Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Giáo trình : PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA TRONG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP XÃ HỘI part 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.52 KB, 12 trang )

Từ khái niệm trên đây về LNXH, có thể nhận thấy rằng: LNXH là các hoạt động liên
quan đến việc huy động mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội tham gia vào bảo vệ tài
nguyên rừng cụ thể như bảo đảm được sự vững bền của sản xuất lâm nghiệp, gia tăng năng
suất rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi chức năng của các lưu vự
c đồng thời phải
đem lại công bằng xã hội, Phát triển con người là vấn đề trung tâm của LNXH. Muốn
bảo vệ được tài nguyên rừng có hiệu quả lâu dài, trước hết phải bảo vệ con người. Do vậy
vấn đề quan tâm đầu tiên của LNXH là phải tìm ra các giải pháp nhằm thoả mãn nhu cầu
đời sống hàng ngày của người dân từ nguồn tài nguyên rừng. Giải quyết bằng được các
nhu cầu này sẽ gắ
n lợi ích sống còn của nhân dân với tài nguyên rừng. Việc gắn lợi ích của
người dân với tài nguyên rừng sẽ là động lực kích thích người dân tham gia vào bảo vệ và
phát triển tài nguyên rừng. Nâng cao đời sống của nhân dân là mục tiêu của LNXH và
người dân chính là chủ thể của mọi hoạt động trong LNXH. Thông qua các hoạt động của
LNXH không những chỉ bảo vệ, phát triển và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên rừng mà
còn bảo vệ đượ
c môi trường sinh thái, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho
người nghèo, tạo ra công bằng xã hội, giảm bớt sự phân hoá giữa người giàu và người
nghèo.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển LNXH, ta thấy sự xuất hiện quan điểm
LNXH trong thập niên 70 xuất phát từ hai nhân tố cơ bản là "Khủng hoảng năng lượng của
người nghèo" và "Sa mạc hoá", người ta tập trung xây dựng những khoảnh rừng làng xã
như là sở hữu công cộng c
ần được quản lý vì lợi ích của cộng đồng địa phương. Cách tiếp
cận này không đem lại thành công như mong muốn vì sự tranh chấp quyền lợi của nhân
dân địa phương và thiếu sự công bằng trong sự tham gia (FAO, 1985).
Các nhà lập kế hoạch chú ý nhiều hơn đến trồng cây do các nông hộ thực hiện. Cách
tiếp cận này cho những hậu quả không như mong muốn về mặt xã hội, người dân nghèo
không có đất thua thi
ệt trong tiếp cận tài nguyên như thời gian trước. Cuối thập niên 80
người ta thừa nhận tiếp cận phục hồi rừng cần phải được mở rộng bằng việc chú ý nhiều


hơn nữa đến các vấn đề quản lý rừng. Do vậy bên cạnh tham gia vào tạo rừng mới, người
dân còn tham gia vào quản lý tài nguyên rừng.
2.2.2. Quan điểm về LNXH
Trong quá trình phát triển, chiến lược của LNXH rất đ
a dạng, mỗi một chiến lược có
những đặc điểm, thế mạnh và giới hạn cụ thể với các mục tiêu quản lý rừng và phát triển
nông thôn khác nhau. Do vậy, có nhiều cách nhìn nhận về LNXH tùy bối cảnh kinh tế xã
hội có những quan điểm khác nhau về LNXH, đó là: một phương thức tiếp cận có sự tham
gia; một lĩnh vực quản lý tài nguyên; một phương thức quản lý tài nguyên.
2.2.2.1. LNXH được coi như là một phương thức tiếp cận có sự tham gia
Trong LNTT việc quản lý tài nguyên rừng chủ yếu là do lực lượng nhà nước đảm
nhận với mục tiêu là theo đuổi lợi ích kinh tế của nhà nước. Với mục tiêu đó việc lập kế
hoạch là theo kiểu từ trên xuống, nghĩa là đưa ra một số chỉ tiêu kế hoạch cần đạt được cho
từng bộ
phận, tiếp theo đó là bằng mọi cách để thực hiện bằng được các chỉ tiêu đó. Với
việc lập kế hoạch như vậy các hoạt động lâm nghiệp chủ yếu chú trọng tới lợi ích kinh tế
mà ít quan tâm tới môi trường và không hoặc rất ít chú ý tới nhu cầu và mối quan tâm của
người dân. Người dân địa phương lúc này chỉ là Người ngoài cuộc, họ hầu như không
tham gia hoặc tham gia một cách th
ụ động vào từng công đoạn của việc quản lý bảo vệ và
phát triển rừng với tư cách là người làm thuê.
Tiêu điểm chủ yếu của LNXH là sự tham gia của các chủ thể địa phương vào việc
quản lý tài nguyên rừng. Các chủ thểđó bao gồm: người dân địa phương.(ởđây bao gồm
các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng và các tổ chức địa phương) và các tổ chức phát triển
khác M
ục tiêu của LNXH là quản lý tài nguyên rừng để gia tăng năng suất rừng, sản xuất
bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, đồng thời để nâng cao đời sống
của người dân địa phương và phát triển cộng đồng địa phương, đem lại công bằng xã hội.
Sự tham gia của người dân địa phương được thể hiện rõ ràng nhất thông qua quyết
định

