Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

sự lựa chọn việc làm thêm của sinh viên năm 3 trường đại học kinh tế tp hcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.92 KB, 36 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH.
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BO CO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đề tài: “ Sự lựa chọn việc làm thêm
của sinh viên năm 3
trường Đại học Kinh tế TP HCM.”
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Phương Nam
Sinh viên thực hiện :
Đặng Trần Vũ Linh
Hồ Vũ My My
Hồ Hữu Phát
Nguyễn Thị Trúc Thảo
Đỗ Thị Ngọc Trang
Lê Hiếu Vân
TP Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2011
Tóm tắt
Ngày nay, đi làm thêm không còn trở nên xa lạ với các bạn sinh viên. Hầu như
tất cả sinh viên đều muốn đi làm thêm với nhiều những lí do khác nhau. Các công
việc làm thêm đã và đang càng ngày càng đa dạng hơn, phong phú hơn đáp ứng nhu
cầu tìm việc của các bạn sinh viên. Sinh viên trường Đại học Kinh tế TP HCM cũng
không nằm ngoài số đó. Hầu như các bạn sinh viên trong trường đều ít nhất một lần
từng đi làm thêm. Sinh viên năm 3 thì nhu cầu làm thêm càng tăng cao, sắp ra trường
ai cũng cần có cho mình những kinh nghiệm, cùng với 2 năm học đã qua, các bạn đã
tích lũy thêm được nhiều kiến thức và ai cũng muốn tiếp xúc với môi trường rộng hơn
chứ không chỉ đơn thuần là tiếp thu kiến thức trên lớp. Thế nhưng hiện nay, xã hội
ngày càng hiện đại càng có rất nhiều những công việc làm thêm khác nhau và các bạn
sẽ đứng trước rất nhiều sự lựa chọn: làm công việc gì và làm nó như thế nào? Phần
lớn các bạn sinh viên thích làm những công việc gì và tại sao? Đề tài này được làm
với mục đích làm rõ thêm những sự lựa chọn việc làm thêm của các bạn sinh viên


năm 3 trường Đại học Kinh tế TP HCM, nhằm giúp các bạn có thêm một cái nhìn về
thực tế hiện tại để từ đó có những chọn lựa công việc phù hợp với bản thân.
Phương pháp nghiên cứu: nhóm sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng
và mô tả là chủ yếu, đồng thời có kèm theo là những phương pháp nghiên cứu khám
phá và nhân quả để làm rõ hơn về vấn đề nghiên cứu. Bảng câu hỏi được thiết kế dựa
trên phương pháp nghiên cứu nhân quả, kết quả thu được ở dạng định lượng, để có thể
nắm được những con số quan trọng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc lựa
chọn công việc của sinh viên. Các kết quả thu được đều ở dạng định lượng nhằm biết
được chính xác con số, tỉ lệ ảnh hưởng của yếu tố như thế nào đến việc lựa chọn, có
được số liệu cụ thể để so sánh mức độ ảnh hưởng của những yếu tố khác nhau, yếu tố
nào ảnh hưởng nhiều và nhiều hơn bao nhiêu lần, hay bao nhiêu phần trăm, biết được
số lượng sinh viên thích làm công việc nào, công việc này sinh viên tham gia nhiều
hơn công việc kia là bao nhiêu người,… Chính vì vậy mà phương pháp nghiên cứu
định lượng là cần thiết trong đề tài này hơn là việc sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính.
Kết quả nghiên cứu: qua một cuộc khảo sát nhỏ với 18 câu hỏi trong bảng
khảo sát và đối tượng là các bạn sinh viên năm 3 trường Đại học Kinh tế TP HCM,
nhóm đã thu được những kết quả đáng chú ý. Có 40% sinh viên nữ và 60% sinh viên
nam tham gia trả lời bảng khảo sát, trong đó có 36% sinh viên thuộc khối ngành Quản
trị kinh doanh, 16% sinh viên thuộc khối ngành Kế toán – Kiểm toán, sinh viên thuộc
khối ngành Thương mại – Du lịch – Marketing chiếm 13%, khối ngành Tài chính –
Ngân hàng chiếm 8% và còn lại 27% sinh viên thuộc các khối ngành khác của trường.
Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn những công việc mà các sinh viên năm ba đã từng
làm nhiều nhất là nhân viên bán hàng, nhân viên nghiên cứu thị trường và phát tờ rơi,
ít tham gia nhất là công việc tự kinh doanh đồng thời lí do chủ yếu mà các sinh viên
năm 3 đi làm thêm là để có thêm kinh nghiệm học hỏi và thời gian làm việc phù hợp
với thời gian học, chính hai lí do quan trọng này mà các bạn sinh viên mới chọn
những công việc dễ làm không cần có nhiều kinh nghiệm làm thêm trước đó, cũng
như những công việc này chủ yếu không tốn nhiều thời gian để làm ảnh hưởng đến
công việc học của sinh viên. Kết quả khảo sát cũng cho thấy phần lớn các sinh viên

cho rằng sinh viên năm ba cần đi làm thêm, cũng như đây là thời điểm thích hợp nhất
trong bốn năm học đại học để đi làm thêm. Về mức lương các sinh viên chủ yếu nhận
được là trong khoảng từ 800.000- 2000.000đ, những công việc các sinh viên làm chủ
yếu là để có thêm kinh nghiệm, để có kiến thức bên ngoài để học tốt hơn, nên các sinh
viên chủ yếu làm những công việc đơn giản, vì vậy mà mức lương của các sinh viên
chỉ ở mức trung bình thấp, chứ chưa cao. Về phương tiện tìm việc, đa số các bạn
thông qua người thân hoặc bạn bè giới thiệu, một số ít tận dụng đến internet và rất ít
tìm việc qua tờ rơi.
Tóm lại, đề tài được thực hiện với mục đích giúp cho các bạn sinh viên nói
chung và nhất là các bạn sinh viên năm 3 trường Đại học Kinh tế TP HCM nói riêng
có thêm cái nhìn về thực tế nhu cầu làm thêm hiện nay. Các kết quả nghiên cứu đã
giúp các bạn sinh viên có thể thấy rõ hơn thực trạng đó, để từ đó có những quyết định
đúng đắn cho sự lựa chọn việc làm thêm của bản thân.
Mục lục
1.Giới thiệu 7
2.Phương pháp nghiên cứu 8
3.Kết quả nghiên cứu 10
4.Kết luận 26
27
Nội dung nghiên cứu
1. Giới thiệu
Ngày nay, nhu cầu đi làm thêm của sinh viên đang ngày gia tăng và chiếm một phần
quan tâm lớn của các bạn sinh viên nói chung cũng như của các bạn sinh viên trường
Đại học Kinh tế TP HCM nói riêng. Đặc biệt là sinh viên năm 3 sắp chuẩn bị ra
trường, sắp bước vào một môi trường lớn đầy sự cạnh tranh thì nhu cầu đi làm thêm
lại càng quan trọng. Làm thêm có nhiều lợi ích không thể phủ nhận. Nó góp phần tăng
thêm thu nhập cho sinh viên, giúp sinh viên có thêm nguồn tài chính phụ giúp việc
học và các sinh hoạt khác. Đi làm giúp sinh viên tiếp xúc với môi trường mới, từ đó
tăng thêm sự tự tin, trưởng thành ở sinh viên. Bên cạnh đó, làm thêm giúp các bạn
sinh viên có thể vận dụng kiến thức học ở trường vào công việc đồng thời học hỏi,

tích lũy thêm những kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức mà nhà trường chưa trang bị.
Đặc biệt nếu kiếm được một công việc tốt, phù hợp với chuyên ngành đang học thì
công việc đó là môi trường để các bạn sinh viên thử sức và tự trang bị thêm, hoàn
thiện hơn những kiến thức còn thiếu.
Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích thiết thực của đi làm thêm đối với sinh viên thì
cũng còn nhiều khó khăn liên quan đến vấn đề làm thêm. Một trong những khó khăn
đó là lựa chọn công việc làm thêm. Hiện nay, những công việc làm thêm bán thời gian
dành cho sinh viên cực kì đa dạng, đủ công việc, đủ ngành nghề Các bạn sinh
viên,cụ thể là sinh viên năm 3 Trường Đại học Kinh tế TP HCM rất boăn khoăn mỗi
khi muốn tìm cho mình một công việc làm thêm phù hợp. Phần lớn sinh viên thích
làm những công việc như thế nào? Yếu tố chính ảnh hưởng đến chọn lựa việc làm
thêm của sinh viên là gì? Để trả lời những câu hỏi ấy, nhóm đã làm nghiên cứu với đề
tài:” SỰ LỰA CHỌN VIỆC LÀM THÊM CỦA SINH VIÊN NĂM 3 TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ TPHCM.”
Trang 7
Phạm vi nghiên cứu: sinh viên năm 3 hệ chính quy trường Đại học Kinh tế TP HCM,
cụ thể là những bạn đã từng đi làm thêm.
Cơ sở thực hiện: dựa trên phương pháp nghiên cứu định lượng, bảng câu hỏi gồm 18
câu hỏi với 120 bạn sinh viên được khảo sát, kết quả đã thu được những số liệu cụ thể
về sự lựa chọn việc làm thêm của sinh viên.
Mục tiêu:
- Giúp các bạn sinh viên có thêm những thông tin hữu ích trong chọn lựa công
việc làm thêm như công việc thu hút nhiều sinh viên nhất, mức tiền lương thích hợp
với sinh viên, giờ làm có phù hợp với bản thân không, làm thêm có ảnh hưởng đến
học tập, tìm việc làm thêm qua phương tiện gì là đáng tin cậy?
- Giúp các nhà tuyển dụng biết thêm những nhu cầu, những mong muốn của các
bạn sinh viên để từ đó có những công việc phù hợp hơn với sinh viên.
2. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài: “ Sự lựa chọn việc làm thêm của sinh viên năm 3 Trường Đại học Kinh
Tế TP. HCM.”, nhóm sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và mô tả là chủ

yếu, đồng thời có kèm theo là những phương pháp nghiên cứu khám phá và nhân quả
để làm rõ hơn về vấn đề nghiên cứu.
Có thể mỗi sinh viên đều có nhu cầu đi làm thêm khi còn đang học trên ghế nhà
trường, tuy nhiên công việc làm thêm thì đa dạng phong phú rất nhiều sự lựa chọn cho
sinh viên, có những sinh viên yêu thích công việc này lại chê công việc khác, vậy lí
do nào dẫn đến sự khác nhau cơ bản như vậy? Như vậy vấn đề đặt ra là không cần
phải khám phá ra nhu cầu sinh viên có muốn đi làm thêm hay không mà là tìm hiểu về
Trang 8
những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc lựa chọn công việc làm thêm của sinh viên,
nên bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên phương pháp nghiên cứu nhân quả, kết quả
thu được ở dạng định lượng, để có thể nắm được những con số quan trọng và mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đến việc lựa chọn công việc của sinh viên.
Mục đích của đề tài là biết được những yếu tố là chi phối việc lựa chọn công việc
làm thêm của sinh viên, hay đúng hơn là tìm nguyên nhân để biết được tại sao lại có
sự lựa chọn như vậy ở sinh viên. Chính vì vậy bảng câu hỏi được thiết kế theo phương
pháp nghiên cứu nhân quả, từ những yếu tố ảnh hưởng như ngành mà sinh viên đang
tham gia học, mục đích của việc làm thêm,thời gian sinh viên có thể bỏ ra để làm
thêm, mức lương mà sinh viên có thể hài lòng hay mức độ đồng ý với một số vấn đề
có thể xảy ra khi làm thêm,… Đó là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến kết
quả là việc lựa chọn công việc làm thêm của sinh viên, cũng lí giải được tại sao lại có
sự khác nhau về những công việc mà sinh viên đã làm, đang làm và mong muốn làm
sau này.
