Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tìm hiểu chính sách tiền lương và xây dựng hệ thống trả công hợp lý _ 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.21 KB, 7 trang )

1

Lời nói đầu
Lương bổng là một trong những động lực kích thích con người làm việc hăng hái,
nhưng đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân gây trì trệ, bất mãn hoặc
từ bỏ công ty mà ra đi. Tất cả đều tùy thuộc vào trình độ và năng lực của các cấp
quản trị. Và luôn luôn là vấn đề "nhức nhối" của hầu hết các công ty ở Việt Nam.
Đây là một đề tài gây tranh luận sôi nổi trên diên đàn quốc hội Việt Nam trong
nhiều năm qua và hiện nay nó vẫn còn là đề tài nóng bỏng đối với Việt Nam.
Trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển như ở Việt Nam thì nhu cầu của con
người mới chỉ đảm bảo ở mức độ thấp, tối thiểu về ăn, mặc, ở, đi lại, nghỉ ngơi,
bảo vệ sức khỏe và học tập. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu được thể hiện
tập trung ở lợi ích kinh tế - động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động làm việc
và làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả. Lợi ích kinh tế theo C.Mác, là một
phạm trù kinh tế, biểu hiện của quan hệ sản xuất, được phản ánh trong ý thức,
thành động cơ hoạt động nhằm thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu vật chất của
các chủ thể tham gia lao động. Bất cứ một cá nhân hay tập thể lao động trước và
trong khi làm việc cũng đều suy nghĩ: mình được gì và có quyền lợi như thế nào
khi tham gia lao động. Vấn đề đặt ra là: mỗi nhà quản lý cần phải biết điều tiết hài
hoà các lợi ích không để lợi ích này xâm phạm hoặc làm tổn hại đến lợi ích không
để lợi ích này xâm phạm hoặc làm tổn hại đến lợi ích kia, mọi biểu hiện coi
thường lợi ích hoặc chỉ động viên chung chung như thời bao cấp trước đây đều
không có tác dụng động viên kích thích người lao động làm việc. Đại hội VII
Đảng cộng sản Việt Nam, sau khi đánh giá lại những thiếu sót, sai lầm của mình
2

trong công tác quản lý, đã khẳng định phải kết hợp hài hoà các lợi ích theo
nguyên tắc, lấy lợi ích của người lao động làm cơ sở, và mỗi chủ trương, chính
sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong đó có chính sách tiền lương phải xuất
phát từ lợi ích, nhu cầu và khả năng người lao động.
Để phù hợp với khái niệm mới về bản chất tiền lương trong nền kinh tế thị trường


ở Việt Nam, có một yêu cầu mới là phải làm cho tiên lương thực hiện đầy đủ các
chức năng của nó: chức năng thước đo giá trị là cơ sở để điều chỉnh giá cả cho
phù hợp mỗi khi giá cả (bao gồm giá cả sức lao động) biến động. Chức năng tái
sản xuất sức lao động nhăng duy trì năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên cơ
sở tiền lương bảo đảm bù đắp được sức lao động đã hao phí cho người lao động.
Chức năng kích thích bảo đảm năng suất lao động cho người lao động, duy trì
cuộc sống hàng ngày và dự phòng cho cuộc sống lâu dài của họ.
Để nền kinh tế Việt Nam phát triển sánh được cùng với bè bạn thì trước hết các
nhà máy, quản lý người phải xây dựng hệ thống trả công hợp lý trong các doanh
nghiệp. Vì vậy là một sinh viên, trong bước đầu tìm tòi, xấy dựng hệ thống trả
công hợp lý, việc mắc lỗi là điều khó tránh khỏi, do đó em rất mong được cô
hướng dẫn, chỉ bảo. sửa chữa những thiếu sót của em để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
Nội dung
I/ Khái niệm tiền công, tiền lương và một số khái niệm khác có liên quan tới tiền
công, tiền lương
3

Trong x• hội con người luôn phấn đấu để thoả m•n nhu cầu của mình. Sự phấn
đấu đó từ lâu đ• trở thành một trong những động lực chủ yếu kích thích con người
hoạt động hăng say, tích cực và cũn từ đó gây tác động cải tạo x• hội làm cho x•
hội càng văn minh hơn. cùng với sự phát triển của x• hội, nhu cầu của con người
không ngừng tăng lên, đa dạng hơn, phong phú hơn.
Xét vè mặt hệ thống, nhu cầu con người bao gồm hai hệ thống, nhu cầu sinh học
và nhu cầu x• hội học.
Nhu cầu sinh học là nhu cầu do bản thân họ sự sống đòi hỏi, còn nhu cầu x• hội là
nhu cầu do sự đòi hỏi của cuộc sống trong cộng đồng con người.
Qua quá trình phát triển của x• hội loài người cho thấy, ở mỗi thời kỳ, mỗi khu
vực tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất x• hội mà mức độ đáp ứng nhu
cầu tối thiểu của con người, của người lao động có sự khác nhau. Chính sự khác

nhau đó phản ánh mức sống cao hay thấp.
Mức sống tối thiểu được hiểu là mức độ thoả m•n nhu cầu tối thiểu của người lao
động trong một thời kỳ nhất định nào đó.
ở phương diện này, mức sống tối thiểu là cơ sở để xác định mức tiền lương tối
thiểu.
ở nước ta, trong chế độ tiền lương ban hành ngày 23 tháng 5 năng 1993, tiền
lương tối thiểu được hiểu như sau:
Tiền lương tối thiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động làm công việc đơn
giản nhất, ở mức độ nhẹ nhàng nhất và diễn ra trong một môi trường lao động
bình thường. Số tiền đó bảo đảm cho người lao động có thể mua được những tư
4

