ).
Ngoài ra, có một số vi sinh vật vô hại với vật chủ, chúng sống trong cơ thể
vật chủ và tồn tại ở những vị trí đặc biệt như vi khuẩn cộng sinh ở ruột, âm đạo, tai
mũi họng; có vai trò chuyển hoá, dinh dưỡng, và chống độc tố của vi khuẩn gây
bệnh, kích thích đáp ứng miễn dịch.
II. Hậu quả trực tiếp và gián tiếp của vi sinh vật
Trong số những vi khuẩn có những vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể con người
và gây ra bệnh lý, một số khác có thể phát hiện tình cờ do tìm thấy kháng thể đặc
hiệu trong huyết thanh (nghiên cứu dịch tễ huyết thanh học)
Khi vi khuẩn gây bệnh, các triệu chứng lâm sàng và diễn tiến bệnh tuỳ thuộc
hiệu quả gây bệnh trực tiếp (độc tố, sự xâm nhập, sự nhân lên) và đáp ứng miễn
dịch của vật chủ liên quan cơ chế đề kháng và miễn dịch bệnh lý. Các triệu chứng
như sốt, rét run, mệt mỏi, gầy yếu, phản ứng viêm do đáp ứng miễn dịch. Điều trị
corticoid làm giảm phản ứng viêm nhưng ngăn cản đáp ứng miễn dịch bảo vệ.
Một số vi khuẩn có thể bám vào các thụ thể tế bào biểu mô (liên cầu
khuẩn nhóm A ở họng) hay qua trung gian độc tố tiết ra như ngoại độc tố bạch
hầu, uốn ván, tả. Sự bảo vệ tuỳ thuộc vào các kháng thể đặc hiệu trung hoà
độc tố. Do đó người ta đã ứng dụng sản xuất vắc xin với những độc tố đã
được khử độc nhưng còn tính kháng nguyên (anatoxin).
Ngược lại, một số vi khuẩn có khả năng xâm nhập thì phức tạp hơn. Vi
khuẩn gắn lên bề mặt tế bào vật chủ hay mô đệm và nội bào hoá, nhân lên và
khuếch tán tổ chức nhờ những độc tố và enzym làm tổn thương tổ chức
(Shigella). Các vi khuẩn sử dụng khả năng xâm nhập và tiết các độc tố cùng
lúc (S. aureus, C perfringen.v.v.). Sự đẩy lùi vi sinh vật đòi hỏi khả năng tiêu
diệt vi khuẩn của hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, khó khăn đối với hệ thống
miễn dịch là vách vi khuẩn có thể đã có sự chọn lọc, đa dạng: ví dụ tiêm mao
và lông mao, chuổi đường đa (polyoside) của nội độc tố vi khuẩn Gram âm
và vỏ ngoài của xoắn khuẩn.


Hình 2.1. Cấu trúc của Escherie coli
III. Cơ chế miễn dịch tự nhiên (không dặc hiệu)
1. Da: Lớp da ngoài giúp loại bỏ vi khuẩn bằng hiện tượng bong vảy, rất dễ ở pH
hơi acid, nếu băng kín da sẽ tạo điều kiện ẩm làm tăng số lượng vi khuẩn (bình
thường < 1000 vk / cm
2
đối với S aureus, S epidermidis, vi khuẩn Gr (-). Những
vết cắn côn trùng, bỏng, vết thương da và đặt catheter làm vi khuẩn dễ xâm nhập.
Các nang lông, lỗ bài tiết, tuyến bài tiết sẽ cung cấp những điều kiện cho sự
phát triển vi khuẩn. Tuy nhiên, ở đây có những lysozym và những peptid kháng
khuẩn bảo vệ da. Vi khuẩn chí và mồ hôi cũng là cơ chế loại bỏ vi khuẩn. Mụn
trứng cá là phản ứng viêm do tắt nghẽn ống tuyến mồ hôi dẫn đến xâm nhập bạch
cầu và vi khuẩn nhân lên.