Để nắm rõ hơn về tầm ảnh hưởng của các yếu tố đến việc lựa chọn công việc của
sinh viên, các kết quả thu được đều ở dạng định lượng nhằm biết được chính xác con
số, tỉ lệ ảnh hưởng của yếu tố như thế nào đến việc lựa chọn. Cũng như để có con số
để so sánh mức độ ảnh hưởng của những yếu tố khác nhau, yếu tố nào ảnh hưởng
nhiều và nhiều hơn bao nhiêu lần, hay bao nhiêu phần trăm. Cũng như biết được số
lượng sinh viên thích làm công việc này, công việc này sinh viên tham gia nhiều hơn
công việc kia là bao nhiêu người,…. Chính vì vậy mà phương pháp nghiên cứu định
lượng là cần thiết trong đề tài này hơn là việc sử dụng phương pháp nghiên cứu định

tính.
Tóm lại việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu sao cho phù hợp với mục đích của
đề tài nghiên cứu là rất quan trọng, nó giúp cho kết quả cuộc nghiên cứu được đảm
bảo, đông thời tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cuộc nghiên cứu.
Trang 9
3. Kết quả nghiên cứu
a. Mẫu nghiên cứu
Trong tổng mẫu nghiên cứu là những sinh viên năm 3 của trường Đại học Kinh Tế
TP. HCM, số sinh viên nữ chiếm 40% và số sinh viên nam là chiếm 60% trên tổng số.
Trang 10
Trong tất cả những sinh viên năm 3 của trường Đại Học Kinh Tế TP. HCM thì chiếm
nhiều nhất là sinh viên thuộc khối ngành Quản trị kinh doanh chiếm 36% trên tổng số
sinh viên được khảo sát; tiếp sau đó là sinh viên thuộc khối ngành Kế toán- Kiểm
toán, chiếm 16%; số sinh viên thuộc khối ngành Thương mại- Du lịch- Marketing
chiếm 13% trên tổng số sinh viên; chiếm 8% là số sinh viên thuộc khối ngành Tài
chính- Ngân hàng; ngoài ra, có 27% số sinh viên là thuộc một số ngành khác của
trường.
b. Những công việc sinh viên đã từng làm
Sau khi khảo sát, có 159 lựa chọn về công việc đã làm thêm của sinh viên năm
ba trường Đại học Kinh Tế TP. HCM, kết quả như sau: công việc sinh viên đã từng
làm nhiều nhất là Nhân viên bán hàng, với 30 lựa chọn; tiếp sau đó là Nhân viên
nghiên cứu thị trường với 27 lựa chọn mà sinh viên đã từng đi làm; có 20 lựa chọn
của sinh viên về công việc Gia sư; 19 lựa chọn về công việc Phát tờ rơi; với công việc
Phục vụ có 14 lựa chọn; 11 lựa chọn của sinh viên về đã tham gia làm Tiếp thị; và
chiếm số lượng ít nhất là công việc Tự kinh doanh với 8 lựa chọn đã tham gia; ngoài
ra có 20 lựa chọn của sinh viên đã tham gia vào một số công việc làm thêm khác.
c. Lí do chọn công việc
Trang 11
Trong câu hỏi về lí do chọn công việc làm thêm ở hiện tại của sinh viên, có
171 lựa chọn ở 7 lí do khác nhau: chiếm số lượng nhiều nhất là lí do Có thêm cơ hội

học hỏi với 42 lựa chọn từ sinh viên; ngay sau đó là lí do Thời gian phù hợp với 41
lựa chọn; lí do có số lượng lựa chọn nhiều thứ ba là Lương cao với 28 lựa chọn; thứ
tư là Thích mội trường làm việc hiện tại với 18 lựa chọn; lí do có số lượng lựa chọn ít
nhất là Chính sách hấp dẫn với 6 lựa chọn; ngoài ra có 12 lựa chọn là những lí do
khác nữa để làm công việc hiện tại.
