ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PGS.TS. ĐẶNG KIM VUI (Chủ biên) TS. LÊ SỸ TRUNG - ThS. NGUYỄN VĂN MẠN
- ThS. ĐẶNG THỊ THU HÀ
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA TRONG PHÁT
TRIỂN LÂM NGHIỆP XÃ HỘI
(SÁCH CHUYÊN KHẢO DÙNG CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH LÂM NGHIỆP, QUẢN LÝ
BẢO VỆ RỪNG VÀ NÔNG LÂM KẾT HỢP)
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1991 Ngành Lâm nghiệp Việt Nam đang từng bước đổi mới từ lâm nghiệp
truyền thống sang lâm nghiệp xã hội (LNXH). Chấp nhận mọi thành phần kinh tế tham gia
vào quản lý và phát triển rừng, đặc biệt là cộng đồng dân cư sống trong và gần rừng. Đây
là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước hướng tới mục tiêu tạo ra một diện tích rừng
đủ lớn, qu
ản lý bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống của người dân địa phương. Tuy nhiên đối với phát triển Lâm nghiệp xã hội
còn nhiều bất cập, hạn chê do thiếu kiên thức, kỹ năng, phương pháp tiếp cận, thực hiện
chính sách chưa đồng bộ,
Để giúp cho cán bộ làm công tác ở địa phương có tài liệu tham khảo trong phổ cập
và phát tri
ển lâm nghiệp, Khoa Lâm nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên được
sự hỗ trợ của Dự án Hỗ trợ lâm nghiệp xã hội giai đoạn II (1998 -2004) đã triển khai
nhiều thử nghiệm về xây dựng mô hình cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ rừng, phát
triển công nghệ có sự tham gia. Các thử nghiệm này đã đem lại kết quả nhất đinh, được
cộng đồng chấp nhậ
n. Để khuyên cáo và nhân rộng kết quảđó, nhóm nghiên cứu xin giới
thiệu cuốn sách "Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển lâm nghiệp xã
hội". Nội dung cuốn sách gồm 4 phần chính, do các các tác giả biên soạn như sau:
PGS.TS. Đặng Kim Vui -Chủ biên, trực tiếp biên soạn Phần 1 : Giới thiệu chung và
Phần 3: Phương pháp tiếp cận LNXH.
ThS. Nguyễn Văn Mạn biên soạn Phần 2: Giới thiệu về LNXH.
TS. Lê Sỹ Trung, ThS. Đặng Thị Thu Hà biên soạn Phần 4 : Kết quả áp dụng phương
pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển LNXH cấp thôn bản.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với độc giả và rất mong nhận được sự
góp ý để hoàn thiện trong lần xuất bản sau.
Nhóm tác giả
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB: .Asian Development Banh (Ngân hàng Phát triển châu Á)
AEA: Agro - Ecological Analysis (Phân tích sinh thái nông nghiệp)
CSHT: Cơ sở hạ tầng
D&D: Design & Diagnostic (Chẩn đoán và Thiết kế)
FAO: Food and Agriculture Organization (Tổ chức Nông - Lương thế giới)
FSP: Social Forestry Support Programme (Chương trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội)
FSR: Farming System Research (Nghiên cứu hệ thống canh tác)
GTZ: Gesellschaft fur Technische Zurammentracbeit (Cơ quan phát triển kỹ thuật Đức)
HGĐ: Hộ gia đình
ICRAF: Intemational Center for Research in Agroforestry (Trung tâm quốc tế nghiên
cứu nông lâm kết hợp)
KHKT: Khoa học kỹ thuật
LN: Lâm nghiệp
LNTT: Lâm nghiệp truyền thống
LNXH: Lâm nghi
ệp xã hội
NLKH: Nông lâm kết hợp
NLN: Nông lâm nghiệp
NN & PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PRA: Participatory Rural Appraisal (Đánh giá nông thôn có sự tham gia)
PTD: Participatory Technology Development (Phát triển công nghệ có sự tham gia)
PTNT: Phát triển nông thôn
QLBVR: Quản lí bảo vệ rừng
SOWT: Strength - Opportunity - Weakness - Threats (Điểm mạnh -Điểm yếu - Cơ hội -
Thách thức)
TB: Trung bình
TOT: Training of trainers (Đào tạo tập huấn viên)
UNDP: United Nation Development Programme (Chương trình phát triển Liên hợp
quốc)
Phần 1 GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 GIỚI THIỆU
Dự án hỗ trợ lâm nghiệp xã hội (SFSP) giai đoạn II bắt đầu thực hiện từ đầu năm
1998 và kéo dài đến năm 2004, do Chính phủ Thuỵ Sỹ tài trợ nhằm nâng cao năng lực cho
cán bộ giảng dạy, phổ cập trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, tạo kiến thức,
nghiên cứu chuyển giao và trao đổi thông tin. Dự án gồm 7 đố
i tác, đó là Trường Đại học
Lâm nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Trường Đại học Nông
Lâm Huế, Trung tâm Khuyến nông khuyến lâm tỉnh Hoà Bình, Viện Nông hoá thổ
nhưỡng, Trường Đại học Nông Lâm Thủ Đức và Đại học Tây Nguyên dưới sự hỗ trợ của
một văn phòng Trung ương ở Hà Nội.