2. Niêm mạc: biểu mô niêm mạc có cấu trúc nhiều tầng (niêm mạc miệng, thực
quản, đường tiểu, âm đạo) hoặc có thể một lớp làm dễ tổn thương như ở biểu mô
phế quản và ruột.
Lớp nhầy sản xuất bởi các tế bào nhầy là loại gel tạo nên bởi các đa đường
trùng phân và protein. Nó như là chất bôi trơn mục đích chống sự tổn thương
(dessication) khi tiếp xúc không khí, chứa chất kháng khuẩn như surfactant ở bề
mặt phế quản và IgA tiết. Sự thay đổi chất nhầy liên tục dẫn đến nhiễm trùng phổi
tái diễn trong bệnh nhầy (mucoviscidose). Suy giảm khả năng chuyển động một
chiều của lớp nhầy tiêm mao do nhiễm vi rút (cúm, hợp bào, sởi, .v.v.) hay bởi ô
nhiễm không khí (công nghiệp, khói thuốc lá.v.v.) là nguồn gốc của viêm phế
quản.
Đường dẫn khí dưới thường vô trùng nhờ vào hiện tượng ho và liên kết của
vi khuẩn vào lớp nhầy. Các vi khuẩn thoát khỏi cơ chế bảo vệ của lớp nhầy tiêm
mao sẽ được thực bào bởi các đại thực bào phế nang nhờ vào hiện tượng opsonin
hoá bởi chất surfactant và thụ thể C1q. Tắt nghẽn vòi Eustache có thể dẫn đến
viêm tai giữa có thể kèm theo một sự tăng sinh vi khuẩn hoặc không.
Giác mạc được bảo vệ bởi sự hoạt động của mí mắt và nước mắt liên tục tiết

ra chứa lysozym, lactoferin, peptid kháng khuẩn và IgA tiết. Hội chứng khô tuyến,
sử dụng các thuốc như atropin, kháng cholinergic hay nhiễm trùng HCV, HIV,
HTLV-1 đe doạ nhiễm trùng kết mạc, giác mạc.
Vùng miệng được bảo vệ bởi lớp biểu mô đa tầng và dịch tiết. Các vi khuẩn
cộng sinh như staphylococcus mutants…góp phần tạo nên mảng cao răng. Các loại
vi khuẩn tham gia vào sự phá huỷ của men răng và dẫn đến hoại tử và viêm dẫn
đến xỉ răng. Cơ chế này cũng gặp trong hội chứng khô tuyến. Hiện tương viêm
nha chu do phản ứng viêm xảy ra bởi các bạch cầu trung tính thực bào vi khuẩn ở
vùng lợi răng.
Ống tiêu hoá được bảo vệ bởi môi trường acid của pH dạ dày, những trường
hợp thiếu toan dẫn đến nhiễm trùng đường ruột trong bệnh cắt dạ dày, thiếu máu
Biermer. Tuy nhiên vi khuẩn Helicobacter pylori có thể phát triển trong môi
trường acid dạ dày nhờ men urease tạo NH
4
kiềm hoá môi trường chung quanh vi
khuẩn.
Ở tá tràng và ruột chứa nhiều muối mật (tác dụng như chất tẩy) và enzym
tiêu đạm, ngoài ra các vi khuẩn chí ở ruột có khả năng cạnh tranh chất dinh dưỡng,
tạo các chất độc chủ yếu là vi khuẩn kỵ khí (97%).
Các vi khuẩn cộng sinh ở đường âm đạo và cổ tử cung chịu ảnh hưởng bởi
nội tiết tố có khả năng tạo môi trường acid tại đây và như một lớp phim mỏng bảo
vệ (vi khuẩn lactobaccillus, vi khuẩn Doderlin).