Trang 12
d. Mục đích của việc làm thêm
Trong câu hỏi để biết về mục đích đi làm thêm của sinh viên năm ba trường
Đại học Kinh Tế TP. HCM, có 4 mục đích được đưa ra để sinh viên lựa chọn, thì
chiếm số lượng nhiều nhất là mục đích Tìm kiếm kinh nghiệm làm việc thực tiễn với
58 lựa chọn; ở vị trí được lựa chọn nhiều thứ hai là mục đích Kiếm tiền trang trải học
phí với 42 sự lựa chọn; cũng có 7 lựa chọn về mục đích làm thêm là do Theo phong
trào theo bạn bè; ngoài ra có 12 lựa chọn là những mục đích khác nữa để sinh viên đi
làm thêm.
Trang 13
e. Sinh viên năm ba có cần đi làm thêm
Khi được hỏi về sinh viên năm ba có cần đi làm thêm không thì có đến 88%
trong tổng số sinh viên được khảo sát đồng ý là cần đi làm thêm; trong khi đó có 12%
cho rằng không cần đi làm thêm trong giai đoạn này.
Trang 14
f. Sự khác biệt trong quyết định làm thêm của sinh viên năm ba so với
các sinh viên năm nhất, năm hai và năm cuối
Khi được hỏi về: “ Có hay không sự khác biệt trong lựa chọn việc làm thêm
của sinh viên năm ba so với năm nhất năm hai và năm cuối?”. Thì câu trả lời là “ Có”
chiếm đến 78% trên tổng số lượng sinh viên được hỏi; và có 22% cho là không có sự
khác biệt giữa các năm về việc lựa chọn việc làm thêm.
Trang 15
g. Thời điểm thích hợp để đi làm thêm
Trong câu yêu cầu những sinh viên được khảo sát phải cho điểm trên thang
điểm 100 về Thời điểm thích hợp nhất để đi làm thêm trong 4 năm học Đại học, thu

một số kết quả: đạt tổng số điểm cao nhất 2755 điểm là ở Năm 3, tiếp theo với tổng
điểm là 2480 điểm ở năm 2, năm 1 có tổng điểm cao thứ ba với 1950 điểm và cuối
cùng là năm 4 với tổng điểm là 1105 điểm.
Trang 16
h. Mức lương
Trong câu hỏi về mức lương mà các sinh viên nhận được khi đi làm thêm hiện
nay, có được một số kết quả: mức lương mà phần lớn các sinh viên nhận được là từ
800.000- 1.000.000đ chiếm 39% trong tổng số sinh viên được khảo sát; mức lương
tiếp theo mà các sinh viên nhận được là từ 1.000.000- 2.000.000đ, chiếm 31% trên
tổng sự lựa chọn; thứ ba là mức lương từ 200.000- 800.000đ, chiếm 19% sự lựa chọn
của sinh viên; 7% sự lựa chọn trên tổng sinh viên được khảo sát đã lựa chọn mức
lương nhỏ hơn 200.000đ; và cuối cùng là mức lương lớn hơn 200.000đ, chiếm 4% sự
lựa chọn của sinh viên.
Trang 17
i. Mức độ hài lòng
Trong câu hỏi về mức độ đồng ý của sinh viên năm ba đối với một số vấn đề
trong công việc làm thêm với mức thang điểm từ 1 đến 5, có được một số kết quả sau:
về vấn đề sinh viên năm ba có nên đi làm thêm, thì mức điểm trung bình đồng ý cho
vấn đề này là 3.4 trên thang điểm là 5; về vấn đề sinh viên dễ bị lừa khi đi làm thêm,
có mức điểm trung bình là 3.37 điểm; 2.54 điểm là điểm trung bình cho vấn đề sinh
viên có mún tiếp tục công việc hiện tại; 3.1 điểm là điểm trung bình cho yếu tố công
việc làm thêm hỗ trợ nhiều cho việc học của sinh viên; về vấn đề công việc làm thêm
làm kết quả học tập của sinh viên giảm sút được sự đồng ý của sinh viên ở mức điểm
trung bình là 2.94 điểm; vấn đề công việc làm thêm mang lại nhiều kinh nghiệm cho
sinh viên thì có mức điểm trung bình là 3.58 điểm; cuối cùng là 3.37 điểm trên thang
điểm 5 dành cho yếu tố sinh viên có yêu thích công việc hiện tại của họ. Nhìn chung
các vấn đề đều được sinh viên cho điểm ở mức là đồng ý trung bình.