Dự án đã thực hiện nhiều hoạt động ở các địa phương trong đó mộ
t hoạt động không
thể không kể đến là hoạt động nâng cao năng lực cho cán bộở hiện trường về tổ chức, tập
huấn, chuyển giao kỹ từ uất nông lâm nghiệp. Các kết quả vềđào tạo phổ cập, tạo lập
nhóm sở thích, phát triển công nghệ có sự tham gia, trong quản lý phát triển rừng được
thực hiện ở hầu hết các vùng miền trong nước, cho các đối tượng dân tộc khác nhau
đã
được tổng kết đánh giá và đang được sử dụng để phân tích cộng đồng, lập kế hoạch, phát
triển công nghệ có sự tham gia, giám sát đánh giá trong phát triển lâm nghiệp xã hội trong
những năm tiếp theo.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CUỐN TÀI LIỆU
LNXH mới ra đời, về phương pháp luận, nhìn nhận đánh giá còn nhiều quan điểm
khác nhau, có người người cho rằng LNXH là một ngành, có người cho rằng LNXH là
m
ột phương pháp tiếp cận, Để có tiếng nói chung thống nhất, mọi người cho rằng cần
phải có nhiều trải nghiệm thực tiễn.
Dự án Hỗ trợ LNXH do Chính phủ Thuỵ Sỹ tài trợ giai đoạn 2 từ năm 1998 đến năm
2004 đã có nhiều hoạt động nhưđiều tra đánh giá hiện trạng phát triển 1âm nghiệp, đánh
giá nhu cầu nguồn lực, phát triển chương trình, tạ
o kiến thức, trao đổi thông tin nhằm nâng
cao năng lực cho cán bộ lâm nghiệp.
Tham gia giai đoạn II của Dự án, Khoa Lâm nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên đã tiến hành nhiều hoạt động thử nghiệm trên hiện trường như: Đánh giá nông
thôn có sự tham gia của người dân, lập kế hoạch có sự tham gia, tạo lập các nhóm sở thích
trong phát triển bảo vệ rừng, phát triển công nghệ có sự tham gia. Các hoạt động thử
nghi
ệm này đã phần nào làm sáng tỏ hơn phương pháp phát triển LNXH ở cấp thôn bản.
Vì vậy việc biên soạn cuốn tài liệu "Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát
triển lâm nghiệp xã hội" là việc làm cần thiết nhằm chia sẻ kinh nghiệm với độc gia và
mong muôn:
Giúp cho cán bộ làm công tác phát triển nông thôn cấp cơ sở thay đổi cách tiếp cận
trong phát triển lâm nghiệp nói riêng và phát triển nông thôn nói chung;
Phổ cập rộng rãi kinh nghiệm lâm nghiệp xã hộ
i, giúp cán bộ lâm nghiệp nâng
cao kiến thức về lâm nghiệp xã hội; Giúp giảng viên có tài liệu hướng dẫn các cộng đồng lập kế
hoạch phát triển lâm nghiệp xã hội.
1 3. CẤU TRÚC CỦA CUỐN TÀI LIỆU Cuốn sách "Phương pháp tiếp cận có sự
tham gia trong phát triển lâm
nghiệp xã hội" bao gồm 4 phần chính như sau: Phần 1. Giới thiệu chung
Giới thiệu cho độc giả những thông tin về sự cần thiết củ
a cuốn tài liệu, cấu trúc nội
dung chính của tài liệu.
Phần 2. Giới thiệu về LNXH
Phần này giới thiệu cho độc giả về bối cảnh ra đời, khái niệm về lâm nghiệp xã hội,
sự khác nhau giữa LNXH và lâm nghiệp truyền thống (LNTT) và một số chính sánh liên
quan tới phát triển LNXH.