của họ trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược LNXH, cụ thể là:
Tiếp cận có sự tham gia được thể hiện thông qua các hoạt động được làm bởi nhân
dân địa phương hoặc từ cá nhân, nông hộ và các tổ chức địa phương. Trong các hoạt động
này vai trò của người dân địa phương được đưa lên hàng đầu, người dân là chủ thể của tất
cả các hoạt động. Vai trò c
ủa các nhà lâm nghiệp chỉ là hỗ trợ thúc đẩy người dân để họ tự
đưa được quyết định của chính họ. Có nghĩa là người dân địa phương tham gia một cách
chủ động vào tất cả các hoạt động liên quan đến phát triển lâm nghiệp từ xác định vấn đề,
quyết định chiến lược, quản lý thực hiện, giám sát, đánh giá. Thông qua đó vai trò của
người dân ngày càng được đề cao, nhu cầu cuộc s
ống hàng ngày của họ dần dần được đáp
ứng, người dân ngày càng thấy rõ lợi ích của rừng đối với cuộc sống hàng ngày của họ. Do
đó người dân sẽ tham gia tích cực hơn vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng, khi tặng
được bảo vệ và phát triển thì môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, đời sống của người
dân sẽ ngày càng được cải thiện và nâng cao.
-Tiếp cận có sự
tham gia sẽ được sử dụng xuyên suất tất cả các giai đoạn của một
chương trình hay dự án, bao gồm: nhận biết vấn đề, lựa chọn và quyết định chiến lược, lập
kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá. Như trong chính sách giao đất khoán
rừng, các điều quy định mang ý nghĩa tiếp cận mới được thể hiện: việc nhận đất dự
a trên
yêu cầu và tính tự nguyện của người dân, việc giao đất của các cơ quan chức năng dựa trên
cơ sở thông qua các cuộc họp với chính quyền và họp dân, trong quá trình giao đất đều có
sự tham gia của người dân, Trước khi nhận đất người dân đã chấp nhận sử dụng đúng
mục tiêu theo hợp đồng, sau khi nhận đất họ có quyền quyết định toàn bộ những hoạt động
sả
n xuất trên đất được giao.
-Tiếp cận có tham gia được thể hiện qua những hoạt động của những nhà hoạt động
lâm nghiệp chuyên nghiệp hoặc các tổ chức phát triển nhằm khuyến khích những hoạt
động quản lý rừng được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân địa phương, hoặc làm thích