Sự hiện diện của lysozym trong các chất tiết có khả năng cắt các
peptidoglycan ở vỏ vi khuẩn và lactoferin có khả năng bắt giữ Fe cần thiết cho vi
khuẩn hoạt động như là chất cạnh tranh với vi khuẩn, ngoài ra trong dịch tiết còn
có các peptid kháng khuẩn khác, ví dụ ruột già chứa chừng 10
10
vi khuẩn trong 1g
chất rắn của phân, nhưng lớp niêm mạc của ruột già hoàn toàn vô trùng.
Vai trò miễn dịch tại chổ của ruột tỏ ra rất cần thiết trong bảo vệ chống lại

độc tố do vi khuẩn ruột không xâm lấn tạo ra (vắc xin uống của tả). Ví dụ: ỉa chảy
ở những du khách do độc tố ruột của vi khuẩn E. coli dễ bị huỷ bởi nhiệt
(thermolabile toxin) hoặc có loại bền vững với nhiệt (thermostable toxin). Các
nguyên nhân khác nữa là do nhiễm crytosporidium parvum, ký sinh trùng nôị bào
của tế bào ruột, nhiễm phẩy khuẩn tả gây nên ỉa chảy do độc tố có cấu trúc và
kháng nguyên gần với độc tố của E. coli.
3. Phản ứng viêm tại chổ và toàn thân trong nhiễm khuẩn
Khi vi khuẩn vượt qua hàng rào bảo vệ da và niêm mạc đi vào tổ chức liên
kết; tiếp xúc với hệ thống miễn dịch tự nhiên chuyên biệt hơn (bổ thể, hệ thống
đông máu, kinin, tiêu fibrin) và hệ thống tế bào. Các hoạt động kích thích phản
ứng viêm (giảm dòng máu, thu hút bạch cầu) nhằm hạn chế ổ nhiễm trùng và khởi
động các kiểu đáp ứng miễn dịch đặc hiệu cần thiết.
3.1. Cấu trúc phân tử tham gia nhận biết tác nhân gây bệnh
Tính chất cơ bản của miễn dịch tự nhiên là khả năng nhận biết “ cái tôi” và
“không phải tôi” được thực hiện nhờ vào các cấu trúc đặc hiệu của vi khuẩn được
nhận biết bởi các thụ thể của vật chủ dưới dạng các protein hoà tan và dạng màng.
Nhóm kháng nguyên phổ biến của tác nhân nhiễm trùng là
lipopolysaccharides (LPS) của vi khuẩn gram (-) và acid techoic của vi khuẩn
gram (+), peptid fomyl hoá, các đường mannan của vách nấm.
Các thụ thể của các tế bào vật chủ gồm nhiều họ protein khác nhau hoà tan
hay hiện diện ở màng tế bào, trên tế bào biểu mô nhầy, các đại thực bào, tế bào
NK. Ví dụ họ lectin typ C như lectin gắn đường mannose có chức năng opsonin
hoá và hoạt hoá bổ thể bởi con đường lectin. Họ protein giàu leucin như CD14,
thụ thể của LPS trên đại thực bào, bạch cầu trung tính, tế bào biểu mô. Các
pentraxin (CRP, amyloide huyết thanh-SAA) hoạt hoá bổ thể và thực bào.
3.2. Vai trò của bổ thể
Hoạt hoá bổ thể cho phép khởi động phản ứng viêm bởi các peptid hoá
hướng động như C3a và C5a, opsonin hoá vi khuẩn và ly giải các thành phần của
chúng.
Nếu vắng mặt kháng thể, bổ thể hoạt hoá theo con đường cổ điển (lipid A

của LPS), con đường lectin hay có thể tự nhiên bởi con đường tắt (vòng khuếch
đại C3) bởi sự hiện diện của cấu trúc đa đường hoạt hoá bề mặt.
Mục đích hoạt hoá bổ thể : (1) giải phóng C3a và C5a hoá hướng động thực
bào; (2) opsonin hoá vách vi khuẩn cho phép gắn với thụ thể CR3 (CD11b/CD18)
trên màng đại thực bào (3) khởi động tạo phức hợp tấn công màng C5b-9 cho phép
cố định trên vách vi khuẩn và chuẩn bị ly giải vi khuẩn.