Phần 3. Phương pháp tiếp cận LNXH
Đây là phần quan trọng của cuốn tài liệu, giới thiệu về khái niệm tham gia,
điều kiện
và động lực thúc đẩy sự tham gia, các phương pháp tiếp cận có sự tham gia như: tiếp cận
có sự tham gia trong nghiên cứu LNXH, tiếp cận có sự tham gia trong đào tạo LNXH, tiếp
cận có sự tham gia trong nông lâm kết hợp (NLKH) và tiếp cận có sự tham gia trong
khuyến nông khuyến lâm.
Phần 4. Kết quả áp dụng phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển
LNXH cấp thôn bản
Phần này cung cấp một số kế
t quả, phương pháp, bài học kinh nghiệm có được trong
quá trình nghiên cứu hiện trường tại các thôn điểm, nhằm giúp bạn đọc tham khảo để từđó
sử dụng các kết quảđó một cách linh hoạt ở các địa phương có trình độ dân trí, phong tục
tập quán, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.
Phần II GIỚI THIỆU VỀ LÂM NGHIỆP XÃ HỘI
2.1. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA LNXH
2.1.1. Xu thế phát triển và nguyên nhân ra đời của LNXH
Từ những năm 1970 trở lại đây, ở một số nước trong khu vực châu Á đã bắt đầu xuất
hiện những xu thế mới trong việc quản lý, sử dụng tài nguyên rừng, đó là:
Xu thế phi tập trung hoá trong việc quản lý sử dụng tài nguyên rừ
ng thông qua việc
phân cấp trong quản lý, sử dụng, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quản lý
tài nguyên rừng, vai trò của người dân và cộng đồng địa phương được nâng cao;
Xu thế chuyển từ khai thác, lợi dụng gỗ sang sử dụng tổng hợp, đa dạng hoá sản
phẩm theo phương thức sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng;
Xu thế phát triển từ đơn ngành lâm nghiệp sang phát triển đa ngành theo hướng
phát tri
ển nông thôn tổng hợp;
-Xu thế quốc tế hoá trong việc phối hợp, liên kết các hoạt động lâm nghiệp.
Theo Donovan và Trần Đức Viên (1997), LNXH ra đời vào đầu những năm 1970, do
các nguyên nhân chủ yếu sau:
-Chính phủ các nước bị thất bại trong việc kiểm soát các nguồn tài nguyên rừng Sự
kém hiệu quả của lâm nghiệp dựa trên nền tảng công nghiệp rừng và sản phẩm gỗ thuần
tuý;
-Xu thế phi tập trung hoá và dân chủ
hoá trong việc quản lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên;
-Các nhu cầu cơ bản của nông dân về lương thực và lâm sản không được đáp ứng;
-Có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa nhà nước và cộng đồng cùng với người dân địa
phương đối với các sản phẩm của rừng.
Tại một số nước, LNXH đã được hình thành và phát triển dựa trên các sáng kiến của
cộng đồng như các cộng đồng t
ự đề ra các quy chế để kiểm soát, sử dụng các nguồn tài
nguyên rừng của họ, thành lập hệ thống tự quản và ra quyết định, xây dựng các cơ
chếđóng góp và chia sẻ lợi ích. Ở nhiều nước khác, LNXH được hình thành khi Chính phủ
các nước nhận thức được vai trò quan trọng của người dân trong việc bảo vệ và phát triển
rừng, các nước này trước hết đã xây dựng các chính sách khuyến khích người dân tham gia
vào các hoạt
động lâm nghiệp, tiếp theo là trao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ gia
đình. Các dự án LNXH chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ và giúp đỡ các hộ gia đình giải
quyết các nhu cầu thiết yếu và khuyến khích phát triển nông lâm nghiệp.
Sau những thất bại và kém hiệu quả của các chương trình LNXH trong giai đoạn đầu,
Chính phủ và các tổ chức quốc tế hỗ trợ các cộng đồng tham gia vào việc tự quản lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. LNXH ra đời và phát triển để tạo ra sự phát triển có hiệu
quả bằng việc giải quyết các vấn đề hưởng lợi tài nguyên rừng, hình thức lâm nghiệp cộng
quản giữa Chính phủ và cộng đồng đã xuất hiện và phát triển.