ứng việc quản lý ở các khu rừng của nhà nước nhằm trực tiếp cải thiện phúc lợi của các
cộng
đồng nông thôn địa phương.
Như vậy, LNXH được xem như là chiến lược của các nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp,
các tổ chức phát triển với mục đích khuyến khích sự tham gia tích cực của nhân dân địa
phương. Đa dạng hoá quản lý rừng như là phương tiện cải thiện điều kiện sống của cộng
đồng, cũng có thể được xem như hoạt động quản lý rừng do nhân dân thực hi
ện như là một
phần trong sinh kế của họ.
2.2.2.2. LNXH được coi như một lĩnh vực quản lý tài nguyên rừng
LNXH được coi như là một lĩnh vực quản lý tài nguyên có nghĩa là LNXH là một
lĩnh vực chuyên môn tách biệt nhằm mục đích giải quyết các vấn đề mà lâm nghiệp truyền
thống không thể tháo gỡ được. Đó là, thứ nhất, nạn phá rừng ngày càng gia tăng ở tất các
nước
đặc biệt là các nước đang phát triển; thứ hai, tài nguyên rừng bị suy thoái có ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái trên toàn cầu (hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm nước và
không khí, ); thứ ba, đời sống của người dân sống ở miền núi và trung du không những
không được cải thiện mà ngày càng giảm sút; thứ tư, sự phân hoá giữa người giàu và
người nghèo ngày càng cao, tỷ lệ người nghèo sống ở vùng núi và trung du ngày càng
nhiều; thứ năm, không huy động đượ
c mọi lực lượng tham gia vào việc quản lý bảo vệ và
phát triển rừng, đặt biệt là lực lượng lao động nông thôn miền núi.
Khi LNXH được coi như là một lĩnh vực quản lý tài nguyên có nghĩa là nó có mục
tiêu riêng, đối tượng tác động riêng, phương thức quản lý riêng và nó tồn tại một cách độc
lập tương đối trong không gian và thời gian. Theo quan điểm này thì LNXH tồn tại song
song với Lâm nghiệp thương mại, Lâm nghiệp bảo tồ
n, thậm chí song song với Lâm
nghiệp và Nông nghiệp.
Mục tiêu của LNXH là nâng cao đời sống của người dân địa phương, tăng cường và
phát triển năng lực cộng đồng dựa trên nguồn tài nguyên của địa phương, bằng cách tạo

điều kiện cho người dân địa phương, đặc biệt là người nghèo tham gia vào quản lý bảo vệ
và phát triển rừng, nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của họ như ch
ất đất, lương thực thực
phẩm, thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh, cảnh quan du lịch, Do vậy mọi hoạt động liên
quán đến LNXH đều quan tâm đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân, gắn lợi ích của
người dân với tài nguyên rừng. Khi nhu cầu và nguyện vọng của người dân được đáp ứng
thì người dân sẽ tham gia chủ động và tích cực hơn vào quản lý bảo vệ và phát triể
n rừng,
thông qua đó tài nguyên rừng sẽ được quản lý bảo vệ và phát triển bền vững lâu dài. Đối
tượng của LNXH là người dân và cộng đồng địa phương, do vậy LNXH không những
nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương mà còn nâng cao, phát triển năng lực và
vai trò của người dân.
2.2.2.3. LNXH là phương thức quản lý tài nguyên rừng
Vì LNXH có mục tiêu và đối tượng khác với LNTT, nên LNXH có phương thức
quản lý cũng khác với phương thức quản lý của Lâm nghiệp truyền thống. Ngoài ra LNXH
còn kết hợp việc quản lý của nhà nước với các tổ chức, người dân và cộng đồng địa
phương.
LNXH quản lý rừng dựa vào đặc trưng của những vùng sinh thái nhân văn khác
nhau, kết hợp giữa kiến th
ức hàn lâm và kiến thức của người dân địa phương (kiến thức
bản địa) và nền văn hoá của các dân tộc khác nhau.
Ví dụ: Phát triển LNXH vùng núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên và đồng bằng Nam bộ
không thể giống nhau vì các vùng này có những đặc điểm sinh thái và nhân văn khác nhau
(các yếu tố tự nhiên và xã hội khác nhau, nền văn hóa khác nhau, tập quán sử dụng tài
nguyên khác nhau, ).
Ngay trong một vùng sinh thái (hay tiểu vùng) đối với các đối tượng rừng khác nhau
có mục đích sử d
ụng khác nhau thì các mục tiêu của hoạt động LNXH cũng khác nhau:
Đối với rừng đặc dụng, hoạt động chủ yếu là huy động người dân tham gia bảo vệ
rừng bằng cách nâng cao nhận thức, chú trọng nhiều hơn các hoạt động giáo dục và tuyên