j. Sự hài lòng với công việc làm thêm
Trang 18
Để đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên ở một số vấn đề, với câu hỏi 14

trong bảng câu hỏi, với mức thang điểm từ 1 đến 5 điểm, có được mức điểm trung
bình ở các vấn đề như sau: Sự hài lòng về giao tiếp xã hội có mức điểm trung bình là
3.81 điểm; về mức độ hài lòng đối với sự đối xử của công ty có mức điểm trung bình
là 3.33 điểm; 3.31 điểm là điểm trung bình mà sinh viên hài lòng về thời gian làm
việc; 3.59 điểm là mức điểm trung bình đánh giá sự hài lòng về kinh nghiệm có được
của sinh viên khi đi làm thêm; về vấn đề hài lòng về chính sách của công ty đối với
nhân viên thì có số điểm trung bình mà sinh viên đánh giá là 3.24 điểm; cuối cùng là
sự hài lòng về tiền lương thì có số điểm trung bình trên thang điểm 5 là 3.4 điểm.
Phần lớn sinh viên khá hài lòng với công việc cũng như những yếu tố mà sinh viên
nhận được về kiến thức, lương, kinh nghiệm sau khi đi làm thêm.
Trang 19
k. Thời gian làm việc
Cũng với mức thang điểm từ 1 đến 5 khi hỏi về thời gian mà sinh viên cho là
thích hợp nhất khi đi làm thêm ở 4 lựa chọn về thời gian, thì mức điểm trung bình mà
các bạn sinh viên cho đối với từng khu vực thời gian là: Với thời gian làm việc là 3
buổi một tuần có mức điểm trung bình là 3.48 điểm; thời gian làm việc linh động
được có mức điểm trung bình cao nhất là 4.11 điểm ở thang điểm 5; và thấp nhất là
2.71 điểm cho giờ làm việc theo ca, ngày nào cũng làm; cuối cùng là giờ làm việc
theo thời vụ có mức điểm trung bình là 3.41 điểm. Như vậy phần lớn các sinh viên
năm ba thích giờ làm việc linh hoạt, và hài lòng lắm khi ngày nào cũng phải đi làm
thêm.
Trang 20
l. Công việc ưa thích
Với mức thang điểm từ 0 đến 4 điểm dành cho những công việc làm thêm mà
các sinh viên cảm thấy thích làm, có được kết quả sau: công việc các sinh viên thích
làm nhất là bán hàng, với mức điểm trung bình mà sinh viên cho là 3.4 điểm; tiếp sau
đó là công việc gia sư và công việc tiếp thị với mức điểm trung bình gần bằng nhau là
3.15 điểm; sau đó là công việc phục vụ nhà hàng quán ăn với mức điểm trung bình là
2.9 điểm; và cuối cùng là công việc phát tờ rơi với mức điểm trung bình trên thang
điểm 4 là 2.35 điểm.

Trang 21
m. Công việc phù hợp với sinh viên năm ba
Với câu hỏi về lựa chọn công việc phù hợp với sinh viên năm ba nhất, với 8
công việc được nêu ra, thu được kết quả như sau: Công việc mà sinh viên cho là phù
hợp nhất mà sinh viên năm ba nên làm là Nhân viên bán hàng, chiếm 22% tổng số
sinh viên được khảo sát; công việc phù hợp thứ hai theo ý kiến của sinh viên là Nhân
viên nghiên cứu thị trường, với 19% tổng sinh viên được khảo sát; chiếm 16% tổng
sinh viên lựa chọn là công việc Tự kinh doanh; tiếp theo là công việc Tiếp thị với
13% tổng sinh viên lựa chọn; công việc Gia sư có 11% sinh viên lựa chọn cho là phù
hợp với sinh viên năm ba; chiếm 5% sinh viên lựa chọn là công việc Phục vụ, cũng
chiếm 5% sinh viên lựa chọn là công việc PG/ PB; và chiếm tỉ lệ nhỏ nhất trong tổng
sinh viên được khảo sát chọn là công việc Phát tờ rơi với tỉ lệ là 3%; ngoài ra có 6%
trong tổng sinh viên có sự lựa chọn là những công việc khác những công việc đã nêu
ra.