liệu sinh hoạt thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của bản thân và có dành một
phần nuôi con và bảo hiểm lúc hết tuổi lao động.
Xây dựng hệ thống trả công hợp lý là một vấn đề hết sức phức tạp. vì trong thực
tế có hai hình thức trả công đó là trả công theo sản phẩm và trả công theo thời
gian.
1. Hình thức trả công theo thời gian bao gồm hai chế độ theo thời gian giản đơn
và theo thời gian có thưởng.
a) Chế độ tiền công trả theo thời gian đơn giản là chế dộ trả công mà tiền công
nhận được của người công nhân nhận được do mức lương cấp bậc, bậc cao hay
thấp hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít. Chế độ trả công này chỉ
áp dụng ở những nơi khó định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc
thật chính xác.
b) Chế độ trả công theo thời gian có thưởng là sự kết hợp giữa chế độ trả công
theo thời gian đơn giản với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng
hoặc chất lượng đ• quy định. Chế độ trả cồng chủ yếu áp dụng đối với những
công nhân phụ làm việc phục vụ, công nhân làm việc ở những khâu sản xuất có
trình độ cơ khí hoá cao
2. Hình thức trả công theo sản phẩm: là hình thức trản công trong đó tiền công

được trả phụ thuộc vào mức lương cấp bậc, mức lao động, số lượng sản phẩm
thực tế được sản xuất ra và được nghiệm thu. Hình thức trả công teo snả phẩm
bao gồm các chế độ sau:
5

a) Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: là chế độ trả công theo sản
phẩm áp dụng đối với từng công nhân trong đó tiền công tỉ lệ thuận với số lượng
sản phẩm được sản xuất ra và được nghiệm thu.
Đơn giá = L/Q hay Đơn giá=L x T
L: lương cấp bậc công việc
Q: mức lương sản lượng
T: mức lương thời gian
Tiền công=Đơn giá x Qtt
Qtt: số sản phẩm thực tế sản xuất, nghiệm thu
b) Chế độ trả công theo sản phẩm tập thể đó là tiền công được trả cho một nhóm
người lao động cho khối lượng công việc mà họ đã thực hiện sau đó phân chia tới
từng người theo một phương pháp nhất định nào đó. Tiền công của mỗi người lao
động phụ thuộc vào mức lương cấp bậc thời gian làm việc thực tế, mức độ hoàn
thành mức lao động của cả nhóm.
hay ĐG =  Li x Ti
Li: mức lương cấp bậc của công việc i
Li: tổng lương cấp bậc của cả nhóm công nhân
Ti: mức lương thời gian của công việc i
I: lương cấp bậc bình quân của cả nhóm công việc
c) Chế độ trả công theo sản phẩm gián tiếp: là chế độ trả công áp dụng cho những
công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoạt động
lao động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm.
6



ĐG = LMxQ

ĐG: đơn giá lương sản phẩm của công việc phụ hay phục vụ
L: lương cấp bậc của công nhân phụ hay phục vụ
Q: mức sản lượng của công nhân chính
M: số máy được công nhân phụ phục vụ
d) Chế độ trả công khoán: được áp dụng cho những công việc nếu giao cho từng
chi tiết bộ phận công việc sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công
việc cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Đơn giá tính theo
hai cách:
- Xây dựng đơn giá cho một đơn vị công việc.
Tiền công khoán= Đg khoán cho 1 đơn vị x khối lượng công việc
- Trả cho cả một khối lượng công việc.
đ) Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng: Đó là các chế độ trả công theo sản
phẩm nói trên kết hợp với các hình thức tiền thưởng.
LTH=L+L(m.h)
LTH: tiền công theo sản phẩm có thưởng.
L: tiên công tính theo đơn giá cố định
M: % tiền thưởng cho 1% vượt mức chỉ tiêu tiền thưởng
H: % hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng.
7

e) Chế độ trả công theo sản phẩm luỹ tiến: là chế độ trả công áp dụng cho khâu
thiết yếu hoặc khâu quan trọng của sản xuất mà công việc tăng năng suất lao động
ở đó có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những bộ phận sản xuất khác có liên quan
góp phẩn hoàn thành vượt mức kế hoạch của xí nghiệp.
Sử dụng hai loại đơn giá:
- Đơn giá cố định trả cho tất cả các sản phẩm đ• hoàn thành.
- Đơn giá luỹ tiến để trả công cho tất cả các sản phẩm vượt mức khởi điểm.
II/ Các yếu tố tác động đến mức lương

1. Môi trường của công ty
a) Chính sách của công ty: Tiền lương vừa là một chi phí tốn kém vừa là một loại
tài sản. Chi phí tốn kém phản ánh qua chi phí lao động. Trong các ngành dịch vụ,
chi phí lao động chiếm vào khoảng 50% tổng chi phí. Tuy nhiên tiền lương là một
loại tài sản vì nó thúc đẩy nhân viên lỗ lực. Nó là một tiềm năng ảnh hưởng tới
hành vi làm việc của nhân viên, thúc đẩy nhân viên làm việc có năng suất lao
động cao hơn. Tiền lương thưởng giúp cho nhân viên cải tiến công tác, gia tăng
năng suất, và tỉ lệ số người bỏ việc sẽ thấp hơn.
b) Bầu không khí văn hoá của công ty
Bầu không khí văn hoá của công ty ảnh hưởng rất lớn tới cách tuyển chọn nhân
viên, đến thái độ của cấp trên và cấp dưới, đến hành vi công tác, và do đó nó ảnh
hưởng đến việc sắp xếp tiền lương và thưởng cho nhân viên.
c) Cơ cấu tổ chức của công ty cũng ảnh hưởng tới cơ cấu tiền lương. Trong một
công ty lớn có nhiều giai tầng, nhiều cấp quản trị thì quản trị cấp cao thường

×