2.1.2. Các giai đoạn phát triển lâm nghiệp
Theo Wiersum (1994), quá trình phát triển lâm nghiệp trên thế giới trải qua các thời
kỳ với các cách tiếp cận khác nhau nhưng rất đặc trưng cho quá trình chuyển từ LNTT
sang LNXH. Quá trình phát triển lâm nghiệp ở châu Á được tiến triển theo các mốc với
các giai đoạn được khái quát trong Bảng 2 . 1 .
Bảng 2.1. Quá trình phát triển lâm nghiệp ở châu Á
(Nguồn: Đinh Đức Thuận, 2002).
• Giai đoạn trước năm 1950
Đặc trưng của giai đoạn này là lâm nghiệp thuộc địa và phong kiến. Quyền sở hữu
đất đai và rừng thuộc về các nhà tư sản nước ngoài, các chủ đồn điền. Một phần đất đai
thuộc về quyền tự quản của các cộng đồng. Hoạt động chủ yếu của lâm nghiệp là khai thác
vơ vét tài nguyên rừ
ng phục vụ cho "Mẫu Quốc" và giai cấp thống trị.
• Giai đoạn từ 1950 trên 1970
Các nước thực hiện quốc hữu hoá rừng và xác định quyền sở hữu, quản lý đất rừng
thuộc nhà nước. Lâm nghiệp nhà nước chiếm vị trí chủ đạo. Hoạt động lâm nghiệp chủ
yếu vẫn dựa vào khai thác gỗ nhưng tập trung nhiều cho xuất khẩu sang các nước phát
triển. Ở
giai đoạn này, tài nguyên rừng ở hầu hết các nước bị tàn phá nghiêm trọng, tỷ lệ
tàn che giảm sút nhanh chóng.
• Giai đoạn từ 1971 đến 1990
Chính phủ huy động nhân dân địa phương vào bảo vệ và phát triển rừng. Một phần
rừng và đất ừng được giao cho các hộ gia đình quản lý. Các chương trình LXNH ra đời với
mục tiêu trợ giúp cho sự phát triển và thoả mãn các nhu cầu về lâm sản của người dân. Các
n
ước giảm dần lượng khai thác gỗ. Hoạt động lâm nghiệp đã hướng vào khai thác, lợi
dụng tổng hợp theo hình thức nông lâm kết hợp, phát triển nhiều loại sản phẩm khác nhau,
chuyển từ sản xuất đơn ngành sang sản xuất đa ngành.
• Giai đoạn từ 1 991 đến nay
Chính phủ các nước tiếp tục phân cấp quản lý rừng theo hướng phi tập trung hoá, gia
tăng quyền hạn tự qu
ản cho chính quyền địa phương. Một phần rừng và đất rừng được
giao cho các cộng đồng địa phương theo hướng lâm nghiệp cộng đồng. Chính phủ các
nước và các nhà tài trợ đầu tư cho các dự án phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Xu hướng
cộng quản giữa chính phủ và các cộng đồng tăng lên. Nông lâm kết hợp, phát triển nông
thôn tổng hợp theo hướng phát triển đa ngành đã trở thành phương thức hoạ
t động phố
biến của ngành lâm nghiệp.
Qua các giai đoạn phát triển lâm nghiệp trên, ta thấy bắt đầu từ những năm 1970 có
thêm các hình thức quản lý bảo vệ và phát triển rừng mới, đó là lâm nghiệp hộ gia đình và
lâm nghiệp cộng đồng. Những năm 1990 xuất hiện thêm hình thức lâm nghiệp cộng quản.
Các hình thức quản lý rừng mới này là dấu hiệu xuất hiện và phát triển của LNXH.