Chức năng này bị suy giảm trong trường hợp thiếu hụt C5, C6, C7, C8 hay
properdin gặp trong nhiễm trùng Neisseria meningitidis và Neisseria gonorrhoeae.
Một số vi khuẩn có khả năng thoát khỏi cơ chế hoạt hoá bỏ thể này ví dụ sự
lắng đọng C3b trên vi khuẩn có thể bị che phủ bởi vỏ nang dày (polysaccharide,
mucoide, cristallin) gặp trong Neisseria meningitidis, E. coli K1, liên cầu nhóm B
và nhóm G, Treponema pallidum. một vài vi khuẩn không có C3b bám lên vách
(H. influenza, P. aeruginosa). Liên cầu khuẩn có protein M gắn với fibrinogen
cũng bảo vệ sự tương tác của CR3, các vi khuẩn có coagulase tạo nên lớp fibrin
bảo vệ . Pseudomonas tiết elastase bất hoạt C3a và C5a và giảm phản ứng viêm.
Đối với những vi khuẩn này thì miễn dịch tự nhiên tỏ ra không hiệu quả nhưng
thường miễn dịch đặc hiệu có khả năng khởi động hoạt động thực bào.
3.3. Vai trò của cytokin và các protein viêm
Các giai đoạn khởi đầu của nhiễm khuẩn điển hình bởi sự sản xuất hàng loạt
các cytokin bởi những tế bào khác nhau. Những cytokin viêm này tham gia hoạt
hoá đại thực bào và khởi động phản ứng viêm tạo chổ và toàn thân. Phản ứng này
hoạt động đa dạng, phong phú và hoạt động như dòng thác.
Đại thực bào hoạt hoá và những tế bào khác nhau tiết IL-12, TNFa rồi IL-1a
và b, IL-6 và IL-8. IL-8 cùng với các chemokin hoá hướng động. Sự sản xuất các
cytokin viêm kèm theo sản xuất các cytokin kháng viêm như IL-10, TGFb và IL-
4.v.v.) và prostaglandin E2. Sự cân bằng giữa hai nhóm cytokin trên nhằm định
hướng cho đáp ứng miễn dịch đặc hiệu thuộc typ 1 (IL-12, IFNg) hay typ 2 (IL-4,
IL-10). Sự cân bằng này tuỳ thuộc bản chất tác nhân gây bệnh, đường xâm nhập,
sự đề kháng hay nhạy cảm của vật chủ (bản chất di truyền vật chủ).
IL-1 có nhiều hoạt tính sinh lý (gây sốt, kích thích trục dưới đồi và tuyến

thượng thận), chuyển hoá, miễn dịch (đáp ứng miễn dịch đặc hiệu). IL-6 tác động
tế bào gan sản xuất protein viêm đặc biệt là CRP, orosomucoide, a 1 antitrypsin, a
2 macroglobulin, cũng như lectin.
3.4. Cơ chế diệt khuẩn và tránh né của vi khuẩn
Sự ly giải của bạch cầu trung tính tuỳ thuộc cơ chế phụ thuộc oxy và không
phụ thuộc oxy. Sự ly giải vi khuẩn của đại thực bào và bạch cầu trung tính đòi hỏi
sự hiện diện đầy đủ các tín hiệu biệt hoá và hoạt hoá mang đến bởi các dấu hiệu
của vi khuẩn (LPS, peptidoglycan) và cytokin. Sự ly giải vi khuẩn trong đại thực
bào chậm hơn trong bạch cầu trung tính đã cho phép vi khuẩn bộc lộ các cơ chế
tránh né bị tiêu diệt, để nhân lên và tồn tại trong tế bào.