n. Phương tiện tìm kiếm việc làm thêm
Trang 22
Kết quả thu được từ câu hỏi về việc lựa chọn phương tiện để tìm kiếm công
việc làm thêm của sinh viên năm ba của Trường Đại học Kinh Tế TP. HCM như sau:
phương tiện được lựa chọn nhiều nhất là thông qua Bạn bè người thân giới thiệu, với
66 sự lựa chọn của sinh viên; phương tiện được sinh viên sử dụng nhiều thứ hai là qua
Internet với 52 sự lựa chọn; Báo chí là sự lựa chọn nhiều thứ ba của sinh viên năm ba
khi tìm kiếm việc làm thêm với 31 sự lựa chọn; 16 sự lựa chọn dành cho phương tiện
là Tờ rơi; và chiếm ít sự lựa chọn nhất là phương tiện truyền hình với 1 sự lựa chọn;
ngoài những phương tiện được nêu ra, có 2 sự lựa chọn của sinh viên cho là có sử
dụng những phương tiện khác nữa.
Tổng quát kết quả nghiên cứu
Qua 18 câu hỏi trong bảng khảo sát, đã thu được 18 biểu đồ về những vấn đề
xoay quanh đề tài: “Sự lựa chọn việc làm thêm của sinh viên năm ba Trường Đại học
Kinh tế TP. HCM.” Những vấn đề như là công việc làm thêm mà sinh viên đang làm,
công việc làm thêm nào là phù hợp với sinh viên năm ba nhất, những yếu tố ảnh

Trang 23
hưởng đến việc lựa chọn việc làm thêm, mục đích của đi làm thêm là gì, cũng như
năm ba trong bốn năm học đại học có phải là thời gian phù hợp để đi làm thêm, so
sánh thời điểm phù hợp để đi làm thêm trong bốn năm học Đại học, mức lương mà
sinh viên đã nhận khi tham gia đi làm thêm, sự hài lòng của sinh viên đối với một số
yếu tố khi đi làm, và những phương tiện chủ yếu mà sinh viên đã lựa chọn để tìm
kiếm việc làm thêm. Từ 18 biểu đồ đó, có được một số kết quả về những vấn đề cần
nghiên cứu.
Đối tượng được khảo sát chiếm phần lớn là những sinh viên nam, thuộc chủ
yếu khối ngành Quản trị kinh doanh và Thương mại- Du lịch- Marketing. Kết quả
khảo sát cho thấy phần lớn những công việc mà các sinh viên năm ba đã từng làm
nhiều nhất là nhân viên bán hàng, nhân viên nghiên cứu thị trường và phát tờ rơi, ít
tham gia nhất là công việc tự kinh doanh đồng thời lí do chủ yếu mà các sinh viên
năm 3 đi làm thêm là để có thêm kinh nghiệm học hỏi và thời gian làm việc phù hợp
với thời gian học, chính hai lí do quan trọng này mà các bạn sinh viên mới chọn
những công việc dễ làm không cần có nhiều kinh nghiệm làm thêm trước đó, cũng
như những công việc này chủ yếu không tốn nhiều thời gian để làm ảnh hưởng đến
công việc học của sinh viên.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy phần lớn các sinh viên cho rằng sinh viên năm
ba cần đi làm thêm, cũng như đây là thời điểm thích hợp nhất trong bốn năm học đại
học để đi làm thêm. Có sự khác biệt trong việc lựa chọn công việc làm thêm ở các
sinh viên của các năm. Năm ba là thời điểm các siinh viên đã có một khoảng thời gian
dài là 2 năm trước đó để học hỏi, có kiến thức căn bản với những môn chuyên ngành,
cũng như cũng đã hình thành được những yếu tố cần có ngoài công việc học ra, nên
sự lựa chọn công việc sẽ có phần khác cũng như lí do các sinh viên năm ba làm việc
là khác so với những năm còn lại.
