Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.25 KB, 4 trang )
Triệu chứng học tuyến thượng thận
1. Giải phẫu và sinh lý tuyến thượng thận.
1.1. Giải phẫu:
Tuyến thượng thận là một tuyến nội tiết nhỏ nằm sau phúc mạc, giống như hình
chóp nón nằm áp sát cực trên của quả thận hai bên, nặng 5 - 6 gam, rộng 3 - 5cm,
cao 2 - 4cm.
Tuyến thượng thận được chia làm 2 phần: vỏ và tủy.
+ Vỏ thượng thận:
Vỏ thượng thận được chia 3 lớp: lớp ngoài cùng là lớp cầu hay còn gọi là lớp
cung, giữa là lớp bó, trong cùng là lớp lưới.
- Lớp cầu: gồm các tế bào chứa ít lipid, nằm ngang dưới bao, tiết ra aldosteron.
- Lớp bó: dày nhất, gồm các tế bào song song chứa nhiều lipid hơn, tiết cortisol và
corticosteron (hydrocortison).
- Lớp lưới: ở phía trong cùng, nối liền với nhau thành một lưới không đều nhau
tiết ra androgen (hormon sinh dục).
+ Tủy thượng thận: màu hơi phớt hồng, tiết ra adrenalin và noradrenalin.
1.2. Sinh lý:
+ Sinh lý vỏ thượng thận:
- Aldosteron (corticoid khoáng): là một hormon liên quan đến chuyển hoá các chất
điện giải. Ở người bình thường, aldosteron làm tăng đào thải K+, H+; Na+ được
tái hấp thu ở ống lượn xa. Trong trường hợp bệnh lý, khi tuyến thượng thận tiết
quá nhiều aldosteron (cường chức năng thượng thận), K+ bị đào thải ra ngoài
nhiều, còn Na+ được tái hấp thu mạnh, dẫn đến tăng Na+ huyết, giảm K+.
Tóm lại: Khi tiết nhiều aldosteron dẫn đến ứ muối và giữ nước mà hậu quả là tăng
huyết áp (hội chứng Conn).
Ngược lại, khi bị suy chức năng tuyến thượng thận thì aldosteron tiết sẽ ít hơn, ion
Na+ không được tái hấp thu ở ống thận; K+ và H+ không được đào thải ra ngoài
nên dẫn đến tăng K+ máu (gặp trong bệnh Addison).
- Cortisol (hydrocortison): tham gia vào quá trình chuyển hoá protid, glucid và
lipid, làm tăng tân tạo glucogen từ protid và lipid, tăng tích luỹ glucogen trong