Trước 1950 1950 - 1970 1971 - 1990 Từ 1991 đến nay
Lâm nghiệp truyền thống
Lâm nghiệp thuộc địa
Mầm mống lâm
nghiệp cộng đông
Lâm nghiệp nhà
nước Lâm nghiệp tư
nhân
Lâm nghiệp hộ gia đình
Lâm nghiệp nhà nước Lâm
nghiệp tư nhân Lâm
nghiệp cộng đồng
Lâm nghiệp cộng đồng Lâm nghiệ
p
2.1.3. Bối cảnh ra đời của LNXH ở Việt Nam
Thuật ngữ LNXH bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam vào giữa thập kỷ 80. LNXH dần
dần được hình thành và phát triển cùng với quá trình cải cách kinh tế của đất nước. Sự
chuyển hướng từ một nền lâm nghiệp lấy quốc doanh làm chính sang một nền lâm nghiệp
nhân dân có nhiều thành phần kinh tế tham gia được xuất phát từ các bối cả
nh chủ yếu sau:
1) Thực trạng đời sống nông thôn, đặc biệt là nông thôn miền núi đang gặp nhiều khó
khăn, sự phụ thuộc của các cộng đồng vào rừng ngày càng tăng đòi hỏi phải có phương
thức quản lý rừng thích hợp
Hiện tại ở Việt Nam có khoảng 80% dân số sống ở vùng nông thôn, 27 triệu người
trong đó hơn 10 triệu người là các đồng bào dân tộc thiểu s
ố sống ở các vùng trung du và
miền núi. Mặc dù Chính phủđã có chương trình quốc gia hướng tới xoá đói, giảm nghèo
nhưng tỷ lệ hộ gia đình đói nghèo vẫn còn chiếm khá cao. Tỷ lệ này ở các tỉnh vùng cao
còn trên dưới 30%. Đa phần các hộ gia đình nghèo phải tập trung vào sản xuất lương thực,
chăn nuôi hay làm các ngành nghề phụ khác.
Sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng là một trở ngại lớn. Các vùng sâu
vùng xa sản xuất kém phát triển, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém cần nhiều đầu lư hỗ trợ
và thời gian mới tiến kịp miền xuôi. Mặc dù nhiều nơi ở trung du và miền núi đã và đang
hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây nguyên liệu, cây công nghiệp, cây ăn quả,
rau xanh; đang xuất hiện hàng vạn trang trại nông lâm nghiệp; song nhìn chung sản xuất tự
túc, tự cấp vẫn còn nhiều, cơ
cấu kinh tế chưa hợp lý, vẫn nặng về trồng trọt, sản xuất hàng
hoá chưa phát triển tại các vùng sâu vùng xa.
Sự phụ thuộc vào rừng của các cộng đồng miền núi về lương thực, thực phẩm được
sản xuất trên đất rừng, tiền mặt thu được từ bán lâm sản như gỗ, củi đất, ngày càng tăng
dẫn đến khai thác tài nguyên rừng quá mức, nhiều nơi r
ừng không còn có khả năng tái sinh
dẫn đến đồi trọc hoá. Những xung đột trong sử dụng tài nguyên rừng ngày càng nhiều.
Lâm nghiệp nhà nước không còn khả năng kiểm soát có hiệu quả việc quản lý tài nguyên
rừng. Trong bối cảnh như vậy cần phải có một phương thức quản lý rừng thích hợp, làm
sao vừa đáp ứng được lợi ích của người dân địa phương vừa bảo vệ và phát triển tài
nguyên r
ừng. Lâm nghiệp xã hội được hình thành, xã hội chấp nhận và ngày càng phát
triển.
2) Ảnh hưởng của những đổi mới trong chính sách lánh tê theo hướng phi tập trung
hoá
-Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp trong thập kỷ 60 đến đầu thập kỷ 80 Sau cải cách
ruộng đất, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở
miền Bắc. Hình thức sản xuất hợp tác xã ở nông thôn miền Bắc đã phát triển ở đỉnh cao
vào giai đoạn từ 1960 đến 1975 khi miền Bắc là h
ậu phương vững chắc cho tiền tuyến,
thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, quan hệ sản xuất hợp
tác xã bộc lộ những nhược điểm như việc trả công theo công điểm, phân phối sản phẩm
theo định suất, đã tạo ra phân phối bình quân, không kích thích sản xuất. Do đó, năng
suất lao động nông nghiệp ngày càng thấp, thu nhập củ
a nông dân ngày càng giảm đã
khiến các hộ nông dân ngày càng ít quan tâm tới làm ăn theo kiểu hợp tác xã. Đây là cơ sở
ra đời Chỉ thị
100 nhằm bước đầu cải tiến công tác tổ chức sản xuất trong nông nghiệp trong hợp tác xã
theo hướng phi tập trung hoá.
-Khoán 100 năm 1981 (Chỉ thị 100) Mục đích của cuộc đổi mới quản lý hợp tác xã nông
nghiệp này là khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất để giải quyết v
ấn đề thiếu lương
thực đang trầm trọng ở Việt Nam. Để làm được như vậy, ruộng đất được chia cho cá nhân
nông dân trong thời gian hạn định với một phần phương tiện sản xuất. Sản phẩm thu được
theo năng suất khoán phải nộp vào hợp tác xã. Hợp tác xã chịu trách nhiệm phân chia sản
phẩm. Sản phẩm vượt khoán thuộc quyền sở hữu của nông dân. Hình thứ
c khoán này đã có
tác động đến tăng năng suất và sản lượng nông nghiệp. Tuy nhiên những mặt tích cực của
hình thức khoán này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Những yêu cầu mở rộng quyền tự
chủ và quyết định của nông dân ngày càng tăng và dẫn tới những đổi mới trong quản lý và
sản xuất nông nghiệp.