Các vi khuẩn M. tuberculosis, M. leprae, Salmonella, Brucelle là những ví
dụ điển hình cho sự nhân lên nội bào. Sự khống chế vi khuẩn tuỳ thuộc tế bào
lympho T và cytokin.
IV. Đáp ứng miễn dich đặc hiệu
Các vi khuẩn và nấm có số lượng quyết định kháng nguyên (QĐKN) phong
phú và được phân biệt bởi cấu trúc hoá học của nó (protein, glycoprotein,
glycolipid, polyosid), cư trú ở màng ngoài, hay màng trong có vai trò cấu trúc hay
chuyển hoá. Các QĐKN trực tiếp gắn với thụ thể BCR và sản xuất kháng thể. Sau
khi thực bào các protein và glycoprotein có thể giáng hoá và kết hợp với phân tử
MHC trình diện cho tế bào T.


Hình 2.2. Cơ chế miễn dịch đối với vi khuẩn ngoại bào và nội bào
1. Sản xuất kháng thể chống đường đa.
Hầu hết vi khuẩn và nấm có cấu trúc đường đa ở vách, là các đại phân tử
được tạo nên bởi các QĐKN lập lại. Những QĐKN này cho phép xác định bởi các
typ huyết thanh giữa mỗi loài vi khuẩn cũng như mức độ khác biệt gen giữa các
loài. Phần lớn những kháng thể chống QĐKN đường đa của vi khuẩn ngoại bào có
tính chất bảo vệ nhờ hoạt tính bổ thể và hiện tượng opsonin hoá của thực bào. Sự
đa dạng của những đường đa vi khuẩn có lẽ do áp lực của đáp ứng kháng thể.

Thực nghiệm ở chuột cho thấy kháng thể QĐKN này có thể sản xuất mà không
cần có tế bào Th. Các QĐKN đường đa hiện diện nhiều tháng trên tế bào tua của
nang hạch bạch huyết và tuỷ trắng lách .
Kháng thể tạo ra chủ yếu thuộc IgM có ái lực yếu và không có trí nhớ miễn
dịch.
2. Đáp ứng tế bào
Đáp ứng tế bào đối với nhiễm khuẩn xảy ra đồng thời của miễn dịch tự nhiên
và đặc hiệu. Đáp ứng tự nhiên với thực bào của và tế bào tua và vai trò cytokin IL-
12 và 18 cần thiết cho sự khởi động của tế bào T đặc hiệu.
Sự định hướng đáp ứng miễn dịch của tế bào T được quyết định bởi tính chất
sinh học của tế bào thực bào tham gia với tác nhân bệnh lý, đặc biệt là khâu tổng
hợp cytokin và di tản về hạch bạch huyết để bảo đảm sự vận chuyển và trình diện
kháng nguyên. Sựu tổng hợp IL-12 bị ức chế bởi HIV và virus sởi dẫn đến sự suy
giảm đáp ứng miễn dịch, làm dễ bội nhiễm bởi các vi khuẩn
3. Các cơ chế hiệu ứng
Sự phá huỷ vi khuẩn và nấm phát triển ngoài tế bào thực hiện bởi sự gắn
kháng thể trên bề mặt các vi sinh vật dẫn đến hoạt hoá bổ thể, cho phép opsonin
hoá và thực bào. Trong khi đối với vi khuẩn phát triển bên trong tế bào chỉ cần tế
bào thực bào nhận tín hiệu đặc hiệu sẽ cho phép ly giải tế bào.
Các tế bào lympho T hoạt động hiệu quả thông qua cytokin (IL-6, TNFa, IFN
g ) và chính các cytokin này khuếch đại sản xuất cytokin bởi ĐTB, tế bào lympho
T, cũng như tế bào NK. TNFa và IFN g tác dụng đồng vận, IL-12, IL-1 và IL-18
tăng cường đáp ứng trong khi IL-4, IL-10, TGFb thì ngược lại.