truyền.
Đối với từng sản xuất, các hoạt động liên quan đến việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái
sinh và làm giàu rừng được quan tâm nhiều hơn, các hoạt động này thường chú ý
đến việc
chuyển giao kỹ thuật, phát triển công nghệ có sự tham gia, người dân được hưởng một số
quyền lợi trực tiếp từ rừng.

LNXH được coi như là một trong những phương thức quản lý tài nguyên có nghĩa là
LNXH là một phương thức quản lý tài nguyên rừng mới và dần dần thay thế cho phương
thức quản lý cũđó là LNTT. LNXH là một phương thức quản lý tài nguyên rừng với hình
thứ
c tiếp cận mới trong đó sự tham gia của người dân là yếu tố cơ bản nhất đó là tiếp cận
lấy người dân làm trung tâm.
LNTT trước đây theo đuổi mục đích kinh tế vì vậy sản phẩm chính của lâm nghiệp là
gỗ, các sản phẩm khác ít được quan tâm hoặc không được quan tâm. Việc quản lý tài
nguyên rừng chỉ do một lực lượng duy nhất quản lý đó là lâm nghiệp nhà nước, kỹ thu
ật
áp dụng chủ yếu là các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, các qui chế trồng, chăm sóc và khai
thác rừng làm sao thu được các sản phẩm gỗ nhiều nhất.
Khác với LNTT, mục tiêu LNXH là đáp ứng nhu cầu của người dân và cộng đồng,
do vậy sản phẩm của LNXH không phải chỉ là gỗ đơn thuần mà LNXH còn trực tiếp sản
xuất ra các sản phẩm khác dựa trên tiềm năng, năng lực và nhu cầu của ng
ười dân địa
phương. Các sản phẩm đó bao gồm chất đất, lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, nước,
cảnh quan du lịch. Vì LNXH đa dạng hoá sản phẩm nên kỹ thuật áp dụng chủ yếu là nông
lâm kết hợp với nhiều ngành tham gia. Ngoài ra, LNXH còn quản lý nguồn tài nguyên
rừng dựa trên từng vùng sinh thái, nhân văn, duy trì, bảo tồn và phát triển các tập tục
truyền thống và bản sắc của các dân tộc, nên khi áp d
ụng tiến bộ khoa học vào các hoạt
động người ta thường quan tâm đến phong tục tập quán, kết hợp với kiến thức và kinh