-Khoán 10 năm 1988 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị) Cơ chế khoán trong sả
n xuất nông
nghiệp theo Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị năm 1988 nhằm tiếp tục tăng trưởng sản
xuất nông nghiệp của đất nước. Phần lớn tư liệu sản xuất được giao cho hộ nông dân và họ
được chủ động sử dụng cho mục đích sản xuất ảnh hưởng của Nghị quyết 10 được nhận
thấy rõ rệt thông qua sản phẩ
m sản xuất nông nghiệp đã tăng và những thay đổi của các hệ
thống sản xuất nông nghiệp.
Các hệ thống sản xuất nông nghiệp ngày càng đa dạng và bắt đầu hướng vào sản xuất hàng
hoá hoặc sản xuất cho tiêu dùng tuỳ theo từng hộ.
-Luật Đất đai Luật Đất đai lần đầu tiên được ban hành vào năm 1988, được sửa đổi
và bổ sung
vào các năm 1993, 1998, 2004 được coi là m
ột trong những mốc quan trọng cho công cuộc
đổi mới quản lý nông nghiệp nhằm đảm bảo một hành lang pháp lý cho việc quản lý, sử
dụng tài nguyên đất đai một cách có hiệu quả và bền vững. Luật Đất đai 1993 là cơ sở
pháp lý rất quan trọng cho các hộ nông dân tự chủ sử dụng đất với 5 quyền cơ bản khi
nhận đất.
Những ảnh hưởng tích cực của Luật Đất đai được thấy rất rõ đối với các cộng đồng miền
núi, nơi đất đai và tài nguyên rừng đã và đang được giao cho các hộ gia đình, cộng đồng
quản lý, sử dụng lâu dài. Nông dân và cộng đồng được làm chủ thực sự trên các diện tích
đất được giao, họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, được hưởng thành quả
lao động chính đáng
và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước.
-Luật Bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản dưới luật chủ yếu về lâm nghiệp Luật
Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, sửa đổi năm 2004 là cơ sở quan trọng cho phát triển
LNXH tại các vùng nông thôn miền núi. Phân chia 3 loại rừng, quyền giao đất lâm nghiệp,
quyền hợp đồng khoán kinh doanh rừng của các hộ nông dân và tổ chứ
c cộng đồng có tư
cách pháp nhân đã được luật pháp hoá. Nghị định số 02/CP của Chính phủ năm 1993,
Nghị định số 163/CP của Chính phủ năm 1998 và các văn bản liên quan khác đã tạo điều
kiện cho nhân dân nhận đất, nhận rừng để góp phần phát triển LNXH ở nước ta.
3) Những hạn chê trong quản lý tài nguyên rừng của lâm nghiệp quốc doanh cần được
thay thê bằng các hình thức quản lý phù hợp vớ
i thời kỳ mới
Ngành lâm nghiệp hiện đang quản lý khoảng 19 triệu ha rừng và đất rừng. Cho đến
cuối thập kỷ 80, Nhà nước quản lý lâm nghiệp thông qua một hệ thống các liên hiệp xí
nghiệp lâm nghiệp, lâm trường quốc doanh. Hệ thống này đã từng có trên 700 lâm trường
quốc doanh với trên 10 vạn lao động là công nhân lâm nghiệp có nhiệm vụ tổ chức sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp. Bên cạnh đó, hệ th
ống Kiểm lâm có vai trò quản lý và bảo vệ
rừng. Mặc dù vậy những vụ vi phạm rừng ngày càng tăng thông qua các hình thức khai
thác lâm sản bất hợp pháp, đất nương làm rẫy. Hệ thống quản lý lâm nghiệp tỏ ra kém hiệu
quả như: lâm trường quốc doanh kinh doanh kém hiệu quả, nhiều lâm trường thua lỗ,
không có khả năng tái tạo rừng; lực lượng kiểm lâm không đủ sức ngăn chặn các vụ vi
phạm r
ừng. Cuối thập kỷ 80 nhiều quan điểm mới trong quản lý và sử dụng tài nguyên
rừng xuất hiện cùng với quá trình cải cách quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Đó là các
chương trình giao đất, phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng các trại rừng, các cộng đồng
quản lý lâm nghiệp. LNXH được hình thành trong bối cảnh này vừa theo tính tất yếu, vừa
được sự hỗ trợ của xu thế mới.