4 Các protein stress
Các protein stress hay protein sốc nhiệt (heat shock protein, hsp) là những
protein có cấu trúc rất khác nhau, có chức năng “chaperon”. Các tế bào T đặc hiệu
của hsp có thể tham gia bảo vệ chống lại các vi sinh vật khác và nhạy cảm trong
khởi động các phản ứng tự miễn Ví dụ hsp 60 của Borrelia burgdorferi liên quan
cơ chế bệnh sinh của bệnh Lyme.
V. Miễn dich bệnh lý

Cơ chế chống nhiễm khuẩn có liên quan chặt chẻ với hiệu quả miễn dịch
bệnh lý, có thể thấy trong bệnh cảnh cấp tính do tác dụng của ngoại độc tố hay nội
độc tố vi khuẩn dẫn đến sự giải phóng ồ ạt các cytokin; hoặc có thể trong bệnh
cảnh mạn tính khi hệ thống miễn dịch không diệt được tác nhân gây bệnh và loại
bỏ kháng nguyên.
1. Siêu kháng nguyên
Các siêu kháng nguyên dẫn đến sự hoạt hoá đa dòng của tế bào lympho T với
sự giải phóng của IL-2, IFN-g, TNF-a gây nên sốt, đi chảy, rét run, và trong những
thể virus nặng có thể hội chứng thoát huyết tương gây phù não, phù phổi, và suy
thận. Những triệu chứng này có thể thấy trong nhiễm độc thức ăn do tụ cầu,
thường xảy ra nhanh.
2. Nội độc tố và sốc nhiễm khuẩn
Nội độc tố hay LPS của vi khuẩn gram (-) chịu trách nhiệm hội chứng viêm
toàn thân hay sốc nhiễm trùng.
Có sự liên quan giữa cấu trúc/họat tính của LPS với các tính chất sinh học
của những phân tử này với hệ thống miễn dịch. Các chuổi đường đa hoạt hoá bổ
thể bằng con đường tắt và mang các quyết định kháng nguyên đích cho đáp ứng
tạo kháng thể. Các đường đa này có thể tương tác với các lectin hoà tan hay ở
màng. Lipid A của LPS hoạt hoá bổ thể bằng con đường cổ điển (C1q) và tương
tác với protein gắn của LPS (LPB) dẫn đến tổng hợp cytokin IL-12, TNF-a, IL-1,
IL-6 và các chemokin ở các tế bào biểu mô và đại thực bào.
Sốc xảy ra tiếp theo đợt giải phóng mảnh mẻ các cytokin bởi nội độc tố. Điển
hình với sốt rất cao, truỵ tim mạch, đông máu rãi rác trong lòng mạch và hoại tử
mạch dẫn đén tình trạng suy sụp toàn thân
3. Quá mẫn với nội độc tố
Shwartzman quan sát mũi tiêm đầu tiên vi khuẩn gram (-) vào da thỏ và mũi
thứ hai vào tĩnh mạch sau 24 giờ, xuất hiện tình trạng hoại tử ở chổ tiêm: đó là
phản ứng Shwartzman. Thêm mũi tiêm sau 24 giờ thì phản ứng suy sụp tuần hoàn
và hoại tử vùng vỏ thận hai bên. Sanarelli cũng có những quan sát như thế này và
từ đó có tên phản ứng Sanarelli - Shwartzman. Có tình trạng hoại tử tuỵ, tuyến

yên, thượng thận, và ruột kèm theo. Diễn tiến DIC và huyết khối.
Các hậu quả này có thể do TNF-a, và IL-1 Tiêm TNF-a ở vị trí có chuẩn bị vi
khuẩn lần đầu thì xuất hiện những hoại tử tương tự. Hiện tượng này giải thích ban
xuất huyết ở trẻ bị nhiễm thương viêm nhạy cảm với các cytokin và sẽ tạo nên
những vị trí hoại tử do cytokin kèm theo nhiễm khuẩn máu do màng não mô cầu.