nghiệm của người dân địa phương.
2.2.3. Phân biệt LNXH và LNTT
Mersserschmidt D.A. (1992) nhận xét, cả LNXH và LNTT đều có tính chất xã hội.
Như nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp nổi tiếng J. Westoby (1987) chỉ rõ, lâm nghiệp
không phải vì cây mà vì người và dẫu cho vì cây đi nữa thì cũng chỉ vì cây đáp ứng các
nhu cầu của con người. Rừng cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗđáp ứng ph
ần lớn nhu cầu
gia đình ở nông thôn miền núi thuộc các nước đang phát triển, kể cả thức ăn bổ sung cho
gia súc. Ở cấp độ địa phương, khai thác gỗ tạo nên công ăn việc làm và thu nhập, chế biến
lâm sản tạo ra việc làm. Điều đó có tác dụng ổn định đối với các cộng đồng nông thôn,
tránh cho họ khỏi phải ly hương để tìm việc làm. Nguồn thu nhập từ
bán củi, than,' các lâm
sản ngoài gỗ (tinh dầu, nấm, mây, dược liệu, ) có ý nghĩa quan trọng đối với người
nghèo. Rừng góp phần vào việc bảo vệ các cộng đồng nông thôn khỏi thiên tai như gió,
bão, lũ lụt, hạn hán. Đất rừng là nguồn dự trữ cho mở rộng sản xuất nông nghiệp khi dân
số gia tăng. Có thể nhận thấy, nhà ở với những kiến trúc đặc trưng, độc đáo ở mi
ền núi
như là dấu ấn văn hóa của rừng đối với các cộng đồng nông thôn. Ở những xã hội còn sơ
khai rừng gắn với tín ngưỡng, với lòng tin của con người vào những lực lượng huyền bí,
rừng còn là nhân tố cơ bản về môi trường và văn hoá của họ. Tuy nhiên, không phải lâm
nghiệp nào cũng là LNXH, làm rõ các sự khác biệt giữa các loại lâm nghiệp là bước đầu
nhận thức về LNXH.
Các công nghệ của LNTT hướng đến việc giải quyết những tương tác giữa rừng và
môi trường để đạt những mục tiêu kinh tế (sản xuất gỗ), có nhấn mạnh đến yêu cầu sinh
thái (bảo vệ môi trường). Quan điểm của L IT cho rằng chức năng chủ yếu của lâm nghiệp
là sản xi.ất gỗ. Đặc trưng của LNTT là độc canh, sản xuất gỗ với quy cách nghiêm ngặ
t,
quá trình sản xuất dài, đầu tư ban đầu cao, thường do nhà nước hay công ty đầu tư với quy
mô lớn, do các nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp điều hành với cách quản lý tập trung và theo
quy định của luật pháp, hoạt động trên diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng rộng lớn.

Trong LNTT việc qui định những chỉ tiêu khai thác gỗ hàng hoá từ rừng mà không
quan tâm đến quyền lợi của các cộng đồng nông thôn sống trong rừng và gần rùng. LNTT
tiến hành qu
ản lý rừng.bằng các chiến lược, chương trình của nhà nước vạch ra mà không
có phần đóng góp của dân. LNTT sử dụng dân như là người làm công ăn lương.
LNXH lại quan tâm đến mối quan hệ giữa con người, rừng và cây gỗ. Do vậy những
hoạt động của nó đều có liên quan với những mục tiêu xã hội, quản lý rừng sao cho có lợi
trực tiếp cho các cộng đồng nông thôn.
Nhiều nhà khoa học trong đó có Wiersum ( 1 994) đã đưa ra những đặc trưng phân
biệt LNXH và LNTT. Người ta không thể không nhấn mạnh đến một đặc trưng cơ bản
nhất là sự tham gia của người dân trong các hoạt động LNXH. Thật không thể tưởng tượng
được, thực hiện LNXH mà lại thiếu sự tham gia của người dân địa phương trong những
quyết định đầy đủ về quản lý tài nguyên rừng và cây gỗ.
Trong LNXH, s
ự chuyển quyền quản lý rừng và cây gỗ cho cộng đồng nông thôn địa
phương là một biểu hiện của phân quyền, huy động mọi nguồn lực của xã hội tham gia vào
việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên cơ sở luật pháp và chính sách đồng thời thông
qua đó nhàm cải thiện các nhu cầu sống của người dân, đặc biệt là người nghèo ở nông
thôn. Đây cũng là một cách thức làm giảm những tác độ
ng tiêu cực của con người đến tài
nguyên rừng.
Những đặc trưng chủ yếu phân biệt giữa LNXH và LNTr ở các nước nhiệt đới được
Wiersum (1994) đưa ra dựa trên vai trò của người quản lý, những đặc trưng kỹ thuật và tổ
chức được trình bày trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Những đặc trưng chủ yếu của LNXH và LNTT ở các nước nhiệt đới



(Nguồn: Wiersum, 1994)
2.3. HỆ THỐNG LUẬT PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT

TRIỂN LNXH
2.3.1. Các luật và chính sách liên quan đến quản lý và phát triển TNR
2.3.1.1. Luật Đất đai
Luật Đất đai được Quốc hội thông qua năm 1988, sửa đổi và bổ sung vào các năm
1993, 1998 và 2004. Nội dung cơ bản của Luật Đất đai liên quan đến tiến trình thực hiện
LNXH như sau:
Điều 5. Sở hữu đất đai
-Đất đai thuộc s
ở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện
quyền định đoạt đối với đất đai như sau:
+ Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử
dụng đất, kế hoạch sử dụng đất;
+ Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử
dụng đất;
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;

+ Định giá đất.
-Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính
sách tài chính về đất đai như sau:
Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuy
ển quyền sử dụng đất;

+ Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất
mang lại.
-Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn
định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Điều 9. Người sử dụng đất
Người sử dụng đất quy định trong Luật này bao gồm:

-Các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chứ
c chính
trị : xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
-nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ
trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ được Nhà nước giao đất
cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nh
ận chuyển quyền sử
dụng đất;
Hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công
nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất;
Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn,
làng, ấp, bản, buôn, phẩm, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán
hoặc có chung dòng họ đượ
c Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất;
-Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo
riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà
nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất;
-Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính
phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc
tổ chức liên Chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên Chính phủ được Nhà nước Việt
Nam cho thuê đất;
-Người Việt Nam định cưở nước ngoài về đầu tư, hoạt
động văn hoá, hoạt động khoa
học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam giao đất,
cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở;
-Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo phép luật về đầu tư
được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Điều 10. Những bảo đảm cho người sử
dụng đất
-Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.

Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của nhà
nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam và Nhà nước Cộng hoà xã h
ội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối có đất để sản xuất; đồng thời có chính sách ưu đãi
đầu tưđào tạo nghề, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho lao động ở nông

thôn phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Điều 13. Phân loại đất
Căn cứ vào mục đích sử dụng, đất đai được phân loại như sau:
Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
+ Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chă
n nuôi, đất trồng
cây hàng năm khác;
Đất trồng cây lâu năm;
Đất rừng sản xuất;
Đất rừng phòng hộ;
Đất rừng đặc dụng;
Đất nuôi trồng thuỷ sản;
Đất làm muối;
Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ;
-Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất:
Đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị;

Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp;
Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
+ Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp;

đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng
sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm;
+ Đất sử dụng vào mụ
c đích công cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng
các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công
cộng; đất có di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình
công cộng khác theo quy định của Chính phủ;
Đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;
Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;
Đất làm nghĩa trang, ngh
ĩa địa;
Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
Đất phi nóng nghiệp khác theo quy định của Chính phủ;

-Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng.
2.3.1.2. Luật bảo vệ và phát triển rừng
Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua năm 1991 và sửa đổi năm
2004. Một số nội dung bên quan đến các hoạ
t động LNXH như sau:
Điều 4. Phân loại rừng
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng được phân thành ba loại sau đây: -Rừng
phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn,
chống sa mạc hoá, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường,
bao gồm:

Rừng phòng hộ đầu nguồn;
Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay;
Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển;
Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường;


-Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh
thái rừng của quốc gia, nguồn tiền sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích
lịch s
ử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ,
góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
+ Vườn quốc gia;
Khu bảo tồn thiên nhiên gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh;
Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh;

+ Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;
Rừng sản xuất
được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm sản ngoài gỗ
và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
Rừng sản xuất là rừng tự nhiên;
Rừng sản xuất là rừng trồng;
Rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình tuyển, công nhận; Điều 5.
Chủ rừng

-Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban qu
ản lý rừng đặc dụng được Nhà nước giao rừng,
giao đất để phát triển rừng.
Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để
phát triển rừng hoặc công nhận quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng
trồng, nhận chuyển quyền sử dụng rừng, nhận chuyển quyền sở hữu rừ
ng sản xuất là rừng
trồng.
Hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất
cho thuê đất để phát triển rừng hoặc công nhận quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng
sản xuất là rừng trồng, nhận quyền sử dụng rừng, nhận chuyển quyền sở hữu rừng sản xuất
là rừng trồng.