4) Trào lưu
một loại hình lâm nghiệp mới -lâm nghiệp cộng đồng đang xuất hiện trong
khu vực
Vào cuối thập kỷ 80, các hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế về LNXH được tổ chức
tại khu vực có ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam trong quá trình bắt đầu mở cửa". Sự hội
nhập là một bối cảnh tết cho phát triển LNXH ở
Việt Nam. Các cuộc giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm với nước ngoài đã thúc đẩy cách nhìn mới về phát triển LNXH. Các chương
trình LNXH ở các nước châu Á được coi là những ảnh hưởng tích cực đến phát triển
LNXH ở Việt Nam.
5) Các chương trình hỗ trợ phát triển lãm nghiệp của các tổ chức quốc tê và phi Chính
phủđóng góp tích cực vào phát triển LNXH ở Việt Nam
Vào đầu thập kỷ 90 nhiều chương trình hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế,
Chính phủ và phi Chính phủ được thực hiện. Chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam -
Thụy Điển, các dự án của các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP, GTZ và của các tổ
chức
phi Chính phủđã áp dụng cách tiếp cận mới trong phát triển lâm nghiệp. Phải khẳng định
rằng, Chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - ThuỵĐiển có vai trò quan trọng đầu
tiên về phát triển khái niệm LNXH ở Việt Nam. Những khởi đầu cho cách tiếp cận mới là
các chương trình phát triển và cho đến nay các chương trình này luôn là những điểm đi
đầu trong phát triển LNXH ở nước ta.
Chính phủ Thuỵ S tài trợ Chương trình hỗ
trợ Lâm nghiệp xã hội trong giai đoạn
1994 - 2004 nhằm vào 3 mục tiêu quan trọng, đó là: phát triển nguồn nhân lực cho hoạt
động LNXH; tạo kiến thức cho việc đào tạo LNXH; trao đổi thông tin về LNXH. Chương
trình này đã và đang giúp cho Việt Nam phát triển giáo dục và đào tạo LNXH một cách
toàn diện.
2.2. KHÁI NIỆM VÀ QUAN ĐIẾM VỀ LNXH
2.2.1. Khái niệm về LNXH
Giữa thập niên 1970, những chuyển biến quan trọng trong tư tưởng v
ề vai trò của
lâm nghiệp trong phát triển nông thôn đã diễn ra, một dấu hiệu đầu tiên của tư tưởng mới
này là giới thiệu thuật ngữ LNXH tại ấn Độ vào năm 1970. Trong báo cáo của ủy ban
Nông nghiệp quốc gia ấn Độ, người dân nông thôn được khuyến khích tham gia bảo vệ và
tái tạo tài nguyên rừng và dược cung cấp lâm sản không mất tiền.
Năm 1978 Ngân hàng Thế giới đã xuất bản công trình nghiên cứu về các chính sách
lâm nghiệp, báo hiệu chuyển hướng từ nền lâm nghiệp lâm sinh - công nghiệp rừng sang
bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu địa phương, ủng hộ lâm nghiệp vì nhân dân địa
phương và khuyến khích người dân nông thôn tham gia vào lâm nghiệp ở địa phương.
Cũng năm 1978, Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc (FAO) bắt đầu chương
trình lâm nghiệp mới "Lâm nghiệp vì sự phát triển cộng đồng địa phương" và
ấn hành bản
tổng quan về vai trò của lâm nghiệp phục vụ phát triển cộng đồng địa phương, trong đó
thuật ngữ LNXH đã được nêu ra. LNXH được tiến hành thông qua hoạt động của các nông
hộ riêng lẻ hoặc thông qua những hoạt động liên quan đến cộng đồng như một tổng thể
(FAO, 1978). Hội nghị Lâm nghiệp lần thứ VIII năm 1978 tổ chức tại Jakarta thừa nhận xu
hướng LNXH và
được quảng bá rộng rãi, nhanh chóng, mạnh mẽ vì ý nghĩa nhân văn của
nó. Từđó thuật ngữ LNXH được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước.