Trang 24
Về mức lương các sinh viên chủ yếu nhận được là trong khoảng từ 800.000-
2000.000đ, những công việc các sinh viên làm chủ yếu là để có thêm kinh nghiệm, để
có kiến thức bên ngoài để học tốt hơn, nên các sinh viên chủ yếu làm những công việc

đơn giản, vì vậy mà mức lương của các sinh viên chỉ ở mức trung bình thấp, chứ chưa
cao.
Những công việc mà các sinh viên năm ba thích được làm nhất là nhân viên
bán hàng, nhân viên nghiên cứu thị trường và tự kinh doanh, mặc dù những công việc
mà các sinh viên từng làm thì công việc tự kinh doanh chỉ chiếm một phần rất nhỏ,
nhưng đây lại là công việc các sinh viên mún sẽ làm nhất, có thể nguyên nhân là do
sinh viên của một trường đào tạo về chuyên ngành kinh tế, cũng như đã là những sinh
viên năm ba nên các sinh viên muốn thử sức trong công việc mà phần lớn các bạn
sinh viên Kinh tế muốn làm sau này. Tuy nhiên kết quả khảo sát ở câu hỏi về thời
gian mà các bạn mong muốn khi làm việc các bạn sinh viên lại chủ yếu muốn có thời
gian làm việc linh hoạt, trong khi công việc tự kinh doanh lại chiếm một lượng lớn
thời gian để chuẩn bị và tiến hành. Có lẽ vì vậy mà phần lớn các bạn sinh viên lại
tham gia vào các công việc đơn giản hơn và ít tốn thời gian như bán hàng hoặc làm
gia sư,… Còn công việc tự kinh doanh là công việc các bạn sinh viên thích sẽ làm khi
đã có đủ kinh nghiệm và kiến thức, cũng như thời gian cần thiết.
Cuối cùng là về phương tiện các bạn hay sử dụng để tìm kiếm việc làm thêm
thì chủ yếu là qua bạn bè người thân giới thiệu, có thể vì chưa có kinh nghiệm tìm
việc cũng như sợ bị lừa khi đi làm thêm nên các bạn sinh viên chủ yếu tìm hiểu qua
bạn bè đã từng đi làm và đã biết được về công việc trước đó. Ngoài ra với sự phát
triển của công nghệ thông tin thì Internet cũng là phương tiện hỗ trợ các sinh viên
nhiều trong tìm kiếm công việc.
Trang 25
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã hoàn thành được mục đích của đề tài nghiên cứu, thấy
được tác động của các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc lựa chọn công việc làm thêm
của sinh viên năm 3 Trường Đại học Kinh Tế TP. HCM. Kết quả nghiên cứu một
phần giúp cho sinh viên định hình được những điều mình có thể có được khi đi làm
thêm; giúp những sinh viên chưa từng làm thêm có thể biết được những công việc nào
là phù hợp với bản thân trong giai đoạn này, trong ngành mà mình đang học này;
Cũng giúp sinh viên có thể tự trả lời một số câu hỏi như là: làm thêm có ảnh hưởng

đến công việc học hiện tại hay không, không biết làm công việc này có giúp mình có
kinh nghiệm cho ngành đang học hay không, và nhiều câu hỏi nữa… Đồng thời bảng
báo cáo còn có thể giúp cho những người có nhu cầu tuyển nhân viên làm thêm có sự
lựa chọn đúng đắn khi biết được ngành học, những mong muốn của sinh viên khi đi
làm thêm để có thể tuyển chọn đúng người nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho cả hai
bên tuyển dụng và sinh viên.
Do sự gấp rút về thời gian nên nhóm không thể khảo sát trên tất cả sinh viên
năm 3 của trường Đại học Kinh Tế TP. HCM, tuy nhiên cũng là một lượng mẫu khảo
sát đủ để nói lên được kết quả đáng tin cậy và có thể sử dụng được.
Trang 26

×