Đơn vị vũ
trang nhân dân được Nhà nước giao rừng, giao đất để phát triển rừng.
-Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm
nghiệp được Nhà nước giao rừng, giao đất để phát triển rừng.
Người việt nam định cưở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được Nhà nước giao rừng,
giao đất, cho thuê đất để phát triển rừng.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được Nhà nước cho thuê rừng, cho
thuê đất để phát triển rừng.
Điều 37. Trách nhiệm của chủ rừng
-Chủ rừng có trách nhiệm bảo vệ rừng của mình; xây dựng và thực hiện phươ
ng án,
biện pháp bảo vệ hệ sinh thái rừng; phòng chống chặt phá rừng; phòng chống săn, bắt, bày
động vật rừng trái phép; phòng cháy, chữa cháy rừng; phòng trừ sinh vật gây hại rừng theo
quy định của Luật này, pháp luật về đất đai, pháp luật về phòng cháy chữa cháy, pháp luật
về bảo vệ và kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Chủ rừng không thực hiện các quy đị
nh trên mà để mất rừng được Nhà nước giao,
cho thuê thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Điều 59. Quyền chung
của chủ rừng
Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng rừng, quyền sở
hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
Được sử dụng rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng
và thời hạn giao đất, cho thuê đất.
Được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp kết hợp theo quy chế quản lý
rừng, trừ rừng đặc dụng.
Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích được giao, được thuê,
bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác.
Được nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái -
môi trường theo dự án

được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan khi Nhà nước
có quyết định thu hồi rừng.
Được hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nước để bảo vệ và
phát triển rừng và được h
ưởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ cải tạo rừng
mang lại.

-Được Nhà nước bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp đối với rừng được giao, được
thuê. Điều 60. Nghĩa vụ chung của chủ rừng
-Bảo toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững; sử dụng rừng đúng mục đích, đúng
ranh giới đã quy định trong trong quyết định giao, cho thuê r
ừng và theo quy chế quản lý
rừng.
-Tổ chức bảo vệ và phát triển rừng theo quy hoạch, kế hoạch, dự án, phương án đã
được phê duyệt.
-Định kỳ báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên rừng và
các hoạt động liên quan đến khu rừng theo quy định tại Điều 32 của Luật này.
-Giao lại rừng khi Nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử
dụng rừng.
-Thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
-Thực hiện quy định của Luậ
t này và các quy định khác của pháp luật; không làm tổn
hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2.3.1.3. Các chính sách khác
Ngoài hai luật chính nói trên, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến
quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên:
-Chỉ thị số 38/2005/CT - TTg, ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất).

Quyết định số 40/2005/Q
Đ - BNN, ngày 07 tháng 07 năm 2005 của Bộ NN &
PTNT về việc ban hành Quy chế về khai thác gỗ và lâm sản.
Quyết định số 62/2005/QĐ - BNN, ngày 12 tháng 10 năm 2005 của Bộ NN &
IyrNT về việc ban hành Bản quy định tạm thời về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng.

-Nghị định 169/1999/NĐ - CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính
phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổ
n
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
-Quyết định số 186/2006/QĐ - TTg, ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng.
-Thông tư số 56/1999/Tr/BNN - KL, ngày 30 tháng 03 năm 1999 của Bộ NN &
PTNT về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư
thôn, làng, buôn, bản, ấp.
Chỉ thị số 12/2003/CT - TTg, ngày 16 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ
về vi
ệc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng.
-Quyết định số 258/2006/QĐ - TTg ngày 09 tháng 11 năm 2006 về việc phê duyệt
chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng giai đoạn 2006 -
2010 (chu kỳ IV).
-Nghị định số 1 39/2004[NĐ - CP ngày 25 tháng 06 năm 2004 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng bảo vệ rừng và quản lý lâm sả
n.
Quyết định số l06/2006/QĐ - BNN ngày 27 tháng 11 năm 2006 về việc ban hành
bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư nông thôn.
Quyết định số 304/2005/QĐ - TTg, ngày 23 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng
trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗở các tỉnh Tây Nguyên.


×