4. Hiện tượng miễn dịch bệnh lý mạn tính
Nếu phản ứng miễn dịch trung gian tế bào không loại bỏ được tác nhân gây
bệnh, chúng sẽ phát triển mạn tính và tạo nên u hạt với tổ chức xơ và hoại tử.
Robert Koch đã mô tả tiêm vi khuẩn lao hay kháng nguyên vi khuẩn ở con
chuột nhiễm lao sẽ tạo nên hoại tử tại chổ tiêm. Hoại tử là đặc trưng của tổn
thương lao, được giải thích do sự giải phóng cytokin của tế bào T giữa ổ viêm (quá
mẫn chậm).
Hậu quả khác của sự tồn tại vi khuẩn trong ổ viêm là kích thích mạnh mẻ đáp
ứng tạo kháng thể kèm theo sự giải phóng kháng nguyên dẫn đến một lượng lớn
phức hợp kháng nguyên kháng thể tạo thành, có thể lắng đọng ở vách mạch và cầu
thận. Cơ chế miễn dịch bệnh lý giải thích triệu chứng viêm nội tâm mạc nhiễm
trùng và của thể phong củ.
Hội chứng Guillain – Barré là viêm đa rễ thần kinh vận động xảy ra theo vụ
dịch và tiên lượng tốt. Chúng tồn tại sự kết hợp cao (15-40%) giữa người bệnh tử
vong và sự hiện diện của Campylobacter jejuni typ 19 trong phân, bệnh xảy ra sau
một viêm ruột cấp tính. Tìm thấy trong huyết thanh kháng thể chống ganglioside
GM1, có nhiều trên tế bào thần kinh. Mặt khác, bệnh thần kinh ngoại vi tìm thấy ở
người có tự kháng thể chống ganglioside GM1do tăng sinh đơn dòng. LPS của
Campylobacter jejuni typ 19 có cấu trúc tương tự ganglioside GM1, có thể giải
thích lâm sàng của bênh này.
Bệnh khớp thấp cấp là một ví dụ miễn dịch bệnh lý về sự giống nhau của
kháng nguyên này. Protein M của một số typ liên cầu khuẩn Streptococcus
pyogenes phản ứng chéo với myosin và với protein màng của sarcolemne và đáp
ứng chống vi khuẩn dẫn đến sản xuất tự kháng thể.
Mối liên quan giữa nhiễm trùng và bệnh lý viêm mạn tính là một lãnh vực

rộng lớn của ngành miễn dịch bệnh lý: Bệnh Lyme (Borrelia burgdorferi),
Spondylarthrite ankylosant (Klebsiella pneumoniae), loét tiêu hoá và Helicobacter
pylori
VI. Nhiễm trùng cơ hội
Nhiễm trùng cơ hội là nhiễm trùng ở người suy giảm miễn dịch. Những
nhiễm trùng xảy ra khác với nhiễm trùng ở người có hệ thống miễn dịch bình
thường bởi loại vi sinh vật, triệu chứng và vị trí tổ chức. Tham gia có vi khuẩn, ký
sinh trùng và vi rút vô hại với người bình thường (như Apergillose,
Toxoplasmose, cryptococcose, cryptosporidiose.v.v.) hay bởi các vi sinh vật sống
ở trong môi trường mà vai trò bệnh lý chỉ xảy ra đối với người suy giảm miễn dịch
(Pneumocytis carinii, Candida albicans, Staphylococcus epidermidis.v.v.). Nhiễm
trùng cơ hội cũng có thể xảy ra với những vi sinh vật (exogen) không có độc tố trừ
khi chúng xâm nhập nhiều (Legionella pneumophilia, Listeria monocytogenes)
Nhiễm trùng cơ hội càng ngày càng được quan tâm với sức khoẻ cộng đồng
do tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS gia tăng hoặc thứ phát sau các biện pháp điều trị như
phẫu thuật, ung thư, bệnh máu ác tính, ghép, thuốc ức chế miễn dịch.v.v.).

×