Mặc dù vậy cho đến nay khái niệm LNXH vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hoá, kinh tế - xã hội và ý thức hệ của mỗi dân tộc, nên
khái niệm LNXH được dịch ra theo rất nhiều cách khác nhau ở mỗi quố
c gia. Điều đó dẫn
tới các ý kiến tranh luận để tìm ra sự tách bạch rạch ròi giữa các nhóm thuật ngữ khác
nhau, mà nguyên nhân chỉ là do cách định nghĩa không đồng nhất (Donoran và Fox,1997).
Hơn nữa LNXH là một quá trình phát triển liên tục, vì vậy sau hơn 20 năm tồn tại và phát
triển, hiện nay vẫn đang còn có nhiều tên gọi và khái niệm khác nhau về LNXH.
Theo FAO (1978), LNXH là tất cả những hình thức hoạt động mà trong đó người dân
địa phương liên kết chắc chế với hoạt động lâm nghiệp. Những hình thức này rất khác
nhau từ việc trồng các đám cây gỗ
(Woodlot -nguyên văn riêng Anh) ở những nơi thiếu hụt
gỗ và các lâm sản khác cho nhu cầu địa phương đến các hoạt động truyền thống của các
cộng đồng miền rừng như trồng cây lấy gỗ để cung cấp gỗ hàng hoá, chế biến lâm sản ở
nông thôn. Người ta còn nhấn mạnh LNXH phải là một bộ phận của phát triển nông thôn
và còn thừa nhận khái niệm cơ bản mà theo đó m
ục đích trung tâm của phát triển nông
thôn là giúp đỡ người nghèo từ sự cố gắng của chính họ. Lâm nghiệp hướng tới phục vụ
cho phát triển cộng đồng, do vậy, phải là một nền lâm nghiệp xuất phát từ người dân
(FAO, 1978). Cho nên ngay từ buổi đầu, LNXH được thiết lập trên sự tham gia của người
dân và hướng về nhu cầu của nông thôn, đặc biệt những người nghèo nhất trong số họ.
Wiersum (1994) nh
ận xét rằng, các quan niệm về LNXH có các ý nghĩa khác nhau là
do nguồn gốc của sự phát triển quan niệm này. Báo cáo của ấn Độ nêu bật vai trò của
LNXH như là sựđóng góp để cải thiện quản lý rừng. Trong khi tường trình của FAO chú ý
hơn đến hoàn cảnh phát triển nông thôn của LNXH cũng nhưđóng góp của nó đế cải thiện
việc sử dụng đất. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới lại nhấn mạnh đến sự cầ
n thiết phải
quan tâm hơn nữa đến sự phát triển LNXH và từ sự phát triển này ảnh hưởng đến cộng
đồng tại chỗ.
Sau những thảo luận về khái niệm và giải thích thuật ngữ LNXH, các khái niệm về
LNXH của FAO (1978); Srivastava và Phút (1979); Lantica (1982); Hoskins (1990);
Wiersum (1994); Si mon (1994) về cơ bản là đồng nhất đó là người dân nông thôn đảm
đương một phần của trách nhiệm quản lý tài nguyên rừng, đáp ứng nhu cầu liên quan đến
r
ừng của các nhóm dân cư thiệt thòi về quyền lợi thông qua những cố gắng của chính họ.
Thật sự khó đưa ra một khái niệm đầy đủ và được mọi nơi chấp nhận, nhưng với mục
tiêu của LNXH là phát triển nông thôn và đặt nặng sự tham gia của người dân thì có thể
hiểu một cách tổng quát LNXH là sự tham gia của cộng đồng nông thôn trong quản lý tài
nguyên rừng và phục vụ cho phát triển nông thôn. Các hoạt độ
ng LNXH thích hợp với mọi
hình thức sở hữu đất đai, LNXH cũng loại trừ bất cứ hình thức lâm nghiệp nào mà chỉ kinh
doanh bằng hình thức thuê mướn và trả công.
Theo Dõi Gilmour (1997) một số tên thường được gọi hiện nay là: Lâm nghiệp cộng
đồng, Lâm nghiệp cộng quản, Lâm nghiệp có sự tham gia, LNXH. Sự khác biệt này dựa
trên nhiều góc độ xã hội khác nhau, quan trọng là tổ chức nào chịu trách nhiệm chủ yếu
trong quả
n lý tài nguyên rừng, trách nhiệm quản lý rừng của cộng đồng, các nhóm của
cộng đồng, nông hộ, trình độ kiểm soát, sử dụng hoặc sở hữu hiện nay của nhà quản lý
rừng. Những ý nghĩa này ít nhiều đề cập đến mức độ tham gia.